Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Bài soạn sáng kiến kn chính tả lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.54 KB, 22 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Tên đề tài:
Một số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh viết đúng trong giờ chính tả.
Người thực hiện :
Trường:

I. Vị trí của mơn chính tả:
Chính tả là một trong những phân môn Tiếng Việt Tiểu học. Theo
định nghĩa trong một số từ điển chính tả là viết đúng, hợp với chuẩn những
quy tắc về cách viết chuẩn lời nói sang dạng thức nết vào hoạt động giao
tiếp. Nếu tập viết dạy học sinh biết viết, tức là hoạt động tạo ra chữ, thì
chính tả dạy cách tổ chức, kết hợp các chữ đúng quy ước của xã hội để làm
thành hiện thức hố ngơn ngữ.
Chữ viết là kí hiệu bằng hình ảnh thị giác (các hình nét) ghi lại tiếng
nói. Mỗi hình nét tương ứng với một đoạn âm thanh có ý nghĩa của tiếng
nói. Một tổ hợp gồm các chuỗi hình nét được liên kế theo những cách thức
nhất định (dạng thức viết của ngôn ngữ) để ghi lại lời nói âm thanh và trở
thành phương tiện truyền đạt nội dung trong lời nói. Chính tả thực hiện
những quy ước xã hội đối với chữ viết; đề phòng, ngăn ngừa sự vận dụng
tuỳ tiện, vi phạm các quy ước làm trở ngại cho tri giác ngơn ngữ trong q
trình giao tiếp.
Trẻ em đến tuổi học, thường bắt đầu quá trình học tập bằng chữ viết.
ở giai đoạn đầu tiên (bậc tiểu học) trẻ em tiếp tục được hồn thiện năng lực
nói tiếng mẹ đẻ. Trẻ em biết chữ mới có phương tiện để học Tiếng Việt và
học các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội khác. Mà muốn biết đọc
thông viết thạo, trẻ em phải được học chính tả. Chính tả là phân mơn có tính
chất cơng cụ. Nó có vị trí quan trọng trong giai đoạn học tập đầu tiên của trẻ
em.
II- Cơ sở lý luận
Viết đúng chính tả khơng chỉ là những vận động của cơ bắp như sự
phối hợp thuần thục các ngón tay, bàn tay, cổ tay, cánh tay mà cịn là thao


tác trí óc của người viết.
Việc hình thành kỹ năng chính tả khẳng định vai trị của ý thức. Kĩ
năng chính tả có ý thức phải đạt tới mức độ tự động hoá một cách tự giác.
Để viết đúng chính tả nếu đã nắm được sự phân tích cấu trúc âm đoạn của
âm tiết và thuộc bảng chữ cái, thì chỉ việc phát thành tiếng hay đọc thầm


từng âm tiết và biểu hiện cách kết hợp chữ cái để thể hiện các âm đoạn theo
trật tự của chúng.
III - Cơ sở thực tiễn:
Trong những năm gần đây học sinh viết chính tả thường mắc nhiều
lỗi. Một số em chưa nắm được quy tắc chính tả đơn giản. Điều đó đã gây
ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự tiếp thu tri thức văn hố, khoa học.
Học sinh viết khơng đúng làm ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp, tư
duy. Học sinh khơng thể chuyển lời nói dưới dạng văn bản viết - vốn là một
loại văn bản có khả năng chuyển đạt và bảo lưu mọi tư tưởng của lồi người
qua mọi thời gian và khơng gian trong mọi hoàn cảnh và với mọi đối tượng
sử dụng.
IV- Biện pháp tiến hành:
Qua thực tế giảng dạy, để có định hướng đúng trong q trình sửa lỗi
chính tả cho học sinh, tơi đã tìm hiểu ngun nhân viết sai chính tả của các
em. Có thể nêu một số ngun nhân chính sau đây:
a. Do ảnh hưởng của phương ngữ, thổ ngữ:
Phương ngữ biến dạng của ngơn ngữ tồn dân ở địa phương cụ thể
với những nét khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân về cách phát âm, dùng từ
hay diễn đạt.
Thổ ngữ là biến dạng của ngơn ngữ tồn dân ở phạm vi lãnh thổ nhỏ
hẹp hơn so với phương ngữ.
Học sinh thuộc phương ngữ Bắc Bộ có ưu điểm là không viết sai
thanh điệu và vần song thường hay viết lẫn lộn một số chữ in phụ đầu: tr/ch,

s/x, r/d/gi, l/n.
Để khắc phục hiện tượng này tôi áp dụng theo nguyên tắc kết hợp
ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa từ của chúng biểu hiện. Muốn
vậy cần đặt từ đó trong ngơn ngữ cạnh để học sinh dễ hiểu.
Ví dụ: Em để dành cho bé Hà chiếc kẹo. Em khơng giành lấy phần
hơn cho mình. Tơi thường xuyên cho các em luyện tập qua các dạng bài tập
như: Điền từ vào chỗ trống trong câu, dùng từ đặt câu.....điều này có tác
dụng rất lớn trong việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh;
b. Do hạn chế vốn từ:
Muốn viết đúng chính tả, người viết phải hiểu nghĩa của từ và cách
viết cụ thể của từ đó.
Ví dụ: muốn khi nào viết “truyện” khi nào viết “chuyện” người viết phải
phân biệt được sự khác nhau về nghĩa của hai từ này để từ đó rút ra cách viết
đúng chính tả.
- Viết là “truyện” khi muốn chỉ tác phẩm văn học được in (VD:
truyện ngắn, truyện cười.....)


- Viết là “chuyện” khi muốn chỉ một sự việc được kể lại (VD: câu
chuyện, chuyện tâm tình, hay chỉ một công việc cụ thể như: chưa làm nên
chuyện).
Trước khi viết một từ do giáo viên đọc, học sinh có thể hiểu nghĩa
cỉa từ đó bằng cách mơ tả sơ lược hoặc đặt câu với từ đó. Để giúp học sinh
nghe hiểu và chủ động viết đúng tơi có thể kết hợp “liên tưởng” hay “so
sánh” ngắn gọn về chữ khó viết ngay trong khi đọc chính tả [ví dụ: trăng
khuyết (khuyết trong khuyết điểm), đi làm nương (nương khác lương trong
lương thực)].
Một biện giúp học sinh viết đúng chính tả là luyện cho học sinh phát
âm đúng ví dụ so sánh phát âm l/n. Giáo viên nên tạo điều kiện cho học sinh
được phát âm và tri giác chữ viết, tạo điều kiện cho học sinh quan sát chữ

viết, tự phân tích tiếng (theo 3 bộ phận: phụ âm đầu, vần, thanh điệu) được
luyện theo thao tác chữ viết để ghi nhớ mặt chữ lâu hơn. Trong các tiết học
trước khi viết bài tôi cho học sinh viết bảng con, viết nháp phân tích tiếng
khó.
c. Do chưa thuộc quy tắc chính tả:
Muốn viết đúng quy tắc chính tả, học sinh phải học và nắm vững các
quy tắc chính trả trong tiếng việt. Trong giảng dạy, trước khi viết chính tả,
theo tôi giáo viên nên hướng dẫn học sinh nắm quy tắc chính tả trước khi
viết.
Ví dụ: Tìm những chữ trong bài phải viết hoa?A
Tại sao những chữ này phải viết hoa (tên riêng, đầu câu) từ đó học
sinh tự rút ra quy tắc chính tả. “Những chữ đầu câu và tên riêng phải viết
hoa” hoặc quy tắc ng/ngh, c/k, g/gh, i/y)
Nắm được nguyên nhân mắc lỗi của học sinh, giáo viên phải rèn
luyện về chính tả thơng qua các bài luyện tập. Đây cũng là phần củng cố,
trau dồi kĩ năng viết đúng chính tả một cách có hệ thống.
Ví dụ: Sau khi viết xong bài chính tả “Có cơng mài sắt có ngày nên
kim”- giáo viên cho học sinh làm bài tập củng cố quy tắc chính tả qua bài
tập:
Điền vào chỗ trống: c hay k?
- ........im khâu; .........ậu bé; ..........iên nhẫn; bà........ụ.
Một trong những yêu cầu quan trọng của việc dạy chính tả là giáo
viên phải chấm, chữa bài cho học sinh thật chu đáo và trách nhiệm cao. Tơi
đã thực hiện chấm tồn bộ học sinh trong bài chính tả. Chấm xong mỗi bài
chính tả của học sinh giáo viên thống kê các loại lỗi đã mắc từ đó có kế
hoạch rèn sửa chính tả cho các em. Trong khi chấm tôi dùng bút đỏ gạch
dưới những chữ viết sai chính tả và yêu cầu học sinh viết lại cho đúng chữ
mắc đã mắc lỗi để ghi nhớ, mỗi chứ 1-2 dòng. Qua việc thực hiện một số



biện pháp vừa nêu trên trong giờ dạy chính tả, qua một thời gian tôi thấy các
em học sinh lớp tôi đã đạt được một số kết quả nhất định.
V - kết quả:
Học sinh đã viết đúng chính tả một cách có ý thức, khơng bị viết sai
do chưa được biết, chưa được học.
Học sinh nắm được quy tắc chính tả - tạo thành thói quen. Ví dụ:
Chữ đầu dịng, đầu câu viết hoa.
Đứng trước i, e, ê, là ngh........
- Biết phân tích tiếng khó trươc khi viết.
- Do đó học sinh bị mắc lỗi giảm xuống rõ rệt, tốc độ viết nhanh hơn.
Lớp đạt danh hiệu viết sạch chữ đẹp chiếm tỷ lệ 82%
Trên đây là một số biện pháp của tơi trong giờ chính tả. Tơi rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2004


Phòng Giáo dục-Đào tạo quận Đống Đa
-----------------Sáng kiến kinh nghiệm
Tên đề tài
Áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học
sinh lớp 2
Người viết

: Nguyễn Thị Thành
Trường Tiểu học Cát linh
Năm học 2004 - 2005

“chương trình mới”

Phần I: Lý do chọn đề tài

Phân mơn kể chuyện ở tiểu học có một vị trí quan trọng. Nó góp
phần bồi dưỡng tâm hịn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn
học, phát triển tư duy và ngơn ngữ cho học sinh. Ngồi ra nó cịn nhằm nâng
cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng
ngơn ngữ. Chính vì vậy tiết kể chuyện địi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện
hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói - tập kể chuyện và phát triển ngôn
ngữ, bước đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện).
Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể
khá lý thú, cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ
ích... nhưng điều quan trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu
văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài. Đây chính là
yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Chương trình cũ, giờ kể chuyện giáo viên kể mẫu xong chỉ có các
câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? là những nhân vật nào? để
cho các em nhớ lại cốt truyện, sau đó là để các em kể lại theo đoạn và cả câu
chuyện. Với hình thức dạy kể chuyện theo chương trình cũ, nhiều khi học
sinh khơng thể nắm bắt được cốt truyện ngay trên lớp, trừ một số em đã đọc
truyện đó ở nhà một hai lần. Do đó hạn chế kỹ năng kể lại và nhận xét bạn
kể của các em. Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc rèn khả năng nghe, nói cho
học sinh.


Cái mới ở phân môn kể chuyện trong bộ SGK mới là khơng có
quyển Truyện kể dùng riêng cho các giờ Kể chuyện. Trên lớp, học sinh chỉ
kể lại hoặc dựng lại dưới hình thức hoạt cảnh những câu chuyện đã học
trong tiết tập đọc đầu tiên trong tuần.
Như vậy hình thức câu hỏi và bài tập sẽ chi phối phương pháp dạy
học trong giờ kể chuyện. ở chương trình mới, trong giờ kể chuyện giáo viên
chỉ là người điều khiển, hướng dẫn, còn học sinh là người chủ đạo trong giờ
học đó. Các em sẽ phải làm việc nhiều hơn, nghĩa là phải nói nhiều hơn và

nghe chăm chú hơn để nhận xét bạn kể. Do các câu chuyện tương đối ngắn
lại phân nhỏ ra làm nhiều đoạn, cho nên trong một tiết dạy học kể chuyện, số
lượng học sinh phải kể lại, phải nhận xét bạn kể lại cũng rất nhiều. Với cách
dạy học như thế công việc của giáo viên sẽ nhẹ nhàng hơn so với cách dạy
của chương trình cũ.
Xuất phát từ thực tế trên, tơi đã chọn đề tài: “áp dụng một số biện
pháp để rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2”.
Phần II: Cơ sở thực tiễn để giải quyết đề tài
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước địi hỏi phải
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Nhân tố quyết định thắng lợi là
nguồn lực con người Việt Nam trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao,
cho nên trước hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp
người lao động có những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát
triển đất nước trong giai đoạn mới. Điều này cần được bắt đầu từ giáo dục
phổ thông.
Năm 2003 - 2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thay sách giáo
khoa lớp 2 trên toàn quốc. ở chương trình tiểu học mới, phân mơn kể chuyện
có mối quan hệ gắn bó với các phân mơn khác như Tập đọc, Tập làm văn.
Nó có sự gắn bó khơng chỉ ở sự phân bố giờ học mà cịn ở nội dung dạy, thể
hiện rõ quan điểm tích hợp trong việc xây dựng chương trình ở chương trình
tiểu học mới, tạo ra một phong cách mới trong dạy học phân môn kể chuyện.
Việc lấy văn bản ở bài Tập đọc làm ngữ liệu cho giờ kể chuyện, giúp giáo
viên tiết kiệm được khá nhiều thời gian, giúp học sinh tìm hiểu truyện; ghi
nhớ cốt truyện. Do đó, chương trình đã dành được nhiều thời gian cho việc
rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Như chúng ta đã biết, việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh nhằm
đáp ứng mục tiêu giáo dưỡng mà chương trình đề ra là một việc làm khơng
dễ dàng, địi hỏi phải có sự đầu tư về thời gian và sự phối hợp chặt chẽ giữa
các phân môn. Kể chuyện không phải là phân mơn duy nhất có nhiệm vụ rèn
kỹ năng nói. Vì vậy chương trình Tiếng Việt tạo ra mối quan hệ giữa phân



môn kể chuyện với phân môn Tập đọc và Tập làm văn là một việc làm khoa
học.
Kể chuyện là khả năng sử dụng ngơn ngữ ở dạng nói có tính nghệ
thuật. Đây là một dạng đặc biệt của đối thoại.
Thực tế cho thấy kể chuyện có một sức hấp dẫn kỳ lạ, đặc biệt với
học sinh lứa tuổi tiểu học. Sức hấp dẫn đó khơng hề giảm đi dù câu chuyện
đã được các em đọc trước nhiều lần. Bởi lẽ khi kể một câu chuyện, người kể
khơng trình bày ngun văn một bản viết hay đọc lại văn bản đó, mà lúc này
người kể nhập vào một thế giới, khác với thế giới đang sống, đó là thế giới
của câu chuyện. Trong câu chuyện ấy, người kể lúc là người dẫn chuyện, lúc
lại là nhân vật này hoặc nhân vật khác. Người kể thể hiện tâm trạng của
những nhân vật khác nhau, khi thì vui sướng, hả hê, lúc lại buồn rầu, lo lắng.
Như vậy, kể chuyện thực sự mang tính tổng hợp. Nó sử dụng các hiểu
biết và kĩ năng dùng từ, đặt câu kĩ năng nghe, nói Tiếng việt, kĩ năng trình bày
trước cơng chúng. Nói cách khác đó là khả năng vận dụng những hiểu biết về
ngơn ngữ, lý thuyết sản sinh lời nói và sự hiểu biết về văn học... vào việc kể
chuyện.
Như vậy là học sinh đã được rèn luyện một hoạt động kĩ năng kể
chuyện, kĩ năng giao tiếp bằng lời của mình. Hệ thống các kĩ năng kể
chuyện cũng chính là hệ thống hoạt động sản sinh lời nói nhưng ở dạng kĩ
năng sản sinh văn bản mới.
Như vậy trên cơ sở hiểu biết về lý thuyết, lời nói, chúng ta có thể ứng
dụng để hướng dẫn học sinh hình thành những kĩ năng kể chuyện, giúp các
em kể tốt hơn và cũng là rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt khúc triết,
lưu lốt, ứng xử nhanh nhẹn, thơng minh.
Một trong những lý do khiến trẻ rất thích giờ Kể chuyện là các em
được kể chuyện cho người khác nghe. Các nhà nghiên cứu cũng cho thấy
rằng: trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc giao lưu với bạn, san sẻ những thu

nhận mới lạ của mình. Vì thế, kể lại cho cô, bố mẹ, ông bà... nghe là một
nhu cầu của học sinh tiểu học. Để giúp các em thỏa mãn nhu cầu đó, ngồi
việc vận dụng những hiểu biết về ngơn ngữ, lý thuyết sản sinh lời nói, giáo
viên cần giúp học sinh vận dụng những hiểu biết về văn học, vận dụng năng
lực cảm thụ văn học để lựa chọn cho mình giọng kể phù hợp. Ví dụ các em
nhận biết được trong câu chuyện đâu là lời thoại, đâu là lời dẫn chuyện, các
em sẽ có giọng kể khác nhau. Hay nếu các em cảm thụ tốt, hiểu được tâm
trạng của các nhân vật, tính cách, hồn cảnh của họ thì các em sẽ tìm được
giọng điệu thích hợp với từng tâm trạng, từng tích cách mà có khi người lớn
khó có thể hình dung được.
Như vậy, trong giờ kể chuyện, hầu như học sinh được phát huy tối đa
khả năng nói của mình. Ngồi ra, để hình thành kỹ năng kể chuyện cho học


sinh cịn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ chức của giáo viên. Phân
mơn kể chuyện của chương trình tiểu học mới đã rất tiến bộ khi đưa vào
những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng
nói của học sinh. Chẳng hạn về phương pháp: có phương pháp kể chuyện
bằng tranh, phương pháp đàm thoại, phương pháp nhập vai, phân vai. Về
hình thức tổ chức: hình thức lớp - bài, hình thức học theo nhóm... trong đó
hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Hình thức học này giúp học sinh bình
tĩnh, tự tin hơn và mạnh dạn nói ra ý kiến của mình. ở đây, học sinh được
tham gia nói nhiều hơn, được phát huy khả năng nói của mình.
Phần III: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua phân
mơn kể chuyện lớp 2, chương trình mới.
Trong cấu trúc SGK Tiếng Việt lớp 2, các câu chuyện được phân bố
như sau:
Thể loại truyện
Số lượngTên truyện
Thần thoại

Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
2
Truyền thuyết
Chuyện quả bầu
Sự tích cây vú sữa
Hai anh em
Cổ tích và cổ tích mới5
Bà cháu
Tìm ngọc
Ơng Mạnh thắng Thần Gió
Cười
0
Có cơng mài sắt có ngày nên kim
Chuyện bốn mùa
Một trí khơn hơn trăm trí khơn
Ngụ ngơn
6
Kho báu
Câu chuyện bó đũa
Quả tim khỉ
Ai ngoan sẽ được thưởng
Danh nhân lịch sử
3
Chiếc rễ đa trịn
Bóp nát quả cam
Khoa học
0
Người thực, việc thực 0
Sinh hoạt
10

Phần thưởng
Bím tóc đi sam
Chiếc bút mực
Mẩu giấy vụn
Người thầy cũ


Thể loại truyện

Số lượngTên truyện
Người làm đồ chơi
Bông hoa niềm vui
Sáng kiến của bé Hà
Con chó nhà hàng xóm
Những quả đào
Bạn của Nai nhỏ
Đồng thoại
3
Chim Sơn ca và bông cúc trắng
Bác sĩ Sói.
1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học:
Theo luật giáo dục về yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục tiểu
học thì: phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động của từng học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học
sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học là một khâu quan trọng không thể
thiếu được trong quá trình giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thể
hiện đậm nét trong chương trình mới ở chỗ:

Chương trình tiểu học mới tập trung vào cách dạy học, đặc biệt là giúp
học sinh biết cách học và có nhu cầu tự học, khuyến khích dạy học cá nhân và
dạy h ọc hợp tác để phát triển năng lực theo tốc độ học, khả năng của từng học
sinh.
Là một phân mơn nằm trong chương trình tiểu học mới, phân môn kể
chuyện lớp 2 cũng được dạy theo phương pháp mới. Trong giờ kể chuyện,
giáo viên chỉ nêu đầu bài, yêu cầu và mục đích của tiết kể chuyện. Học sinh
tự kể (cá nhân) hoặc nhóm theo các yêu cầu đó. Giáo viên chỉ là người đạo
diễn, hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh là diễn viên, là người thực hiện, chủ
đạo trong tiết kể chuyện đó. Giáo viên chỉ kể mẫu một lần, thậm chí giáo
viên không cần kể mẫu, mà gọi một học sinh khá kể mẫu, cho học sinh xung
phong kể mẫu. Còn lại các học sinh khác lần lượt kể theo đoạn và cả câu
chuyện bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong khi học sinh kể, chỗ nào các
em quên, lúng túng thì giáo viên nhắc một cách khéo léo, tế nhị hoặc mời
một học sinh khác nhắc giúp bạn học. Như vậy, trong giờ dạy học kể
chuyện, học sinh sẽ phát huy được khả năng nghe nói của mình một cách tối
đa. Hơn nữa giáo viên lại sử dụng các phương tiện dạy học như tranh ảnh,
một số dụng cụ thật với hình thức kể chuyện sắm vai, làm cho giờ học kể
chuyện thực sự sôi nổi, hấp dẫn.


Hình thức dạy học cũng được đổi mới: giáo viên có thể tổ chức dạy
học theo lớp, theo nhóm... Trước kia giáo viên chỉ dạy theo lớp là chủ yếu,
học sinh ít được học theo nhóm. Học theo hình thức mới này sẽ giúp cho học
sinh phát triển kĩ năng nói trước lớp, trước đám đơng.
Ví dụ bài: Con chó nhà hàng xóm (Tiếng Việt 2 - tập 1 trang 128)
yêu cầu dựa vào tranh kể lại từng đoạn câu chuyện đã học. Với tiết kể
chuyện này, giáo viên cho học sinh làm việc theo nhóm. Giáo viên cho học
sinh quan sát tranh 1, sau đó đặt câu hỏi gợi ý:
- Bạn của Bé ở nhà là ai?

- Bé và Cún Bơng đang làm gì?
Sau khi quan sát tranh 1, nghe giáo viên đặt câu hỏi, học sinh phải huy động
nhiều thao tác: nghe để nhớ câu hỏi, hiểu câu hỏi rồi các em vừa quan sát
tranh vừa nhớ lại nội dung câu chuyện đã được học để xác định nội dung câu
trả lời. Cuối cùng các em phải trình bày được câu trả lời của mình dưới hình
thức nói. Như vậy, để trả lời được câu hỏi, học sinh phải sử dụng nhiều thao
tác bộ phận của kĩ năng nói: nghe-nhớ, nghe-hiểu, xác định nội dung câu trả
lời, nói. Đó là từng hoạt động của từng học sinh, mỗi học sinh trong nhóm
thảo luận với nhau để tìm ra câu trả lời chính xác.
Sau khi học sinh đã nhớ lại được đoạn 1 của câu chuyện, giáo viên cho học
sinh kể. Đây là lúc các em bước đầu rèn luyện kĩ năng nói nhưng mới chỉ ở
dạng độc thoại. Lời kể của các em diễn ra liên tục, do đó các em ít có thời
gian để ngừng nghỉ, chuẩn bị. Chính vì vậy địi hỏi học sinh phải chuẩn bị
kĩ càng nội dung kể, tâm thế kể chuyện (thậm chí cả ngơn từ và các yếu tố
phụ trợ). Khi kể chuyện, ngồi việc tự nghe mình kể, các em còn phải lưu ý
quan sát những phản ứng từ người nghe, để có sự điều chỉnh phù hợp về nội
dung, giọng kể, điệu bộ...
Những học sinh khác, khi bạn kể chú ý nghe để nhận xét lời kể của bạn về
nội dung, về cách diễn đạt, cách thể hiện để bạn rút được kinh nghiệm và
chính bản thân các em cũng được bổ trợ những kinh nghiệm đó để điều
chỉnh mình khi kể.
Qua đây, ta thấy: rõ ràng phương pháp kể chuyện mới này đã có những tiến
bộ rõ rệt: trong tiết học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo còn học
sinh mới thực sự là người làm cho tiết học sôi nổi, hấp dẫn hơn. Bởi trong
tiết kể chuyện, hoạt động của học sinh chiếm 2/3 tiết học. Như vậy có nghĩa
là học sinh được chủ động trong việc nghe nói, đẩy ngơn ngữ nói của các em
lên một mức cao hơn.
2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh:
a. Thế nào là kể chuyện theo tranh?
Chúng ta cần phân biệt kể chuyện theo tranh và sử dụng tranh minh

hoạ cho truyện. Tranh ảnh là đồ dùng trực quan có thể được sử dụng trong


bất kì một mơn học nào. Nhưng các mơn học khác, sử dụng tranh khi giới
thiệu khái niệm hoặc nhằm minh hoạ cho khái niệm, nhưng ở tiết dạy kể
chuyện của chương trình cải cách giáo dục, giáo viên sử dụng tranh vẽ để
minh hoạ cho nội dung truyện, làm cho lời kể mẫu của mình sinh động và
hấp dẫn hơn. Cịn hình thức kể chuyện theo tranh của chương trình mới thì
hồn tồn khác. Giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ tranh vẽ thể hiện nội dung,
diễn biến của câu chuyện. Học sinh dựa vào tranh vừa là phương tiện trợ
giúp trí nhớ một cách đắc lực, vừa là công cụ làm cho việc thể hiện lại câu
chuyện một cách sinh động và hấp dẫn. Hình thức kể chuyện theo tranh là
hình thức rất hay, phát huy được khả năng quan sát, óc tưởng tượng, đặc biệt
là phát huy khả năng nói (ngơn ngữ) ở các em.
b. Hướng dẫn kể chuyện theo tranh của sách giáo khoa và sách giáo viên:
* Trong sách giáo khoa:
Đa số các câu chuyện đều được kể theo tranh, mỗi bức tranh sẽ tương ứng
với nội dung của một đoạn truyện, thường thì mỗi câu chuyện có từ 3 đến 4
đoạn nên có từ 3 đến 4 bức tranh minh hoạ. Nhưng cũng có những truyện có
từ 5 đến 6 đoạn nên được minh hoạ bằng 5 đến 6 tranh, ví dụ như truyện
Tìm ngọc (Tiếng việt 2-trang 140 tập 1).
Tranh sử dụng trong kể chuyện có hai loại: tranh kèm lời gợi ý (dùng trong
những tuần đầu năm học) và tranh không kèm lời gợi ý (dùng trong những
tuần sau).
Trong việc áp dụng biện pháp này, giáo viên có thể sử dụng tranh trong sách
giáo khoa hoặc vẽ tranh lớn treo trên bảng.
+ Hướng dẫn đối với những truyện có tranh kèm theo lời gợi ý: Ví dụ truyện
“Có cơng mài sắt có ngày nên kim” (lớp 2-tập 1), sách giáo viên hướng dẫn
như sau:
* Quy trình hướng dẫn:

- Cho học sinh quan sát từng tranh.
- Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý.
- Cho từng học sinh kể .
- Sau mỗi lần cho một học sinh kể, cho lớp nhận xét:
+ Về nội dung: Kể đã đủ ý chưa? Kể có đúng trình tự khơng?
+ Về cách diễn đạt: Nói đã thành câu chưa? Dùng từ có hợp khơng? Đã biết
kể bằng lời của mình chưa( mức độ cao)?
+ Về cách thể hiện: Kể có tự nhiên khơng? Đã biết phối hợp lời kể với điệu
bộ, nét mặt chưa? Giọng kể có thích hợp không?
* Kể theo tranh 1:
Câu hỏi gợi ý:
+ Cậu bé đang làm gì? Cậu đọc sách như thế nào?
+ Em hãy nhớ lại truyện đã đọc: Cậu bé tập viết như thế nào?


- Ví dụ về lời kể có sáng tạo: Ngày xưa có một cậu bé làm gì cũng chóng
chán. Cứ cầm đến quyển sách, đọc được vài ba dòng là cậu đã ngáp ngắn
ngáp dài, rồi gục đầu ngủ lúc nào khơng biết. Lúc tập viết, cậu cũng chỉ nắn
nót được mấy chữ đầu, rồi viết nguệch, viết ngoạc cho xong chuyện.
* Kể theo tranh 2:
Câu hỏi gợi ý:
- Tranh vẽ bà cụ đang làm gì?
- Cậu bé hỏi bà cụ điều gì?
- Bà cụ trả lời thế nào?
-C ậu bé có tin lời bà cụ nói khơng?
* Kể theo tranh 3:
Câu hỏi gợi ý:
- Bà cụ trả lời thế nào?
- Sau khi nghe bà cụ giảng giải, cậu bé làm gì?
Học sinh có thể tách lời giảng giải của bà cụ thành nhiều câu ngắn:

Hôm nay bà mài. Ngày mai bà lại mài. Mỗi ngày thỏi sắt nhỏ lại một ít.
Chắc chắn có ngày nó sẽ thành cái kim...
* Kể theo tranh 4:
Câu hỏi gợi ý:
- Em hãy nói lại câu tục ngữ.
- Câu tục ngữ khuyên em điều gì?
Như vậy, ta thấy: đối với những câu chuyện kèm theo lời gợi ý, sách giáo
viên đã hướng dẫn khá kĩ. Vì vậy, giáo viên nhìn hệ thống câu hỏi gợi ý này
có thể điều hành một tiết kể chuyện dễ dàng, cịn học sinh thì dựa vào hệ
thống câu hỏi đó có thể tự mình kể được câu chuyện.
Vậy là hình thức kể chuyện theo tranh đã phát huy được tác dụng của nó, đó
là việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh.
Để dạy được hình thức bài tập này đạt hiệu quả cao thì giáo viên khơng nên
trao đổi tất cả các tranh cùng một lúc. Kể đoạn nào giáo viên treo tranh đoạn
đó để thu hút sự tập trung của các em. Nếu nhìn tranh kể lại tồn bộ câu
chuyện thì mới treo tất cả tranh cùng một lúc.(Phần củng cố)
Hơn nữa, giáo viên nên cho học sinh quan sát dưới lớp trước, sau đó gọi các
em lên bảng kể và khuyến khích các em khi kể khơng cần nhìn chăm chú
vào tranh mà chỉ dùng tranh như một phương tiện làm cho lời kể hay hơn,
hấp dẫn hơn. Nghĩa là học sinh quay xuống lớp kể chỗ nào cần đến tranh thì
các em mới chỉ vào tranh.
3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp.
a. Thế nào là kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp?
Kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp là hình thức kể chuyện sử dụng dàn ý,
câu hỏi gợi ý để hướng dẫn học sinh kể chuyện. Trong tất cả các hình thức


kể chuyện thì đây là hình thức dễ nhất vì các tình tiết, diễn biến câu chuyện
đã được ghi lại (trong dàn ý hoặc câu trả lời), học sinh dựa vào đó để kể lại
truyện. Với các câu chuyện dài, nhiều tình tiết, giáo viên sử dụng hình thức

kể chuyện này sẽ giúp học sinh dễ dàng kể lại câu chuyện.
Ví dụ như truyện Kho báu (lớp 2-tập 2). Nói chung đây cũng là một truyện
khá dài, nhưng nếu giáo viên dùng hình thức hội thoại, giao tiếp trong tiết kể
chuyện sẽ giúp học sinh kể được câu chuyện dễ dàng hơn, đồng thời giúp
học sinh phát huy được khả năng nói của mình. Giáo viên có thể dùng dàn ý
dưới đây để giúp học sinh kể lại câu chuyện:
- Đoạn 1: Hai vợ chồng chăm chỉ.
+ Thức khuya dậy sớm.
+ Không lúc nào ngơi tay.
+ Kết quả tốt đẹp.
- Đoạn 2: Dặn con.
+ Tuổi già.
+ Hai người con lười biếng.
+ Lời dặn của người cha.
- Đoạn 3: Tìm kho báu.
+ Đào ruộng tìm kho báu.
+ Khơng thấy kho báu.
+ Hiểu lời dặn của cha.
b. Hướng dẫn học sinh kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp trong sách giáo
khoa và sách giáo viên.
* Trong sách giáo khoa:
Qua khảo sát sách giáo khoa lớp 2 chương trình mới ta thấy, đây cũng là một
hình thức phổ biến của phân mơn kể chuyện lớp 2 chương trình tiểu học
mới. Hình thức này khơng có yếu tố tranh ảnh phụ trợ. Song mỗi đoạn
truyện thường có 3-4 câu gợi ý ngắn, mỗi câu gợi ý chứa đựng nội dung tổng
hợp của đoạn truyện. Những câu gợi ý đó lại gợi lại trí nhớ, trí tưởng tượng
của học sinh một cách dễ dàng. Lệnh của hình thức kể chuyện bằng hội
thoại, giao tiếp thường là: “Dựa vào các gợi ý sau kể lại từng đoạn của câu
chuyện mới học”. Sau khi phát lệnh, giáo viên ghi gợi ý của từng đoạn lên
bảng và cho học sinh nhìn vào gợi ý đó để các em có thể kể lại. Tuy nhiên,

để cho hình thức này phát huy hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh thì giáo
viên khơng nên ghi những gợi ý đó lên bảng ngay, mà cần đưa ra câu hỏi
cho học sinh trả lời. Những câu hỏi này phải đảm bảo tính logic của truyện.
Như vậy, ở hình thức này, sách giáo khoa có những dạng bài tập cụ thể sau:
- Dạng 1: Sách giáo khoa đưa ra gợi ý hoặc dàn ý tương đối cụ thể để hướng
dẫn học sinh kể lại câu chuyện. Ví dụ: bài Chim sơn ca và bơng cúc trắng
(Tiếng Việt2-tuần 21). Có một số bài thay dạng bài tập này bằng dạng bài


tập “Dựa vào tóm tắt sau kể lại câu chuyện”. Ví dụ: Người làm đồ chơi
(Tiếng Việt 2-tuần 34).
- Dạng 2: Nêu những nhân vật trong câu chuyện, kể lại sự xuất hiện của
nhân vật, nhắc lại lời nhân vật. Ví dụ truyện Người thầy cũ (Tiếng Việt 2 tập 1), Bạn của Nai nhỏ(Tiếng Việt 2-tập 1),....
- Dạng 3: Tóm tắt nội dung của từng đoạn bằng một câu và đặt tên cho từng
đoạn truyện. Ví dụ truyện Một trí khơn hơn trăm trí khơn (Tiếng Việt 2 –
tuần 22).
* Trong sách giáo viên:
Thứ nhất: Dạng bài tập nhắc lại lời nhân vật trong truyện.
Ví dụ truyện “Bạn của Nai nhỏ” (Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: nhắc lại lời
của Nai bố khi Nai nhỏ kể về bạn, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
- Giáo viên cho học sinh nhìn lại tranh, nhớ và nhắc lại lời của Nai cha với
Nai nhỏ. (Có thể gợi ý: nghe Nai nhỏ kể lại hành động hích đổ hịn đá to của
bạn, cha Nai nói thế nào? Nghe Nai nhỏ kể chuyện người bạn đã nhanh trí
kéo mình chạy trốn khỏi con thú dữ, cha Nai đã nói gì? Nghe xong chuyện
bạn mình húc ngã lão Sói để cứu Dê non, cha Nai đã mừng rỡ nói với con
như thế nào?...)
- Vài học sinh nhắc lại những lời của Nai bố nói với con theo yêu cầu nói
trên; giáo viên nhận xét, uốn nắn( nếu cần).
Chú ý: Học sinh chỉ cần nhắc lại đúng ý cơ bản của lời nhân vật (Nai nhỏ,
Nai bố), không nhất thiết phải nêu nguyên các câu văn trong sách giáo khoa.

Như vậy, ở dạng bài tập này, sách giáo viên đã hướng dẫn khá cụ thể, chi tiết
tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi tiến hành tiết dạy kể chuyện. Giáo
viên không mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án. Cũng chính vì
vậy mà học sinh được rèn kĩ năng nói tốt hơn.
Thứ hai: Dạng bài kể lại sự xuất hiện của nhân vật.
Ví dụ truyện Người thầy cũ(Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: Câu chuyện gồm
có mấy nhân vật? Kể lại sự xuất hiện của nhân vật chính( chú bộ đội) ở đoạn
1, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
Dạy theo quy trình đã hướng dẫn. Chú ý:
+ ý nghĩ của Dũng.
- Các nhân vật trong câu chuyện: Dũng, chú bộ đội tên là Khánh (bố của
Dũng ) và là thầy giáo.
- Mở đầu câu chuyện: sự xuất hiện của nhân vật chính-chú bộ đội. Những
chi tiết chính cần kể:
+ Địa điểm diễn ra câu chuyện: trường của Dũng.
+ Thời gian diễn ra câu chuyện: giờ ra chơi.
+ Nhân vật: chú bộ đội.


+ Lí do xuất hiện của nhân vật: đến thăm thầy giáo cũ, cũng chính là thầy
giáo của con mình (Dũng).
- Kết thúc câu chuyện:
+ Bố của Dũng chào thầy giáo, ra rể .
Như vậy, cũng giống như dạng bài tập trên, ở dạng bài tập này, sách giáo
viên cũng hướng dẫn khá kĩ. Chắc chắn khi nhìn vào những gợi ý này học
sinh sẽ kể được truyện.
Thứ ba: Dạng bài tập dựa vào gợi ý, kể laị từng đoạn câu chuyện.
Ví dụ truyện “Chim sơn ca và bơng cúc trắng” (lớp 2 –tập 2), yêu cầu: Dựa
vào các gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện trên bằng lời của em;
sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:

Trước khi kể từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc thầm toàn bộ dàn ý câu
chuyện trong sách giáo khoa, trả lời:
- Truyện có mấy đoạn? Nơị dung chính của từng đoạn?
Truyện có 4 đoạn:
+ Đoạn 1: Cuộc sống tự do, sung sướng của Sơn Ca và Cúc.
+ Đoạn 2: Sơn Ca bị cầm tù.
+ Đoạn 3: Trong tù.
+ Đoạn 4 : Sự hối hận muộn màng.
- Giáo viên viết nội dung từng đoạn lên bảng.
Qua đây ta thấy: ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng đã hướng dẫn khá
kĩ. Điều đó giúp giáo viên rất nhiều trong giờ lên lớp tiết kể chuyện. Bởi
giáo viên không mất nhiều thời gian trong việc chuẩn bị giáo án, hơn nữa lại
giúp học sinh rèn kĩ năng nói tốt.
4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai:
a.Thế nào là kể chuyện phân vai?
Đây là hình thức thu hút được đông đảo học sinh tham gia. Khơng chỉ các em
tham gia đóng vai có thể hiện tính cách của nhân vật mà các em ngồi dưới theo
dõi, cổ vũ hết sức nhiệt tình. Chính sự hứng thú của học sinh là điều kiện tốt để
giáo viên rèn luyện kĩ năng nói, giao tiếp cho các em trong giờ kể chuyện.
Ví dụ khi phân vai dựng lại câu chuyện Quả tim khỉ (Lớp 2-tập 2) gọi 3 em:
một em đóng vai người dẫn chuyện, một em đóng vai Khỉ, và một em đóng
vai Cá sấu. Giọng người dẫn chuyện chậm rãi, nhẹ nhàng; giọng Khỉ ân cần
lúc hỏi han Cá Sấu và bình thản khi biết âm mưu của Cá Sấu; giọng Cá Sấu
buồn một cách giả dối, đặc biệt là con mắt của Cá Sấu thỉnh thoảng lại liếc
sang Khỉ để dò thái độ. Sau khi hướng dẫn xong, có thể giáo viên làm mẫu
cho học sinh xem.
Như vậy, những dạng bài tập hình thức kể chuyện phong phú đã thu hút, lôi
cuốn các em trong giờ kể chuyện, làm cho các em như sống lại với những
nhân vật trong truyện. Với niềm say mê của học sinh cũng như sự dạy dỗ tận



tình của giáo viên và phương pháp dạy học phù hợp thì giờ kể chuyện sẽ là
một mơi trường tốt để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói cho học sinh.
Sau đây là một giáo án minh họa
Bài Chuyện qủa bầu (lớp 2-tuần 32)
A.Mục tiêu:
Học sinh dựa vào trí nhớ và tranh minh hoạ, kể lại được từng đoạn của câu
chuyện theo hai hình thức: kể theo tranh, kể sáng tạo phần mở đầu.
+ Kể theo tranh: kể đoạn 1, 2.
+ Dùng hệ thống câu hỏi gợi ý kể lại đoạn 3.
+ Kể sáng tạo phần mở đầu : theo cách mở đầu trong sách giáo khoa.
B. Đồ dùng dạy học:
- Tranh minh hoạ(đoạn 1, đoạn 2 trong sách giáo khoa).
- Ba bảng phụ ghi lại gợi ý của đoạn 1, đoạn 2, đoạn 3 (như sách học sinh).
C.Các hoạt động dạy học chủ yếu:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
1.Kiểm tra bài cũ (7phút).
Trong giờ kể chuyện trước, các con
- Ba học sinh kể nối tiếp 3 đoạn của câu
đã được kể câu chuyện “Chiếc rễ đa
chuyện.
trịn.” Câu chuyện gồm 3 đoạn, cơ
- Câu chuyện nói lên tình thương bao la
mời 3 bạn kể nối tiếp 3 đoạn của
của Bác Hồ đối với mọi người, mọi vật
câu chuyện.
sống xung quanh. Một chiếc rễ đa tròn
- Giáo viên nhận xét, cho điểm
rơi xuống đất, Bác cũng thương, muốn

từng học sinh.
trồng lại cho rễ mọc thành cây, nhưng
- Câu chuyện “Chiếc rễ đa trịn” nói
cây Bác muốn trồng mọc uốn theo hình
lên điều gì?
vịng trịn làm chỗ vui chơi cho các cháu
- Giáo viên nhận xét, cho điểm.
thiếu nhi.
- Giáo viên nhận xét việc học bài
cũ của học sinh.
2.Bài mới:
a. Giới thiệu bài (2 phút).
- Bài Chuyện quả bầu.
-Trong tiết Tập đọc trước, các con
đã được học bài tập đọc gì?
- Học sinh làm theo lời giáo viên.
- Trong giờ kể chuyện hôm nay,
các con sẽ tập kể lại đoạn 1, đoạn 2
theo tranh, đoạn 3 theo gợi ý hướng
dẫn trong sách giáo khoa. Sau đó
kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách
mở đầu mới. Các con mở sách
Tiếng Việt trang 120 cho cô.


- Giáo viên ghi tên đầu bài lên -Học sinh quan sát tranh.
bảng.
b.Bài mới:
- Trong tranh vẽ 3 nhân vật: Con Dúi, vợ
* Dựa theo tranh, kể lại đoạn 1 và chồng người đi rừng.

đoạn 2 của Chuyện quả bầu.
+ Kể lại đoạn 1
- Giáo viên treo tranh (thể hiện nội - Con Dúi lạy van xin tha, hứa sẽ nói
dung của đoạn 1).
điều bí mật.
- Nhìn vào tranh, ai cho cơ biết, tác - Con Dúi mách: sắp có mưa to, gió lớn
giả vẽ mấy nhân vật trong bứclàm ngập lụt khắp miền, khuyên hai vợ
tranh này? Đó là những nhân vậtchồng cách phòng lụt.
nào?
- Giọng kể khoan thai, chậm rãi.
(Giáo viên ghi bảng: ghi vào phần gợi- Hai học sinh kể.
ý).
-Học sinh nhận xét.
- Con Dúi làm gì khi bị hai vợ- Bức tranh vẽ cảnh sau nạn lụt. Tác giả
chồng người đi rừng bắt?
vẽ cảnh hai vợ chồng vừa bước ra từ qủa
(Giáo viên ghi bảng: ghi vào phầnbầu. Họ thấy cảnh vật xung quanh đều
gợi ý: Con Dúi lạy van xin tha...) tàn tạ, héo úa.
- Con Dúi mách điều bí mật gì?
- Họ nghe lời khuyên của Dúi: lấy khúc
(Giáo viên ghi bảng: ghi vào phầngỗ to, khoét rỗng, chuẩn bị thức ăn đủ
gợi ý...)
bảy ngày, bảy đêm, rồi chui vào đó, bịt
- Đoạn này nên kể với giọng thế kín miệng gỗ bằng sáp ong, hết hạn bảy
nào?
ngày mới chui ra.
- Dựa vào tranh và những gợi ý trên, cô
mời các con kể lại đoạn 1 của câu
chuyện.
- Giáo viên gợi ý học sinh nhận xét

cách bạn kể: kể đúng, đủ ý chưa, đã
bám sát vào tranh chưa? Giọng kể
có thích hợp khơng, bạn dùng từ có
thích hợp khơng?
- Giáo viên nhận xét, cho điểm.
+ Kể lại đoạn 2
- Nhìn vào tranh cho cơ biết: bức
tranh vẽ cảnh gì? Hãy tả lại cảnh
đó.
- Như vậy, hai vợ chồng họ đã làm
cách nào để thoát khỏi nạn lụt?


(Giáo viên ghi bảng: vào phần gợi
ý...).
- Lên giọng khi kể về trận lụt xảy ra bất
- Đoạn này chúng ta nên kể với
ngờ, thấp giọng khi kể về cảnh vật sau
giọng như thế nào?
trận lụt.
- Cô mời một bạn kể lại đoạn 2 theo
gợi ý trên, chú ý thể hiện đúng giọng - Hai học sinh kể lại
kể.
- Giáo viên gọi học sinh nhận xét
bạn kể: đúng, đủ ý chưa? giọng kể - Học sinh nhận xét
có phù hợp không?
- Giáo viên nhận xét cho điểm
+ Kể lại đoạn 3:
- Khi sinh con, việc kỳ lạ gì đã xảy
ra đối với người vợ?

- Người vợ sinh ra quả bầu.
- Hai vợ chồng đi làm nương về, nghe
thấy tiếng cười đùa trên bếp. Lấy làm lạ,
họ lấy bầu xuống, áp tai nghe thì thấy
- Sau đó câu chuyện diễn biến thế
tiếng lao xao. Người vợ lấy que đốt
nào?
thành cái dùi, nhẹ nhàng dùi quả bầu. Từ
trong quả bầu, những con người bé nhỏ
nhảy ra.
- Giáo viên treo bảng phụ gợi ý đoạn
3
- Kể với giọng trầm, chậm, thể hiện sự
kỳ lạ xảy ra đối với hai vợ chồng; dừng
- Theo các con, đoạn 3 nên kể với
lại một lúc trước đoạn “Các con người
giọng như thế nào?
bé nhỏ nhảy ra từ trong quả bầu” để cho
người nghe hồi hộp.
- Con hãy dựa vào gợi ý, dùng
- Hai học sinh kể lại đoạn 3
giọng kể thích hợp để kể lại đoạn 3
- Giáo viên gọi học sinh nhận xét
bạn kể: đúng, đủ ý chưa? giọng kể - Học sinh nhận xét
có thích hợp khơng?
- Giáo viên nhận xét cho điểm
- Vừa rồi các con đã được kể lại- 3 học sinh kể nối tiếp 3 đoạn truyện


từng đoạn truyện. Bây giờ cô mời 3

bạn kể nối tiếp 3 đoạn truyện.
- Học sinh nhận xét bạn kể: ý, trình
- Học sinh nhận xét
tự, giọng kể.
- Ai cho cô biết, câu chuyện này - Câu chuyện giới thiệu nguồn gốc các dân
muốn nói với chúng ta điều gì?
tộc anh em trên đất nước Việt Nam .
- Câu chuyện giúp chúng ta hiểu điều- Khẳng định các dân tộc anh em một
gì?
nhà, cùng một nguồn gốc.
* Kể lại tồn bộ câu chuyện theo
cách mở đầu mới (kể sáng tạo):
Đất nước ta có 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc có tiếng nói riêng, có
cách ăn mặc riêng. Nhưng tất cả
các dân tộc ấy đều được sinh ra từ
một mẹ. Chuyện kể rằng...
- Vừa rồi các con đã kể lại được
toàn bộ câu chuyện, bây giờ các
con cũng sẽ kể lại câu chuyện này
nhưng với mở đầu mới. Khi kể, các - Hai học sinh kể lại.
con có thể dùng phần chú giải trong
bài Tập đọc để thay thế, thêm bớt
từ trong truyện.
- Cô mời một bạn kể lại truyện theo
cách cô đã hướng dẫn trên.
- Giáo viên gọi học sinh nhận xét
bạn kể: đúng, đủ ý chưa? bạn có kể
theo đúng cách trên không? Bạn đã
- Học sinh nhận xét bạn kể

thay đổi, thêm bớt từ nào? Bạn thay
từ, dùng từ như thế đã phù hợp
chưa?
- Giáo viên nhận xét, cho điểm
3. Củng cố (7 phút):
- Vừa rồi, các con đã được kể câu
chuyện Chuyện quả bầu, câu- Câu chuyện nói về nguồn gốc các dân
chuyện muốn nói với chúng ta điềutộc Việt Nam
gì?
- Câu chuyện giúp chúng ta hiểu- Câu chuyện giúp chúng ta hiểu: Các


điều gì?

dân tộc trên đất nước ta đều là anh em,
phải yêu quý các dân tộc anh em.

- Bây giờ, 4 tổ mỗi tổ cử một bạn
đại diện thi kể lại đoạn 1, đoạn 2
theo cách mở đầu mà cô đã hướng
- Đại diện 4 tổ lần lượt kể lại đoạn 1,
dẫn. Khi kể các con chú ý kể với
đoạn 2 của câu chuyện.
giọng phù hợp, có thể kết hợp sử
dụng điệu bộ để diễn tả cho câu
chuyện thêm sinh động
- Giáo viên gọi học sinh nhận xét
nhóm bạn kể: đúng, đủ ý không? - Học sinh nhận xét
Giọng kể có phù hợp khơng?
- Giáo viên nhận xét, cho điểm

- Bạn nào có thể đặt tên khác cho - Truyện các dân tộc Việt Nam
câu chuyện?
Các dân tộc Việt Nam là anh em.
- Giáo viên nhận xét chung giờ học
4. Dặn dò (1 phút):
- Dặn học sinh kể lại câu chuyện
cho bạn bè và người thân nghe (có
thể kể bằng lời của mình).
Qua giáo án trên tơi thấy: nếu được giáo viên hướng dẫn cách nghe,
nêu trước những yêu cầu nhận xét trước khi kể chuyện, thì các em sẽ rất chú
ý nghe bạn kể và đưa ra được những nhận xét nhanh, chính xác hơn so với
cách sau khi học sinh kể, giáo viên mới yêu cầu nhận xét.
Phần IV: Tự đánh giá kết quả thực hiện
Việc áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể
chuyện cho học sinh lớp 2 theo chương trình SGK mới tôi thấy rất hiệu quả.
Qua hai năm thực hiện việc thay sách, tôi thấy học sinh ở lớp 2 do tơi chủ
nhiệm đã có rất nhiều tiến bộ. ở mỗi tiết kể chuyện, các em đã biết kể lại câu
chuyện ở các mức độ: kể bằng lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể
bằng lời của nhân vật trong câu chuyện. Hầu hết các em đều kể rất tốt, lưu
loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung câu chuyện, bước đầu biết
sử dụng điệu bộ, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể, các em biết thay thế,
thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động hơn. Hầu hết học sinh đã
biết trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều thời gian để rèn kĩ
năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý hoặc câu hỏi, rất ít em phải
nhìn vào dàn ý đó để kể lại.


Với phương châm lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người chỉ
đạo, hướng dẫn, còn học sinh là người thực hiện triển khai công việc, tôi nghĩ
trong giờ dạy, giáo viên nên tạo ra trong lớp học một khơng khí sơi nổi thoải

mái.
Giáo viên nên dùng các hình thức động viên, khuyến khích các em,
đặc biệt là đối với những em dụt dè, chưa tự tin. Bởi lẽ ai cũng biết, hoạt
động giao tiếp là hoạt động có ý nghĩa sống còn đối với xã hội. Giao tiếp đối
với học sinh tiểu học là vô cùng cần thiết.
Việc rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cũng vậy, nó giúp các em
khi tiếp xúc với bạn bè, với thầy cô, với người thân một cách tự nhiên hơn,
thân mật hơn và tự tin hơn rất nhiều.
Phần V: Phạm vi áp dụng
Qua đây tôi cũng thấy, việc rèn kỹ năng nói cho học sinh qua phân
mơn kể chuyện là rất cần thiết và quan trọng. Việc áp dụng một số biện pháp
để rèn kĩ năng nói cho học sinh nêu trên có thể áp dụng đối với tất cả các tiết
kể chuyện, các đối tượng học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Tuy nhiên, đối với
những học sinh bị ngọng bẩm sinh thì việc thực hiện sẽ gặp khó khăn hơn.
Trên đây là kinh nghiệm tơi đã thực hiện và áp dụng trong quá trình
dạy học. Muốn làm tốt được điều này đòi hỏi mỗi giáo viên chúng ta phải ln
chịu khó tự tìm tịi học hỏi và đặc biệt phải có lịng u nghề, mến trẻ, nhất
định chúng ta sẽ tìm được biện pháp thích hợp để rèn kĩ năng nói cho học sinh
trong tất cả các tiết học, nhất là tiết kể chuyện.
Hà Nội, tháng 4 năm 2005
Người viết
Nguyễn Thị Thành A
Mục lục
Trang
2
3

Phần I: Lý do chọn đề tài
Phần II: Cơ sở thực tiễn để giải quyết đề tài
Phần III: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua

5
phân mơn kể chuyện lớp 2 - chương trình mới
1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học 6
2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh
9
3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hình thức hội
11
thoại, giao tiếp.
4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai
15


Giáo án minh họa
Phần IV: Tự đánh giá kết quả thực hiện
Phần V: Phạm vi áp dụng

16
21
22



×