Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

đổi mới công tác tư tưởng của đảng bộ ninh bình trong giai đoạn hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.36 KB, 46 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào thì cơng tác tư tưởng là một q
trình phức tạp, nó diễn biến hàng ngày, hàng giờ phụ thuộc vào nhận thức của
mỗi người, vào việc thu nhận và xử lý thông tin, cũng như những nhu cầu về
tâm lý, tôn giáo, phong tục tập quán của từng nơi. Do vậy mà tư tưởng của con
người ln ln thay đổi theo tiến trình thời gian và trên một khu vực lãnh thổ
nhất định.
Dân tộc ta đã đúc kết: Tư tưởng có thơng đeo bình tơng mới nổi, thực tiễn
cho thấy công tác tư tưởng của Đảng là một bộ phận quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, đặc biệt là góp phần vào sự lãnh đạo thắng lợi của Đảng. Lịch
sử của dân tộc, của Đảng ta đã chứng minh công tác tư tưởng là công việc đầu
tiên làm nên chiến thắng lịch sử vẻ vang.
Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong
toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền
tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong
của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hóa và đạo đức thể hiện vai trị đi
trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, đất nước ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới;
công tác tư tưởng của Đảng một mặt là tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trưởng của Đảng, pháp luật, chính
sách của Nhà nước, làm sáng tỏ hơn vấn đề lý luận về con đường lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta; mặt khác cổ vũ động viên phong trào thi đua của mọi tầng lớp
nhân dân trên các lĩnh vực. Tuy nhiên công tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, tính
lý luận trên một số mặt còn hạn chế, chưa đáp ứng được những địi hỏi của thực
tiễn đang vận động phức tạp, khó lường.
Cơng tác tư tưởng của Đảng bộ Ninh Bình có vai trị đặc biệt trong cơng
tác xây dựng Đảng của tỉnh, tạo sự đoàn kết thống nhất trong tư tưởng và hành
1



động của tồn Đảng bộ. Qua tìm hiểu cho thấy Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã có
nhiều cố gắng, tiến bộ nhưng công tác tư tưởng vẫn chưa đáp ứng ngang tầm với
yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt Ninh Bình là một tỉnh có khá
nhiều đặc thù như: Là một tỉnh đa dạng và có sự kết hợp của các loại địa hình
vùng cao, đồi núi, đồng bằng và ven biển; cùng với đó là sự đan xen giữa đồng
bào kinh và dân tộc, giữa lương và giáo…và lợi thế của tỉnh là có nhiều khu du
lịch và với nhiều loại hình du lịch; tuy nhiên những điều kiện trên cũng có
những ảnh hưởng khơng nhỏ đến cơng tác tư tưởng. Trong khi đó cơng tác tư
tưởng lại chậm đổi mới. Vì vậy mà vấn đề đặt ra là phải đổi mới công tác tư
tưởng của Đảng bội tỉnh.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, tôi chọn đề tài đổi mới công tác tư
tưởng của Đảng bộ Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số tác giả nghiên cứu về công tác tư tưởng của Đảng ta nói chung,
cơng tác tư tưởng của Đảng bộ Ninh Bình nói riêng. Những cơng trình nghiên
cứu đó đã đề cập nhiều vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng:
_ PGS, TS. Lương Khắc Hiếu: Nguyên lý công tác tư tưởng, tập 1, 2, NXB
CTQG HCM.
_ Đào Duy Tùng: Một số vấn đề công tác tư tưởng, NXB CTQG HCM, Hà
Nội, 1999.
_ Đào Duy Quát: Một số vấn đề về công tác tưởng của ĐCSVN, NXBCTQG,
Hà Nội, 2001.
_ Nông Đức Mạnh: Cần làm rõ hơn, cụ thể hơn các mục tiêu và giải pháp để
công tác tư tưởng – văn hố có bước phát triển mới, Tạp chí Thơng tin công tác
tư tưởng, số 5 – 2002.
_ Phạm Quang Nghị: Một số vấn đề về lý luận và nghiệp vụ công tác tư
tưởng, NXBCTQG, Hà Nội, 1996.
_ Ban tư tưởng – văn hố Trung ương: Sơ khảo lược sử cơng tác tư tưởng
của ĐCSVN, Hà Nội, 2000.

2


_ Nguyễn Minh Bích: Cơng tác tư tưởng của tổ chức cơ sở đảng đối với giáo
dân của huyện Kim Sơn – Ninh Bình.
_ ...
Có thể nói, có rất nhiều các tác giả đã có các cơng trình nghiên cứu về công
tác tư tưởng của Đảng song việc nghiên cứu giả pháp đổi mới công tác tư tưởng
chưa được tiến hành ở Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, vì vậy mà qua đề tài này tác giả
muốn phân tích sâu sắc thực trạng cơng tác tư tưởng và tìm ra những giải pháp
đổi mới công tác tư tưởng của Đảng bộ Ninh Bình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về công tác tư tưởng và
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam về cơng tác tư tưởng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng
và đề xuất những giải pháp đổi mới công tác tư tưởng của Đảng bộ Ninh Bình
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu cơ sở lý luận công tác tư tưởng và các quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về công
tác tư tưởng.
Khảo sát thực trạng việc đổi mới công tác tư tưởng ở Đảng bộ Ninh Bình
trong giai đoạn hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cơ bản đối với việc đổi mới cơng
tác tư tưởng của Đảng bộ Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cơng tác tư tưởng của Đảng bộ Ninh Bình trong giai đoạn hiện
nay.
Trước những đòi hỏi của thời kỳ hội nhập, trong xã hội những tư tưởng diễn

biến càng sinh động và phức tạp. Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài này tôi xin
tập trung vào những vấn đề chung về công tác tư tưởng và hiệu quả công tác tư
3


tưởng, những đòi hỏi khách quan phải nâng cao hiệu quả cơng tác tư tưởng của
Đảng bộ Ninh bình trong giai đoạn hiện nay; tập trung vào việc phân tích, đánh
gía thực trạng cơng tác tư tưởng, những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng bộ Ninh Bình. Thời gian khảo sát từ 2005
– 2009 (Tức Đại hội lần thứ XIX của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng ta và của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về cơng tác tư tưởng.
Cùng với đó là phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá làm rõ mối
quan hệ giữa thực trạng tư tưởng cán bộ, đảng viên và hiệu quả cơng tác tư
tưởng của Đảng bộ tỉnh Ninh bình, mối quan hệ giữa công tác tư tưởng với công
tác xây dựng nội bộ đảng và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, vận dụng vào q trình đổi mới
hiệu quả cơng tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình.
Dùng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ báo cáo viên cơ sở trong việc nâng
cao hiệu quả công tác tư tưởng. Đây là tiền đề để tiếp tục nghiên cứu hiệu quả
công tác tư tưởng ở các địa phương khác cũng như ở pham vi rộng hơn và cả
nước.
7. Kết cấu đề tài: 3 chương

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN
NAY

4


1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Tư tưởng
1.1.2. Công tác tư tưởng của Đảng
Trong lịch sử, công tác tư tưởng xuất hiện từ khi xã hội loài người phân
chia thành giai cấp và theo đó xuất hiện hệ tư tưởng. Công tác tư tưởng ra đời
nhằm đáp ứng nhu cầu hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị thành hệ tư tưởng thống trị, biến hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống chính trị tinh thần của xã hội.
Đối với giai cấp vô sản, sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kiện đánh dấu
bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức của giai cấp vơ sản.
Đồng chí Lê Duẩn viết: “Trong Đảng ta không ngành nào già bằng ngành
tuyên huấn vì từ khi có Đảng đã có nó rồi”. Điều đó có nghĩa là trước khi thành
lập Đảng, một bộ phận tiên tiến của trí thức yêu nước và cách mạng đại diện cho
giai cấp vô sản đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Theo nghĩa rộng: Cơng tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một
giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng
trong quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của
Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị
trong đời sống tinh thần xã hội, động viên cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Theo nghĩa hẹp: Công tác tư tưởng chỉ là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng
và đường lối, chính sách của Đảng trong quần chúng; động viên, cổ vũ quần
chúng tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực chất quan niệm này không coi
công tác lý luận là một bộ phận hợp thành của công tác tư tưởng, đồng nhất

5


công tác tư tưởng với công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Đây là một
quan niệm phiến diện thiếu cơ sở khoa học.
1.1.3. Đổi mới công tác tư tưởng
1.2. Chức năng, nhiệm vụ công tác tư tưởng
1.2.1. Chức năng
Chức năng của công tác tư tưởng được hiểu là nhiệm vụ chung, bao quát,
mang tính ổn định mà nhờ việc thực hiện chúng, chủ thể công tác tư tưởng tác
động một cách có mục đích đến ý thức và hành vi của đối tượng. Cũng thông
qua việc thực hiện chức năng mà công tác tư tưởng thể hiện vai trị, vị trí của
mình trong đời sống xã hội.
Chức năng của cơng tác tư tưởng mang tính khách quan và được quy định
bởi hệ tư tưởng và mục đích của công tác tư tưởng.
2.2.1.1. Chức năng lý luận tư tưởng
Chức năng cơ bản đầu tiên của công tác tư tưởng là nghiên cứu để đề xuất
lý luận – tư tưởng, hình thành bảo vệ và phát triển lý luận đó.
Nghiên cứu, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện
mới. Khẳng định và làm rõ những nguyên lý cơ bản, xác định những vấn đề cần
nhận thức lại, cần bổ sung, điều chỉnh và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nghiên cứu tồn diện có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những
tinh hoa trí tuệ của dân tộc của thời đại.
Tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận cách mạng. Nâng cao
trình độ vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên

cứu những vấn đề thời đại, về việc xác định mơ hình và con đường đi llên chủ
nghuiã xã hội ở nước ta, về đường lối đổi mới kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
anh ninh, quốc phịng, đối ngoại…
Nghiên cứu lý luận cơng tác tư tưởng nhằm nâng cao trình độ khoa học
của quá trình phát triển và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nâng

6


cao hiệu quả hoạt động tư tưởng của Đảng góp phần hồn thành nhiệm vụ chính
trị trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận, bảo vệ và chống sự xuyên tạc
chủ nghĩa Mác – Lênin, tu tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi mầu sắc.
1.2.1.2. Chức năng giáo dục – tư tưởng
Nếu chức năng lý luận – tư tưởng thực hiện nhiệm vụ sáng tạo ra lý luận
và đường lối chiến lược, sách lược thì chức năng giáo dục – tư tưởng thực hiện
vụ tuyên truyền, giáo dục hệ tu tưởng và đường lối chính trị trong quần chúng.
Đây là chức năng hết sức quan trọng và cơ bản của cơng tác tư tưởng. Vì vậy bất
kỳ giai cấp nào, khi tiến hành công tác tư tưởng đều rất coi trọng thực hiện chức
năng này.
Giáo dục lý luận, hình thành năng lực, trình độ, phương pháp tư duy lý
luận.
Giáo dục thế giới quan, hình thành thế giới quan khoa học.
Giáo dục chính trị - tư tưởng, hình thành văn hóa chính trị.
Giáo dục lao động, hình thành thái độ mới đối với lao động.
Giáo dục kinh tế, hình thành văn hóa kinh tế.
Giáo dục đạo đức, hình thành văn hóa đạo đức.
Giáo dục hình thành khă năng “miễn dịch” của quần chúng đối với ảnh

hưởng của hệ tư tưởng thù địch, của các tư tưởng phản động, lạc hậu. Nội dung
chức năng này rất phong phú, đa dạng; việc thực hiện chúng địi hỏi phải có
quan điểm tổng hợp.
1.2.1.3. Chức năng nhận thức – học vấn
Xét từ mục đích của cơng tác tư tưởng là hình thành ý thức xã hội, mà nội
dung cốt lõi là thế giới quan thì cơng tác tư tưởng có chức năng nâng cao trình
độ nhận thức – học vấn cho tồn xã hội. Bởi vì, tri thức là một yếu tố cấu thành
nên ý thức xã hội, là cơ sở để hình thành thế giới quan và niềm tin khoa học.
Việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính
7


sách, thực chất cũng là để giải quyết một số vấn đề về nhận thức – học vấn cho
nhân dân lao động.
Truyền bá cho nhân dân lao động những tri thức khoa học (tự nhiên, xã
hội), tri thức về lĩnh vực chính trị - xã hơi, về những quy luật vận động và phát
triển xã hội bằng mọi phương pháp, phương tiên của công tác tư tưởng.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cần hướng chức năng vào việc truyền
bá những tri thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về văn hóa,
khoa học và công nghệ…phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Góp phần nâng cao trình độ học vấn nghề nghiệp cho người lao động.
Bằng nhiều con đường, nhiều biênị pháp, kích thích sự sáng tạo, sự say mê tìm
tịi, khám phá, khơi dậy cổ vũ sự hiểu biết của con người, trước hết là thế hệ trẻ.
1.2.1.4. Chức năng tổ chức
Vận động thuyết phục quần chúng, tập hợp quần chúng tham gia xây
dựng và bảo vệ chế độ là mục đích của cơng tác tư tưởng. Cho nên, tổ chức là
một chức năng cơ bản của công tác tư tưởng. Nếu không thực hiện chức năng tổ
chức thì chức năng lý luận – tư tưởn và chức năng giáo dục – tu tưởng về cơ bản
không được hiện thực hóa và do đó, khơng có ý nghĩa thực tế.

Thực hiện chức năng lý luận – tư tưởng và chức năng giáo dục – tu
tưởng, công tác tư tưởng chỉ mới có thể tạo ra lý luận tiên tiến, tư tưởng tiên
tiến. Để tư tưởng lý luận xâm nhập vào ý thức quần chúng, trỏ thành sức mạnh
vật chất thể hiện thông qua hoạt động cách mạng của quần chúng thúc đẩy tiến
trình phát triển khách quan của lịch sử, phải thơng qua tổ chức. Vì vậy, có thể
nói tổ chức là một chức năng cơ bản của công tác tư tưởng. Chức năng tổ chức
là logic tất yếu, là kết quả tất yếu của quá trình thực hiện các chức năng trên
nhằm hồn thành mục đích của công tác tư tưởng đặt ra.
Chức năng tổ chức của công tác tổ chức thể hiện ở việc hướng dẫn, tập
hợp quần chúng tham gia vào các qua trình tư tưởng, tham gia vào việc giải
quyết một nhiệm vụ nào đó do xã hội đặt ra hoặc tham gia vào cuộc đấu tranh
8


ủng hộ cái mới, tiến bộ, phê phán cái tiêu cực lạc hậu trong đời sống xã hội.
Hình thức biểu hiện của chức năng là một phong trào thi đua, một cuộc vận
động cách mạng rộng lớn hoặc một hình thức tập hợp quần chúng nào đó nhằm
thực hiện nhiệm vụ chính trị đặt ra trước xã hội.
1.2.1.5. Chức năng phê phán
Q trình tién hành cơng tác tư tưởng, xây dựng hệ tư tưởng mới – xã hội
chủ nghĩa diễn ra trong cuộc đấu tranh với các quan điểm thù địch, với những
tàn dư tư tưởng lạc hậu, lỗi thời của quá khứ, với những quan điểm lệch lạc đối
lập với hệ tư tưởng Mác – Lênin, quan điểm đường lối của Đảng.
Phê phán triết để và với thái độ khách quan, biện chứng với mọi biểu
hiện của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại và mọi trào lưu tư tưởng đối lập với
hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân. Đấu trang không
khoan nhượng với các học thuyết tư sản, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản, bôi
nhọ chủ nghĩa Mác – Lênin, tu tưởng Hồ chí Minh, phủ nhận chủ nghĩa xã hội
hiên thực,phủ nhận sự lãnh đạo của ĐảngCộng sản đối với xã hội…nhằm phá
hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Phân tích, phê phán những tàn dư, ảnh hưởng của tưởng và hành vi lỗi
thời,lạc hậu cịn rơi rớt trong xã hội, khơng cịn phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Phê phán triệt để trên cở sở làm rõ nguồn gốc và làm rõ nội dung của ngững
biểu hiện tiêu cực xuất hiện trong đời sống xã hội,nhjững biểu hiện lệch lạc, xa
lạ trái với quan điểm, đường lối của Đảng.
Đâu tranh chống mọi thủ đoạn “diễn biến hịa bình” mà kẻ địch sử dụng
để ráo riết chống lại chế độ ta, âm mưu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và nhân daqan ta đang xây dựng. Để thực hiện chức năng phe phán một cách
triệt để phải gắn việc đấu tranh, phê phán cái cũ, cái lạc hậu với xây dựng và cổ
vũ cái với, tiến bộ, gắn chống với xây lấy xây làm chính, gắn việc phê phán các
trào lưu tư tưởng thù địch với việc bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng.
1.2.1.6. Chức năng dự báo
9


Xã hội vận động có quy luật. Nắm được quy luật phát triển của xã hội,
nhận thức đúng đắn quá khứ, hiện tại thì có thể dự báo được khả năng phát triển
của tương lai. Công tác tư tưởng là một khoa học. Trên cơ sở nắm vững khoa
học chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bám sát thực tiễn cách
mạng của quần chúng.
Góp phần xác định quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Tham
gia trực tiếp vào việc hoạch định đường lối cách mạng nói chung và các quan
điểm, đường lối, bước đi của sự nghiệp đổi mới hiện nay nói riêng.
Thơng qua việc nắm bắt tâm trạng quần chúng, nắm dư luận xã hội mà
dự báo khả năng thực thi các chủ trương, đường lối đề xuất, bổ sung, điều chỉnh
chủ trương, kế hoạch cho phù hợp để hoạt động cách mạng thực tiễn đạt hiệu
quả. Dự báo diễn biến và xu hướng vận động biến đổi của tình hình tư tưởng
quần chúng dưới tác động của môi trường xã hội và công tác tư tưởng.
Dự báo các khả năng chống phá của các tư tưởng của các thế lực thù địch

và diễn biến của công tác đấu tranh tư tưởng để chủ động xây dựng kế hoạch
cho cuộc đấu tranh đó.
Các chức năng cơ bản nói trên của cơng tác tư tưởng nằm trong sự thống
nhất biện chứng, chúng tác động lẫn nhau và được thực hiện thông qua việc sử
dụng các phương tiện tác động tư tưởng, các hình thức, phương pháp giáo dục tư
tưởng, thông qua hệ thống tổ chức và tất cả các cơ quan tư tưởng trong toàn xã
hội. Tuy nhiên, mức độ thực hiện các chức năng trong thực tiễn công tác tư
tưởng phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố chủ quan, vào trình độ của chủ thể cơng
tác tư tưởng, trình độ đào tạo và hiểu biết về các quy luật công tác tư tưởng của
cán bộ tư tưởng.
Các chức năng đều quan trọng như nhau vì mỗi chức năng đều giữ một
vai trị riêng, khơng thể thay thế được khi thực hiện mục đích của cơng tác tư
tưởng. Trong thực tiễn có thể thực hiện từng chức năng riêng biệt cũng như toàn
bộ các chức năng thông qua sự phối hợp hoặc là một tỷ lệ cân đối cần thiết giữa

10


các chức năng. Tuy nhiên, không được coi nhẹ một chức năng nào để tránh
phiến diện làm cho công tác tư tưởng kém hiệu quả.
1.2.2. Nhiệm vụ
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa X, trên cơ sở phân
tích sâu sắc thực trạng tình hình tư tưởng trong xã hội và thực trạng công tác tư
tưởng của Đảng, những dự báo về sự tác động của các nhân tố quốc tế và trong
nước đối với công tác tư tưởng đã xác định 6 nội dung lớn, trong mỗi nội dung
bao gồm cả nhiệm vụ và giải pháp thực hiện nhiệm vụ đó.
Nâng cao nhận thức về vai trị của cơng tác tư tưởng; tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng. Đổi mới nâng cao chất lượng
tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân , nhất là thế hệ trẻ;

làm cho toàn Đảng, tồn dân nắm vững, nhất trí với mục tiêu quan điểm, nhiệm
vụ trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì đấu tranh bảo
vệ lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thường xuyên gắn kết
chặt chẽ công tác tư tưởng với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại. Tăng cường tuyên truyền cổ động, động viên các
nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực, phát
huy chủ nghĩa yêu nước, năng lực thực thi dân chủ, tinh thần sáng tạo tự lực, tự
cường, tạo ra phong trào hành động cách mạng của toàn dân thực hiện công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Đề cao trách nhiệm của tồn Đảng đối với cơng tác tư tưởng. Xây dựng
và thực hiện quy chế, quy định toàn Đảng từ Trung ương đến cơ sở và mọi đảng
viên có trách nhiệm trực tiếp làm cơng tác tư tưởng, tham gia tổng kết cơng tác
thực tiễn. Bí thư cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị hàng năm phải lập kế
hoạch chỉ đạo công tác tư tưởng, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến
tư tưởng của đơn vị mình, có biện pháp giải quyết kịp thời. thường xuyên nâng
cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, khắc phục tình
trạng mơ hồ về tư tưởng trong cán bộ đảng viên. Xây dựng cơ chế các cấp ủy
11


đảng tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở với các cơ quan làm công tác tư tưởng
trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề
bức súc của nhân dân. Cải tiến nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các
loại hình tuyên truyền, đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền miệng phù hợp
với trình độ, nhu cầu của từng đối tượng.
Triển khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng đạo đức lối sống đối với các tầng
lớp nhân dân, đặc biệt là cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Xây dựng và thực hiện
các chuẩn mực đạo đức phù hợp với từng đối tượng, xây dựng cơ chế giám sát
về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tổ chức thực hiện rộng khăó có

chiếu sâu, thiết thực và hiệu quả cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng và cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thối về tư tưởng chính
trị đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên. Nghien cứu, xây dựng, tổng kết và
truyền bá rộng rãi những giá trị mới của con người Việt Nam trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc, đấu
tranh chống lai căng, bắt chước lệ thươc nước ngồi.
Xây dựng và thực hiện chiến lược, các kế hoạch phát triển văn học, nghẹ
thuật, tạo ra những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng nghệ
thuật, có tác dụng sâu sắc. Đưa cuộc vận động “tồn dân đồn kết xây dựng đời
sống văn hóa” đi vào chiếu sâu, nâng cao hiệu quả chính trị - kinh tế - xã hội của
cuộc vận động.
Triển khai đồng bộ, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác
các luận điệu tuyên tuyền, xuyên tác, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại
âm mưu diễn biễn hòa bình, thực hiện đa ngun chính trị, hình thành lực lượng
đối lập, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù đich; thường xuyên cảnh giác,
chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả trung ương và các ngành các
cấp.

12


Củng cố tổ chức, tăng cường cán bộ và phương tiện để mở rộng phạm vi
và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, giúp cho cộng đồng quốc tế,
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có nhận thức và thái độ đúng đắn về
đất nước ta, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách, tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất, kĩ thuật cho công tác tư tưởng theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu
của hoạt động tư tưởng trước những đòi hỏi mới trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế. Khẩn trương xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng
đến năm 2020 từ trung ương đến cơ sở, cả cán bộ cấp chiến lược, chuyên gia
đầu ngành, đội ngũ kế cận và cán bộ trẻ. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng, có chế độ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng với đội ngũ này. Chú trọng công
tác nghiên cứu, điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ công tác tư
tưởng. Xây dựng chiến lược cơng tác tư tưởng trong tình hình mới.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về cơng tác tư tưởng
1.3.1. Quan điểm của Mác – Lênin về công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh
đạo của Đảng, là hoạt động của Đảng trên lĩnh vực ý thức tư tưởng, nhằm xác
lập phát triển hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, truyền bá hệ tư tưởng, thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
làm cho họ tin tưởng và tự giác thực hiện mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và
đường lối chính sách của Đảng.
Trước khi chủ nghĩa xã hội khoa học được Các Mác và Ăngghen sáng lập,
sau đó được Lênin kế thừa và phát triển, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vân dụng,
phát triển và sáng tạo vào Việt Nam thì đã có nhiều bộ óc thơng minh của lồi
người đã trăn trở qua nhiều thế kỷ tìm kiếm con đường giải phóng nhân dân lao
động khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, nhưng họ đều không tưởng về lý luận hoặc
không thực hiện được.
13


Các Mác là người đã làm ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng và tư
duy nhân loại. Triết học Mác xít với luận điểm nổi tiếng: ‘các nhà triết học chỉ
giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới”. Chúng
ta có thể coi đó là lời tun ngơn của Mác về học thuyết của mình.
Học thuyết Mác là thế giới quan khoa học mới của giai cấp công nhân, là
đỉnh cao trí tuệ của lồi người phản ánh những quy luật phát triển của tự nhiên,

xã hội và tư duy.
Trên cơ sở giải quyết một cách khoa học những vấn đề quan hệ chung
nhất của quan hệ vật chất và ý thức, của tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong quá
trình vận động và phát triển của lịch sử. Mác và Ăngghen đã giải thích đúng đắn
khoa học hoạt động tư tưởng và vai trị của nó với việc cải tạo xã hội và con
người vạch ra một cách công khai bản chất của giai cấp là hoạt động tư tưởng,
chỉ rõ vị ttrí, chức năng, nhiệm vụ của công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản. Hai ông coi hoạt động tư tưởng như một hệ thống hoàn
chỉnh bao gồm các phương tiện, các hình thức và những nguyên tắc, phương
pháp tác động vào ý thức con người. Trên thực tế, hai ông đã tiến hành không
mệt mỏi cuộc đấu tranh tư tưởng, nêu cao gương sáng của người tuyên truyền,
cổ động của giai cấp vơ sản.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác có thiếu sót là bỏ qua vai trị của tư tưởng
và công tác tư tưởng khi xem xét các vấn đề xã hội. Chủ nghĩa duy tâm thì mắc
sai lầm ngược lại. Chỉ thế giới quan duy vật chứng, mà hạt nhân của nó là triết
học Mác mới giúp chúng ta có được quan niệm đúng đắn khi xem xét các vấn đề
của tự nhiên, xã hội, tư duy. Chủ nghĩa duy vật lịch sử, bộ phận không thể thiếu
không thể tách rời của triết học Mác, chính là việc mở rộng quan niệm duy vật
biện chứng sang nhận thức các vấn đề của đời sống xã hội, tìm ra những quy
luật chung về sự phát triển của nó.
Triết học Mác được thừa nhận là khoa học về thế giới quan. Xem xét sự
vận động xã hội như là quá trình lịch sử tự nhiên phát triển trên cơ sở khách
quan nhưng khác với trong lĩnh vực tự nhiên là các quy luật này không phải là
14


vận động tự nó mà thơng qua hoạt động có ý thức của con người càng thể hiện
rõ trong quá trình cải biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng
sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ năm 1859, Mác đã nêu luân điểm nổi tiếng: “phương thức sản

xuất đời sống vật chất quyết định các q trình sinh hoạt xã hội chính trị và tinh
thần nói chung, khơng phải ý thức con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại
chính sự tồn tại của họ quyết định ý thức xã hội”.
Đây là quan điểm có tính cách mạng về lịch sử. Trước hết nó khẳng định
vai trị có tính quyết định của nhân tố vật chất, của tồn tại xã hội với đời sống
tinh thần nói chung. Mặt khác, tính biện chứng của triết học Mác là ở chỗ nó bác
bỏ quan điểm coi nhẹ bỏ qua vai trò của tư tưởng và công tác tư tưởng, ý thức
trong đời sống xã hội. Trong khi xem xét môi trường quan hệ này, Mác Ăngghen
luôn luôn thấy rõ sự tác động qua lại của chúng.
Chính các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học vạch ra rằng, xét đến
cùng thì sự phát triển của tư tưởng được quyết định bởi sự phát triển kinh tế.
Nhưng đến lượt mình, tư tưởng trong khi phản ánh kết cấu kinh tế của đời sống
xã hội sẽ ảnh hưởng ngược trở lại kinh tế ở mức độ khác nhau, các hình thái xã
hội khác nhau. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, chỉ ra khả năng to lớn của
Đảng Cộng sản sử dụng vũ khí tư tưởng vơ địch trong cuộc đáu tranh chống các
thế lực thù địch và trong quá trình tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khi phân tích vị trí của mỗi nhân tố, và mối tác động qua lại giữa chúng
Mác và Ăngghen chỉ rõ vai trò của nhân tố tư tưởng, ý thức là to lớn nhưng nó
chỉ có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó được quần chúng sử dụng.
Xuất phát từ những đặc tính đó của q trình tư tưởng, hai ơng ln nhấn
mạnh ý nghĩa lớn lao của quá trình truyền bá, đưa lý luận tiên phong vào phong
trào công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Sự nghiệp của Mác Ăngghen đã được Lênin vị thiên tài của giai cấp cơng nhân kế tục và phát triển
tồn diện, sáng tạo, nâng lý luận chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới.

15


Bước lên vũ đài chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp Lênin không chỉ là
người kế tục xuất sắc lý luận học thuyết Mác là người bảo vệ trung thành và
kiên quyết học thuyết Mác trước mọi sự tiến cơng của kẻ thù mà cịn là nhà thực

tiễn lỗi lạc đã thực sự làm công việc vĩ đại là đưa lý luận cách mạng vào phong
trào công nhân, tổ chức ra đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, lãnh đạo thực hiện
thành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Biến những tư tưởng lý tưởng của chủ nghĩa Mác Ăngghen thành hiện thực.
Cuộc đời hoạt động sôi nổi không mệt mỏi của Lênin còn là tấm gương của một
nhà hoạt động tư tưởng lỗi lạc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Lênin luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tư tưởng của các
Đảng Cộng sản trong tác phẩm: “làm gì” Lênin cũng đã chỉ rõ vai trị của lý luận
và cơng tác tư tưởng. Người nói: “khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có
phong trào cách mạng”, “chỉ đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng
dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”. Lênin khẳng định
quan điểm của Ăngghen trong đấu tranh cách mạng không chỉ có hai hình thức
đấu tranh chính trị và đấu tranh kinh tế mà còn đấu tranh tư tưởng.
Lênin chỉ rõ: giai cấp cơng nhân và đảng của mình cần phải biết rằng cuộc
đấu tranh giưa hai hệ tư tưởng tư sản và vơ sản là khơng thể điều hịa được,
rằng: “vấn đề đặt ra là chỉ như thế này, hoặc là hệ tư tưởng tư sản hoặc là hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, mọi sự xa rời tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa
tăng cường hệ tư tưởng tư sản”
Tóm lại chủ nghĩa Mác Lênin là một học thuyết cách mạng và khoa học
nó là vũ khí sắc bén là nền tảng tư tưởng của giai cấp cơng nhân và Đảng Cơng
sản. Đó là học thuyết duy nhất từ trước tới nay bàn về mục tiêu, điều kiện,
phương pháp giải phóng giai cấp giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, bất
cơng, tha hóa, đói nghèo dưới mọi hình thức.
Học thuyết Mác Lênin nghiên cứu những quy luật tổng quát của sự phát
triển xã hội, làm cơ sở khoa học cho mục tiêu, điều kiện giải phóng xã hội.

16


Học thuyết Mác Lênin là học thuyết về giải phóng và phát triển xã hội với

nội dung triệt để và toàn diện hơn tất cả những lý luận tương tự đã có trong lịch
sử. Nó khơng chỉ nêu ra mục tiêu, đối tượng của sự giải phóng và phát triển mà
còn chỉ ra những lực lượng thực hiện sự giải phóng và phát triển, đồng thời nêu
ra những định hướng, phương pháp luận tiến hành sự nghiệp to lớn đó. Những
phát kiến về quan niệm duy vật lịch sử, lý luận, về giá trị thặng dư về vai trò và
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân lànhwngx phát kiến manh tính thời đại.
Sự thống nhất giữa bên trong giữa phương pháp và lý luận, làm cho chủ
nghĩa Mác – Lênin ln ln là học thuyết mở, có khả năng khơng ngừng được
bổ sung hồn chỉnh, tự đổi mới, tự phát triển trong dịng trí tuệ của nhân loại.
Tồn bộ học thuyết Mác – Lênin có giá trị bền vững xét trong tinh thần biện
chứng, tinh thần nhân đạo và hệ tư tưởng cốt lõi của nó.
Có thể nói, mỗi cán bộ đảng viên cần phải được trang bị cần phải được
trang bị thế giới quan, nhân sinh quan, trang bị hệ thống kiến thức trên nhiều
lĩnh vực; trong đó những nguyên lý, quan điểm của chgủ nghĩa Mác như là một
nhân tố hàng đầu, là hạt nhân hệ thống kiến thức. Đó là cơ sở vững chắc để đánh
giá cũng như phân tích các sự kiện chính trị, xã hội đứng vững trên lập trường
giai cấp công nhân.
1.3.2. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơng tác tư tưởng
Hồ Chí Minh ln quan tâm đến cơng tác tư tưởng, và Người chính là
mẫu mực về việc kết hợp những tư tưởng lý luận sâu sắc với sự tích cực tham
gia đấu tranh cách mạng, tuyên truyền những tư tưởng khoa học.
Người khẳng định cán bộ lý luận phải có am hiểu nhất định về thực tiễn
tuyên truyền, cổ động thì hoạt động lý luận của họ mới phục vụ có hiệu quả cho
cơng tác tun truyền cổ động, cán bộ tun truyền phải có trình độ lý luận,
trình độ tư duy khoa học, am hiểu khoa học tuyên truyền, cổ động để tổ chức
công tác tuyên trun có hiệu quả. Trong cơng tác lý luận cần từ bỏ lối nghiên
cứu một cách kinh viện, xa rời thực tế, thoát ly những biểu hiện lịch sử cụ thể
của đất nước của dân tộc sẽ dẫn đến giáo điều về lý luận.
17



Theo Người thì cần phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng; lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành
động, làm cơ sở để đề ra cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn trong tưng
thời kỳ cách mạng cụ thể.
Người nói: “chúng ta giành được độc lập tự do rồi, nhân dân cứ chết đói,
chết rét thì độc lập tự do cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do độc
lập lhi mà dân được tự do ăn no, mặc ấm”. Người cho rằng đời sống tích cực của
người lao động được cải thiện thì tích cực chính trị của họ được nâng lên, nhiệt
tình cách mạng cũng phải gắn với lý luận cách mạng. Nhiệt tình cách mạng là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy q trình cách mạng song khơng thể từ nhiệt tình, từ
tình cảm để định ra chiến lược, sách lược cách mạng. Từ đó mà Người khẳng
đinh: Muốn có lập trường vơ sản vững chắc thì đảng viên phải có ý thức giai
cấp, đồng thời phải có lý luận cách mạng. Khơng có lý luận chủ nghĩa khoa học
thì khơng thể có lập trường giai cấp vững vàng… Người thường xuyên coi trọng
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên. Người viết: Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng trong Đảng,
ngoài Đảng, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài để tư tưởng thống nhất với
hành động thì nhiệm vụ tuy nặng nề, khó khăn, phức tạp cũng nhất định thắng
lợi.
1.3.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác tư tưởng
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác tư tưởng, không ngừng đổi
mới, nâng cao chất lượng cơng tác tư tưởng, coi đó là một lĩnh vực quan trọng
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy trong mọi giai đoạn cách mạng,
Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục lý luận, tư tưởng, cổ vũ, động viên
mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hiện nay đất nước
ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, Đảng ln xác định vai trị,

18


tầm quan trọng của cơng tác tư tưởng. Điều đó được thể hiện trong các văn kiện
của Đảng. Đặc biệt là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) – Đại
hội đổi mới của Đảng, thì Đảng ta đã khẳng định sự nghiệp đổi mới đất nước
phải bắt đầu từ đổi mới tư duy tức là đổi mới nhận thức. Và coi đổi mới tư duy
nhận thức là nhiệm vụ hàng đầu, bức xúc hàng đầu cần làm ngay để đổi mới
kinh tế, đổi mới Đảng, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giầu
mạnh. Điều đó đã khẳng định vai trị quan trọng của công tác tư tưởng của
Đảng.
Điến Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Đảng ta đã chỉ rõ phải đổi mới
và chỉnh đốn là quy luật phát triển của Đảng; từ đó đã tập trung phân tích ưu,
khuyết điểm của công tác tư tưởng, đồng thời đề ra nội dung, hình thức, phương
pháp của cơng tác tư tưởng, coi đó là ngọn cờ chỉ đạo hoạt động của Đảng trong
thời kỳ đổi mới.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trị cơng tác tư tưởng của
Đảng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội xác định
mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng trong giai đoạn
này là: Tăng cường nhất trí về tư tưởng, thống nhất về chính trị, tinh thần trong
nhân dân về con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã lựa chọn. Đấu tranh
chống diễn biến hịa bình, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cung cấp
những luận cứ khoa học cho các giải pháp, đường lối, chủ trương của Đảng
trong thời kỳ mới, tiếp tục làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: Công tác tư tưởng có những đổi mới
đáng kể. Cơng tác giáo dục lý luận chính trị đã có những chuyển biến tích cực.
Đặc biệt là cơng tác đào tạo cán bộ, quản lý đã được đẩy mạnh. Việc nghiên cứu
và giáo dục về tư tưởng có bước tiến bộ rõ rệt. Đã gắn việc giáo dục tư tưởng
chính trị với giáo dục đạo đức lối sống và nâng cao trình độ, trí tuệ, năng lực

lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo các cấp, tiến hành đấu tranh bảo vệ nền tảng tư
tưởng, nguyên tắc tổ chức, cương lĩnh, điều lệ, đường lối của Đảng; uốn nắn,
19


phê phán những nhận thức mơ hồ, lệch lạc, các luận điểm phản động chống đối
của các thế lực thù địch; việc nghiên cứu và tổng kết thực tiễn được coi trọng.
Đến Đại hội X của Đảng
1.4. Sự cần thiết phải đổi mới công tác tư tưởng ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay
1.4.1. Yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước
Sau những năm vật lộn rất khó khăn với cơ chế cũ – cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, nền kinh tế của nước ta ở trong tình trạng trì trệ, kém phát
triển. Trong khó khăn đó đã xuất hiện nhiều nhân tố vượt khó, vươn lên làm ăn
có hiệu quả. Nhiều cơ sở, nhiều ngành, địa phương đã có những bước thử
nghiệm tìm tịi về cách làm ăn mới nhằm khai thác khả năng tiềm tàng của nền
kinh tế để phát triển sản xuất, cải tiến, lưu thông, phân phối, đáp ứng nhu cầu
đời sống của nhân dân. Những năm này ở Việt Nam đã có một số bước đột phá
đổi mới tư duy trong nhiều ngành kinh tế quốc dân và ở nhiều địa phương các
cấp ủy Đảng và chính quyền đã dần dần tổng kết thực tiễn, từng bước đổi mới,
tìm cách đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Hội nghị Trung
ương 6 Ban chấp hành Trưng ương Đảng khóa IV năm 1979 và nhiều nghị quyết
sau đó của Trung ương Đảng, nhiều quyết định của Nhà nước về đổi mới quản
lý kinh tế đã được ban hành và có ý nghĩa sâu sắc trong tiến trình đi đến đổi
mới.
Sau Đại hội VI – Đại hội đổi mới, nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ
suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai
đoạn 2001 – 2005 là 7,51% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hóa - xã hội
có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã
hội có chuyển biến tốt, nhất là trong cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo; đời sống

nhân dân được cải thiện rõ rệt. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh
được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực: lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công
20


tác xây dựng Đảng đã đạt được một số kết quả tích cực. Trong đó phải kể đến vị
trí, vai trị cơng tác tư tưởng của Đảng.
Tuy nhiên việc tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chậm. Cơ chế chính sách về văn hóa – xã hội cịn chậm đổi mới; nhiều
vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Công tác xây dựng đảng, chỉnh
đốn đảng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Nhiều tổ chức
Đảng có biểu hiện suy giảm sức chiến đấu. Một số không nhỏ các tổ chức cơ sở
đảng đã mắc sai lầm và khuyết điểm. Nhiều nơi đã có biểu hiện mất đồn kết, vi
phạm nghiêm trọng ngun tắc tập trung dân chủ. Một bộ phận cán bộ, đảng
viên thối hóa biến chất; suy giảm về lý tưởng về niềm tin xã hội chủ nghĩa; đặc
biệt là những biểu hiện về lối sống cá nhân, ích kỷ, cục bộ hẹp hịi… đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng.
Đặc biệt, một số tổ chức cơ sở đảng cịn chưa nhận thức đúng vị trí, vai
trị, tầm quan trọng của công tác tư tưởng; xem nhẹ việc giáo dục lý tưởng cho
cán bộ, đảng viên; xem nhẹ công tác giáo dục lý luận chính trị tư tưởng; cá biệt
còn một số tổ chức cơ sở đảng còn chậm đổi mới việc tuyên truyền nghị quyết
của Đảng, mới chỉ dừng lại ở hình thức và số lần.
1.4.2. Nội dung đổi mới công tác tư tưởng
1.4.3. Xây dựng chỉnh đốn Đảng
Trong lịch sử Đảng ta, dường như mỗi lần đứng trước những khó khăn
thử thách của tình hình cách mạng, Đảng ta lại xác định nhiệm vụ tự chỉnh đốn.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển do chính nhu cầu của lịch
sử xã hội Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có tính liên
tục nối tiếp, kế thừa vừa có sự phát triển qua các giai đoạn của cách mạngĐáng
chú ý là sự lãnh đạo ấy không phải là tự nhiên mà có và khơng phải cứ tự nhận
mà được. Sự lãnh đạo cầm quyền của Đảng là kết quả của q trình hoạt động
khơng mệ mỏi của đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam trong 79 năm hoạt động,
21


trong đó có hơn 60 năm cầm quyền đã chứng tỏ bản lĩnh chính trị, năng lực
hoạt động và sức mạnh của mình. Sự lãnh ạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
được xã hội thừa nhận trên thực tế.
Nhưng sự lãnh đạo của Đảng không phải cứ nhất thành bất biến nếu Đảng
bị suy yếu, Đảng không trong sạch, vững mạnh, và như vậy Đảng tự đánh mất
vai trò lãnh đạo của mình. Đúng như Hồ CHí Minh cho rằng: Một dân tộc, một
Đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người u mến và ca ngợi, nếu
lịng dạ khơng trong sáng nữa.
Đổi mới Đảng là phải từ bỏ những cái cũ kỹ,lạc hậu, sai trái để tạo ra chất
lượng tốt hơn, tạo ra sức mạnh mới cho Đảng, đúng đắn hơn, tiến bộ hơn. Còn
chỉnh đốn Đảng là sắp xếp lại những cái vốn có từ trước, những nguyên tắc xây
dựng Đảng, những luận điểm, quan điểm, vấn đề cán bộ, vấn đề chống suy
thoái, biến chất của Đảng, loại bỏ những gì khơng cịn phù hợp …
Sự nghiệp xây dựng chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp rất
to lớn, nặng nề và phức tạp mà cũng rất vẻ vang. Đây là một cuôc chiến chống
lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành
lấy những thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải đơng viên tồn
nhân dân, tổ chức và dựa vào sức mạnh của toàn dân, dựa vào sức mạnh vĩ đại
của nhân dân. Quá trình ấy Đảng Cộng sản Việt Nam phải thường xuyên làm tốt
công tác tư tưởng.

Trong giai đoạn hiện nay,Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng trước
những thách thức lớn. Đó là việc Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và mở của hội nhập quốc tế là những vấn đề hoàn
toàn mới. Yêu cầu sự lãnh đạo của Đảng là làm thế nào để giữ vững được định
hướng xã hội chủ nghĩa, vừa rút ngắn khoảng cách về kinh tế của Việt Nam so
với các nước trong khu vực và thế giới, tức là phát triển nhanh và bền vững. Qua
trình đó khơng thể xa rời việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

22


Sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền cịn ở lĩnh vực tư
tưởng, trong đó phải nắm vững nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động là
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Toàn Đảng từ Trung ương đến
cơ sở, mọi cán bộ, đảng viên,phải kiên định lập trường, kiên định độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng đòi hỏi phải
tiếp tục nhận thức đúng đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới tư
duy, từ bỏ những quan niệm sai trái, cách suy nghĩ lạc hậu, chống quan liêu, chủ
quan duy ý chí, khơng xuất phát từ những biến động của Việt Nam và tình hình
thế giới.
Đăc biệt, trên lĩnh vực phương thức lãnh đạo và phong cách công tác của
Đảng, tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng có nghĩa là đề cập trực tiếp tới việc thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, liên quan đến sự tồn vong của Đảng. Đây
là một vấn đề cấp thiết và đang đặt ra, nó là yếu tố bảo đảm thắng lợi sự nghiệp
cách mạng của Đảng. Để thực hiện được việc đó thì địi hỏi Đảng phải thường
xun làm tốt và đổi mới cơng tác tư tưởng đối với tồn thể đội ngũ cán bộ,
đảng viên và toàn thể nhân dân.
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI CÔNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Ở ĐẢNG BỘ NINH BÌNH

2.1. Những yếu tổ tác động đến q trình đổi mới cơng tác tư tưởng ở
Đảng bộ Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay
2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực nam khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ, tiếp
giáp với 4 tỉnh: phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp 2 tỉnh là Thái Bình và
Thanh Hố, phía Đơng giáp tỉnh Nam Định, phía Nam giáp Biển Đơng. Ninh
Bình có đường bờ biển dài 18km, bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi
đắp trên 100m. Hiện nay diện tích tự nhiên của tỉnh là hơn 1400km2. Tồn tỉnh
có 67000ha đất nơng nghiệp, trên 20000ha diện tích núi đá vơi.

23


Ninh Bình có dân số khoảng gần 1 triệu người với mật độ khoảng 700
người/km2. Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 2 tơn giáo chính là Phật giáo và
Thiên chúa giáo.
Ninh Bình có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế,
văn hoá giữa lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng Đồng Bằng
Bắc Bộ với vùng núi Tây Bắc của Tổ quốc. Trên địa bàn tỉnh có quốc lộ 1A, 10,
12A, 12B và đường sắt Bắc Nam chạy qua cùng hệ thống sơng ngịi dày đặc như
sơng Đáy, sơng Hồng Long, sông Càn, sông Vạc, sông Vân…. Điều này tạo
thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ rất thuận tiện cho giao lưu, phát triển kinh
tế trong và ngoài tỉnh.
Thời nhà Nguyễn, địa bàn tỉnh Ninh Bình là 2 phủ Trường Yên (gồm 3
huyện Gia Viễn, Yên Khang, Yên Mô) và Thiên Quan (gồm 3 huyện Phụng Hoá,
Yên Hoá, Lạc Thổ). Năm 1831, Ninh Bình trở thành 1 trong số 13 tỉnh ở Bắc
Kỳ. Năm 1949, tỉnh Ninh Bình có 6 huyện: Yên Khánh, Nho Quan , Kim Sơn,
Gia Khánh, Gia Viễn, Yên Mô với 135 xã thuộc liên khu 3. Sáu huyện vẫn giữ
nguyên cho đến khi tỉnh Ninh Bình hợp nhất với tỉnh Nam Hà thành tỉnh Hà
Nam Ninh theo Nghị quyết của Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ 2 ngày 27/12/1975.

Ninh Bình được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 10
ngày 26/12/1991. Khi tách ra, tỉnh Ninh Bình có diện tích 1386,77km2; dân số
787,877 người; gồm hai thị xã Ninh Bình (tỉnh lỵ), Tam Hiệp và 5 huyện Kim
Sơn, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp, Hoàn Long. Ngày 23/11/1993, huyện Hoàng
Long đổi lại tên cũ là huyện Nho Quan. Ngày 4/7/1994, huyện Tam Điệp đổi lại
tên cũ là huyện Yên Mô và tái lập huyện Yên Khánh từ 10 xã của huyện Tam
Điệp cũ và 9 xã của huyện Kim Sơn.
Đến nay, Ninh Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện trực thuộc là:
Thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp, huyện Gia Viễn, huyện Hoa Lư, Kim
Sơn, Nho Quan, Yên Khánh, huyện Yên Mô.
Với sự sự nỗ lực của Tỉnh ủy, UBND, các ban, ngành, đoàn thể cùng tồn
thể nhân dân phấn đấu vì một mục tiêu xây dựng quê hương Ninh Bình giàu
24


đẹp, vì vậy mà trong những năm qua tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã có
những bước chuyển biến tích cực:
Kinh tế tiếp tục có bước tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng GĐP đạt
14%. Thu ngân sách liên tục tăng, đạt được mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIX đề
ra, tạo thế và lực mới cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, cơ cấu kinh tế chuyển
biến rõ rệt theo hướng tăng tỷ trọng các ngành cơng nghiệp, dịch vụ, du lịch và
văn hố xã hội đạt nhiều thành tích mới, đời sống nhân dân được cải thiện, an
ninh chính trị được giữ vững, quốc phịng được tăng cường, hệ thống chính trị
được củng cố ngày càng vững mạnh.
Năm 2008, đã hoàn thành vượt mức 13/15 chỉ tiêu đề ra, tạo đà tăng
trưởng trong các năm tiếp theo.
Về tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 20,3% (mục tiêu là
25%), tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp đạt 4,7% (mục
tiêu là 4,5%), tốc độ tăng dịch vụ đạt 16% (mục tiêu là 15%). Giá trị sản phẩm /
1ha đạt 41,5 triệu/ha, sản lượng lương thực đạt 47,8 vạn tấn. Kim nghạch xuất nhập khẩu đạt 125 triệu USD (mục tiêu là 120 triệu USD). Thu ngân sách Nhà

nước trên địa bàn đạt 1340 tỉ đồng (mục tiêu là 900 tỉ đồng). Tỉ lệ hộ đói nghèo
là 12% (mục tiêu là 13%), mức giảm tỉ lệ sinh là 0,22%. Tỉ lệ hộ dùng nước sạch
là 67,7% ( mục tiêu là 67%). Tạo ra việc làm mới cho 16500 (Mục tiêu là
16000).
Có ba nguồn thu chính là:
_ Thuế, lệ phí
_ Xuất – nhập khẩu
_ Đấu giá đất
Trong đó đấu thầu đất là một nguồn thu quan trọng trong năm qua.
Tổng thu là :1340 tỉ đồng
Tổng chi là: 2365 tỉ đồng
Du lịch đạt hơn 1,5 triệu lượt du khách tăng gần 30% so với năm 2007
25


×