1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-------------------
PHẠM THÀNH TRUNG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG CHUYÊN ĐỀ
“CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ” CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ SỞ TỈNH
NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PPDH BỘ MƠN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS, GVC. ĐINH TRUNG THÀNH
NghÖ An, 2011
2
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Cụm từ viết tắt
CNXH
UBND
HNKTQT
UBQG-HTKTQT
CNH
HĐH
NXB
Diễn giải
Chủ nghĩa xã hội
Ủy ban nhân dân tỉnh
Hội nhập kinh tế quốc tế
Ủy ban quốc gia
về Hợp tác kinh tế quốc tế
Cơng nghiệp hóa
Hiện đại hóa
Nhà xuất bản
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
Trang
3
Sự cần thiết của việc bồi dưỡng chuyên đề ”Chủ động,
tích cực Hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ
12
1.1
cơ sở của tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ hội nhập.............
Một số vấn đề chung về công tác bồi dưỡng chuyên đề
12
1.2
Hội nhập kinh tế cho cán bộ cơ sở trong thời kỳ hội nhập...
Thực trạng cơng tác bồi dưỡng chun đề “Chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ
Chương 2
cơ sở ở tỉnh Ninh Bình...............................................
Quan điểm, phương hướng và một số giải pháp nâng
30
cao hiệu quả bồi dưỡng chuyên đề ”Chủ động, tích cực
Hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở
2.1
tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay...........................
Một số quan điểm cơ bản trong cơng tác bồi dưỡng
50
chun đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc
2.2
tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình………..
Phương hướng cơ bản của cơng tác bồi dưỡng chuyên
50
đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho
2.3
đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình…………………
Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả bồi
52
dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực HNKTQT” cho đội
ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình trong bối cảnh hiện nay...
Kết luận và kiến nghị....................................................................
Danh mục các tài liệu tham khảo…………………………………
Phụ lục……………………………………………………………….
55
73
77
80
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở vừa hồng vừa chuyên, để lãnh đạo quản lý đất
nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, đưa
nước ta từng bước tiến lên CNXH là một vấn đề có tính chiến lược trước mắt
cũng như lâu dài. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo
quản lý cấp cơ sở là vấn đề bức xúc đặt ra với các cơ sở đào tạo hiện nay.
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thể hiện trực
tiếp và cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Vì vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở xã, phường, thị
trấn, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ
thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Thời kỳ đổi mới, hội nhập của đất nước đã đạt được nhiều thành tựu
kinh tế xã hội. Song trước những triển vọng và điều kiện mới trong hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới đặt ra yêu cầu các ngành, các cấp, đặc biệt là cán
bộ cơ sở nhận thức đầy đủ cả về bản chất, nội dung, yêu cầu và lộ trình hội
nhập để vận dụng một cách chủ động, linh hoạt và tích cực, phù hợp với đặc
điểm, nhiệm vụ của từng ngành, địa phương...
Bồi dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”
cho đội ngũ cán bộ cơ sở nhằm quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; biến tư tưởng, lý luận thành niềm tin
và hành động tự giác, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, tạo sự thống nhất về tư
tưởng và hành động trong Đảng, tổ chức và trong xã hội.
2
Cùng với cả nước, Ninh Bình đang trong thời kỳ hội nhập sâu vào nền
kinh tế quốc tế, đội ngũ cán bộ cơ sở trong bộ máy hành chính nhà nước tạo
thành một nguồn lực lớn phục vụ cho quá trình tổ chức và hoạt động của Nhà
nước. Đội ngũ cán bộ cơ sở có một vai trị đặc biệt quan trọng trong việc quản
lý và thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đội ngũ cán bộ
cơ sở của tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cần
được trang bị kiến thức mới để đương đầu với những thay đổi của thời cuộc,
trong thời kỳ chuyển tiếp này cần phải có sự chuẩn bị, chọn lọc chu đáo để có
một đội ngũ cán bộ trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nắm vững
đường lối cách mạng của Đảng; vững vàng, đủ phẩm chất và bản lĩnh chính
trị, có năng lực về lý luận, pháp luật, chun mơn, có nghiệp vụ hành chính và
khả năng thực tiễn để thực hiện cơng cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh. Tuy
nhiên, đội ngũ cán bộ cơ sở của Ninh Bình được đào tạo trong cơ chế trước
đây bộc lộ nhiều hạn chế về trình độ lý luận chính trị, cịn thiếu chun mơn
cần thiết, nhất là về Nhà nước, pháp luật và kỹ thuật, nghiệp vụ hành chính
nhà nước để quản lý một nền kinh tế mở, nhất là trong điều kiện quan hệ quốc
tế ngày càng phát triển, khơng chỉ như vậy, cịn có một bộ phận hay mắc
những khuyết điểm, sai lầm, bệnh quan liêu, mệnh lệnh, vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân, chấp hành luật pháp và kỷ cương không nghiêm, khơng tơn
trọng lợi ích chung của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, đến nay việc lựa chọn, xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế các cấp ở tỉnh Ninh Bình đã có những bước tiến
triển đáng ghi nhận. Ninh Bình đã dần dần trẻ hóa được đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý, kinh tế nhất là ở cấp cơ sở, thay đổi được một số cán bộ lãnh
đạo, quản lý năng lực yếu kém, có khuyết điểm và giảm sút ý chí chiến đấu,
khơng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, bổ nhiệm được một số cán bộ có
3
phẩm chất, năng lực và tín nhiệm thay thế. Tuy nhiên, xem xét một cách
nghiêm túc trên tổng thể từ vĩ mô đến vi mô, từ tỉnh đến địa phương và cơ sở
vẫn thấy cịn nhiều thiếu sót tồn tại, biểu hiện ở nhiều mặt. Đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý kinh tế có đổi mới nhiều, nhưng chưa mạnh, trình độ lý luận,
chun mơn của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý còn yếu, chưa đáp ứng được
nhu cầu đòi hỏi cao của cách mạng đặt ra.
Nhằm nâng cao chất lượng, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu vấn đề “Nâng cao hiệu quả
bồi dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội
ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay” có ý nghĩa cấp
bách cả về lý luận và thực tiễn.
Mặc dù đã có một số cơng trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ cán bộ
song, cho đến nay chưa có cơng trình cụ thể đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống và đề ra giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng kiến thức
HNKTQT cho cán bộ cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nhằm đảm bảo chỉ tiêu cả
về số lượng và hiệu quả trong nội dung đào tạo nâng cao năng lực công tác cho
đội ngũ cán bộ cơ sở theo kịp được yêu cầu của thời kỳ hội nhập.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
HNKTQT là chủ trương xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta.
Phát triển tư tưởng đổi mới của Đại hội VI (1986), trong Cương lĩnh của
mình, Đại hội VII (1991) chỉ rõ: "Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên
xã hội chủ nghĩa... Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những ngun
tắc cùng tồn tại hịa bình". Chính sách kinh tế đối ngoại cũng được xác định
4
là: "Đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ
chức kinh tế trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng
có lợi" [7; 35].
Đại hội VIII (1996) phát triển thêm một bước: "Tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa
các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển. Hợp tác
nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và
khu vực,..." [9; 54]. Đại hội IX (2001) của Đảng khẳng định thêm một lần
nữa: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế...", "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường" [12; 38]. Đại
hội X (2006) nhấn mạnh: "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...",
"Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với
các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích của
đất nước làm mục tiêu cao nhất" [15; 52].
Ngồi ra, cịn có các Nghị quyết khác rất cụ thể của Ban Chấp hành
Trung ương và Bộ Chính trị về cơng tác đối ngoại và về HNKTQT.
- Quán triệt quan điểm của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên
giáo trung ương đã ban hành nhiều chỉ thị về việc trang bị những thông tin,
kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế và WTO cho các cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Bởi đây là cán bộ của những cơ quan trực tiếp tham mưu, giúp việc cho
các lãnh đạo của Đảng, Chính quyền trong cơng tác hoạch định chính sách,
pháp luật trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; đồng thời đóng vai trị quan
5
trọng trong việc triển khai đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và
Nhà nước ta. Ngày 13/11/2008 Ban Tuyên giáo trung ương đã ban hành
hướng dẫn Những nội dung cần chú ý khi giảng chương trình bồi dưỡng
chuyên đề "Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" Kèm theo Hướng dẫn
số 58 - HD/BTGTW.
Cũng đã có một số cơng trình khoa học của các tác giả, các nhà khoa
học đề cập tới tiến trình hội nhập và những tác động của nó tới cơng tác lãnh
đạo, công tác cán bộ. Tiêu biểu cho các công trình đó, có thể kể đến: “Hội
nhập quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng ta”, Hà Đăng, Tạp chí Cộng sản,
Số 2+3 (122 +123) năm 2007; “Cơng tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới”,
Chu Thái Thành, Tạp chí Cộng sản, Số 1 (122) năm 2007; “Về đội ngũ cán
bộ, công chức xã, phường, thị trấn”, Nguyễn Đức, Ban Tổ chức Trung ương,
Tạp chí Cộng sản số 18/2008.
Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức Hội nhập kinh tế
quốc tế trong tình hình hiện nay đang là sự đòi hỏi cấp bách. Yêu cầu đổi mới
tuyên truyền, phổ biến kiến thức Hội nhập kinh tế quốc tế là thường xuyên
đưa cái mới vào quá trình giáo dục để tạo ra sự phát triển mới, để không
ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục mà vẫn giữ được ổn định.
Xuất phát từ yêu cầu công tác cán bộ trong thời kỳ mới của đất nước, một số
cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, như: Luận văn thạc sĩ: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản
lý nhà nước về kinh tế trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Thanh
Hố" của Cầm Bá Tiến, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2000; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp huyện ở nước ta hiện nay" của Vũ Đình Chuyên, Luận văn thạc sĩ Triết
học năm 2000; Nguyễn Thị Hồng Lê: "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn
6
hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2004. Luận văn thạc sĩ Khoa học
Giáo dục của Đặng Thị Mỹ Cẩm năm 2010: “Nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ đảng viên ở đảng bộ khối doanh
nghiệp Đồng Tháp”.
Trong các cơng trình trên, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở; làm rõ bản chất, đặc trưng, tầm quan trọng của việc nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ đảng viên khối doanh nghiệp,
thực trạng trình độ lý luận chính trị cũng như cơng tác đào tạo nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ này.
Trong những năm gần đây, đã có những cơng trình nghiên cứu, bài
viết của các tác giả dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này như:
Nguyễn Khoa Điềm (2004), "Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu
quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới", Tạp chí Thơng tin
cơng tác tư tưởng lý luận, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương đã nêu tầm
quan trọng của việc học tập của cán bộ, đảng viên, trong đó học tập lý luận
chính trị có vị trí cực kỳ quan trọng; những nội dung của cơng tác giáo dục lý
luận chính trị; đồng thời nêu ra một số giải pháp nhằm đảm bảo yêu cầu và
nhiệm vụ của công tác giáo dục lý luận trong bối cảnh hội nhập.
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ
bản cả về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để
nâng cao kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế ở cấp này cấp khác. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cho tới nay chưa có
cơng trình nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về
thực trạng cũng như nêu ra những chủ trương, giải pháp để nâng cao hiệu quả
bồi dưỡng chuyên đề "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" cho đội
7
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ở tỉnh Ninh Bình (tác giả nhấn mạnh). Vì
vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp đổi mới nói chung, từng bước khắc phục tình
trạng đội ngũ cán bộ cơ sở vừa thiếu lại vừa yếu như hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc
thành quả nghiên cứu của các cơng trình có liên quan đến luận văn.
Qn triệt các nghị quyết của Đảng, tiếp thu một cách có chọn lọc kết
quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học của các tác giả, luận văn đi sâu
nghiên cứu “Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng chuyên đề "Chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế" cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn
hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Trên cơ sở đánh giá thực trạng trình độ nhận thức về Hội nhập kinh tế
quốc tế của đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình, mục đích của luận văn là đề
ra các giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng
chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ
cơ sở tỉnh Ninh Bình.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, luận văn phải thực hiện được các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ vai trò của việc bồi dưỡng chuyên đề về Hội nhập kinh tế
quốc tế đối với việc nâng cao trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ cơ sở.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng nhận thức của đội ngũ cán bộ cơ
sở tỉnh Ninh Bình về vấn đề Hội nhập kinh tế quốc tế và những nguyên nhân
của thực trạng đó.
8
- Đề xuất và lý giải được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm
nâng cao trình độ nhận thức chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Nội dung, phương pháp, bồi dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình.
4.1. Phạm vi
Trong mối liên hệ với chính trị, luận văn phân tích, làm rõ vai trị của
việc bồi dưỡng, nâng cao nhận thức chuyên đề “Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế” của đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, những quan điểm của Đảng về cơng tác giáo dục lý luận chính trị,
về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Luận văn được trình bày dưới góc độ Khoa học Giáo dục với các
phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực trạng và nhu cầu giáo dục phổ
biến, bồi dưỡng kiến thức Hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp cơ sở của tỉnh Ninh Bình.
- Phương pháp phỏng vấn, trao đổi, trò chuyện nắm bắt tâm tư nguyện
vọng của cấp ủy Đảng, cán bộ làm công tác giáo dục phổ biến, bồi dưỡng
kiến thức Hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở
tỉnh Ninh Bình.
- Phương pháp tìm hiểu và phân tích tài liệu.
9
- Phương pháp lịch sử cụ thể.
- Phương pháp thống kê.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của kiến thức hội nhập kinh tế
quốc tế đối với đội ngũ cán bộ quản lý cấp cơ sở của một tỉnh vùng Đông Bắc Bộ
nước ta. Đồng thời đánh giá được thực trạng nhận thức về Hội nhập kinh tế quốc
tế và năng lực thực tiễn của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, đề xuất với tỉnh một số
giải pháp chủ yếu để từng bước nâng cao trình độ cả lý luận lẫn thực tiễn cho họ,
đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu luận văn được thơng qua thì có thể làm tài liệu phục vụ công tác
nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng, trường chính trị…
8. Ý nghĩa của luận văn
Những kết luận được rút ra qua nghiên cứu và những chủ trương, giải
pháp trình bày trong luận văn sẽ góp phần nâng cao trình độ cả lý luận lẫn
thực tiễn cho đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh Ninh Bình. Đồng thời đây cũng là
tài liệu để tham khảo phục vụ cho việc hoạch định chiến lược, xây dựng, quy
hoạch đội ngũ cán bộ cho tỉnh Ninh Bình.
9. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề
tài gồm 2 chương, 5 tiết.
10
NỘI DUNG
Chương 1
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG CHUYÊN ĐỀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ CỦA
TỈNH NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề chung về công tác bồi dưỡng chuyên đề Hội
nhập kinh tế cho cán bộ cơ sở trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản của luận văn
1.1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế và chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ xuất hiện trong vài thập kỷ
gần đây và cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh
tế quốc tế. Cách hiểu đó xoay quanh hai loại ý kiến:
Loại ý kiến thứ nhất quan niệm HNKTQT là quá trình các quốc gia
tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết quốc tế
song phương, đa phương và toàn cầu về các lĩnh vực thương mại, đầu tư và
các lĩnh vực khác có liên quan nhằm đảm bảo tính tương thích giữa hệ thống
kinh tế quốc gia với hệ thống kinh tế khu vực và toàn cầu dựa trên cơ sở
những nguyên tắc và qui định thống nhất. Điều thấy rõ nhất về quá trình
HNKTQT từ quan niệm này là việc thống nhất các chính sách, quy định pháp
lý trong từng quốc gia với nguyên tắc, thông lệ quốc tế.
Loại ý kiến thứ hai quan niệm HNKTQT là quá trình các quốc gia
loại bỏ dần các rào cản để hoạt động thương mại, di chuyển các yếu tố sản
xuất và thanh toán quốc tế diễn ra một cách thuận lợi. Quan niệm này hiểu
quá trình hội nhập gắn với quá trình tự do hóa.
11
Mặc dù có những quan niệm khác nhau nhưng quan niệm tương đối
phổ biến nhất hiện nay là: “HNKTQT là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia
vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và tồn cầu trong đó các thành viên chịu
sự ràng buộc theo những qui định chung của cả khối. Nói một cách khái quát,
HNKTQT là quá trình các quốc gia thực hiện mơ hình kinh tế mở, tự nguyện
tham gia vào các định chế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do
hóa thương mại, đầu tư và hoạt động kinh tế đối ngoại khác” [23; 237].
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy
định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công
khai, rõ ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói
chung đều hoạt động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
- Công bằng: các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của
mình và chung cho mọi nước (nghĩa là mọi hàng hố và dịch vụ của các cơng
ty các nước đối tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung); đồng thời
khơng phân biệt chính sách thương mại giữa các cơng ty: mọi chế độ chính
sách liên quan đến thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải bình đẳng
giữa các doanh nghiệp trong và ngồi nước, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản
xuất nội địa.
- Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm cơng cụ
bảo hộ cho nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy
phép, quota, hạn ngạch xuất nhập khâu... đều không được sử dụng, các biểu
thuế này đều phải có lộ trình rõ ràng cơng khai về việc giảm dần đến tự do
hố hồn tồn (thuế suất bằng 0%).
- Làm ăn hay thương lượng với nhau phải trên cơ sở có đi có lại: khi
nền kinh tế thị trường của một nước thành viên bị bị hàng nhập khâu đe doạ
thái quá hoặc bị những biện pháp phân biệt đối xử gây hại, thì nước đó có
12
quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn
cấp cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi
cua nền kinh tế trong nước.
- Cơng khai mọi chính sách thương mại và đầu tư. Với các điều kiện và
nguyên tắc trên, nước “đi sau” như nước ta có nhiều thuận lợi, nhất là học hỏi
kinh nghiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng phải chịu rất nhiều khó
khăn thách thức, mà quan trọng hàng đầu là bảo hộ nền sản xuất trong nước
và các doanh nghiệp việt nam, nhất là các doanh nghiệp mới “chân ướt chân
ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Đây không chỉ đơn thuần là việc bảo hộ
thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của yêu
cầu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá
trình tự do hố. Khơng thể có hội nhập quốc tế mà khơng có tự do hố kinh tế,
đây là một đặc điểm mới của xu thế tồn cầu hố ngày nay. Vấn đề quan
trọng trong việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình hội
nhập và tự do hoá như thế nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế để
có thể phát huy được các thế mạnh của đất nước, tận dụng được những ưu thế
của hợp tác quốc tế, tạo rá sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia,
nâng cao vị thế của mình trong phân cơng lao động quốc tế.
1.1.1.2. Khái niệm bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế
Bồi dưỡng: Bồi dưỡng có hai nghĩa: “1. Làm cho khỏe thêm, mạnh
thêm; 2. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn: bồi dưỡng đạo đức, bồi dưỡng nghiệp vụ”
[30; 354].
Bồi dưỡng là quá trình hoạt động làm tăng thêm kiến thức mới cho
những người đang giữ chức vụ, đang thực thi công việc của một ngạch, bậc
nhất định để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao. Khối lượng kiến thức,
13
kỹ năng được quy định tại các chương trình, tài liệu phải phù hợp với từng đối
tượng cán bộ, công chức. Kết quả của các khoá bồi dưỡng, người học sẽ nhận
được chứng chỉ ghi nhận kết quả như: bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước
ngạch chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên hoặc bồi dưỡng
chuyên đề, công tác chuyên môn, tập huấn nghiệp vụ.
Như vậy, bồi dưỡng cán bộ cơ sở là một phương tiện để đạt tới mục
đích cuối cùng chứ bản thân nó khơng phải là mục đích cuối cùng. Cơng tác
bồi dưỡng theo như thường hiểu, bao hàm nhiều hoạt động giáo dục và phát
triển chứ không chỉ là một phần của chương trình học tập kiến thức, kỹ năng.
Cơng tác bồi dưỡng là một bộ phận của chiến lược tổng thể quản lý nguồn
nhân lực bao gồm lập kế hoạch và công tác quản lý cán bộ; các quy định
nhiệm vụ cho công chức, lương bổng, các sáng kiến quản lý công việc và
năng suất công tác; các mối quan hệ lao động trong cơ quan, tổ chức v.v. Bồi
dưỡng Cán bộ cơng chức ở cơ sở giữ vai trị bổ trợ, tăng cường kiến thức, kỹ
năng để người cán bộ cơ sở có đủ năng lực đáp ứng hoạt động quản lý, điều
hành. Đào tạo và bồi dưỡng là hai khái niệm phản ánh cùng một mục tiêu là
truyền kiến thức cho người công chức. Tuy vậy, hai thuật ngữ này có những
tính chất, nội dung, phạm vi tồn tại và quy trình khác nhau.
Quan niệm này mang tính thực tiễn của Việt Nam và cũng phù hợp với
khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng trong Từ điển tiếng việt do Nxb Đà Nẵng
phát hành năm 2004: đào tạo, bồi dưỡng là làm tăng năng lực và phẩm chất
cho người được đào tạo, bồi dưỡng.
Khái niệm bồi dưỡng được dùng với nghĩa là cập nhật, bổ túc thêm một
số kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ
bản, cung cấp thêm những kiến thức chuyên ngành, mang tính ứng dụng...
14
Bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế là việc nâng cao nhận thức
và trang bị thêm cho lãnh đạo, cán bộ quản lý và các doanh nghiệp những
kiến thức về cơng tác đối ngoại và tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước.
1.1.1.3. Khái niệm về cán bộ cơ sở
Khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy
chục năm gần đây để chỉ một lớp người là những chiến sỹ cách mạng, lớp
người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ
cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc. Tên gọi cán bộ đã từng
để lại dấu ấn đẹp trong lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo.
Từ cán bộ được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được dùng
phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ban đầu, từ này
được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán bộ. Từ cán bộ
dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở lên. Dần
dần từ cán bộ được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến
thoát ly, để phân biệt với nhân dân.
Trong từ điển Nhật – Việt, từ cán bộ cũng được dùng tương tự như ở
Trung Quốc, có nghĩa là người ở hạng cao (trong một tổ chức đoàn thể), là
yếu nhân. Ở Nhật hiện nay, từ cán bộ phần lớn được dùng trong quân đội để
chỉ những người đóng vai trị quan trọng, cịn để chỉ cơng chức hay viên chức
thì họ dùng từ quan liêu (dùng để chỉ những người làm trong bộ máy nhà
nước. Nghĩa của từ cán bộ ở Nhật trung thành nhiều hơn với từ gốc mà nó
được dịch ra (Cadre). Trong tiếng Pháp cũng như tiếng Anh, từ này có nhiều
nghĩa, tựu trung có hai nghĩa chủ yếu được chuyền vào từ cán bộ của Nhật,
Trung Quốc và Việt Nam. Nghĩa thứ nhất là cái khung (ảnh), cái khuôn.
Nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội, trong
một tổ chức làm thành một nòng cốt.
15
Cũng như hiện tượng chung của ngôn ngữ, từ cán bộ, khi du nhập
vào nước ta đã được áp dụng theo thực tiễn tâm lý – văn hóa Việt Nam, nên
đã biến đổi khơng cịn ngun như nghĩa gốc. Tuy nhiên, cái hàm nghĩa: bộ
khung, người làm nòng cốt, người chỉ huy luôn được lưu giữ và nhận thức.
Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả
những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đồn thể,
qn đội. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi như những người có
mức lương từ cán sự (cũ) trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương
thấp hơn cán sự một.
Trong Từ điển Tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa:
- Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước,
đảng và đồn thể.
- Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người khơng có chức vụ.
Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:
một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn
viên, hội viên; hai là, những người làm cơng tác chun trách có hưởng lương
trong các tổ chức đảng và đoàn thể.
- Trong hệ thống nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với
từ công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc hành
chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu
là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phịng,
vụ, cục, v.v…).
16
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có
khác nhau, nhưng về cơ bản, từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ
khung, là nịng cốt, là chỉ huy. Như vậy có thể quan niệm một cách chung
nhất, cán bộ là khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ, vai trị và
cương vị nịng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động
của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp
phần định hướng sự phát triển của tổ chức.
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay các chức danh cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt gồm: bí thư, phó bí thư và các ủy viên ban thường vụ
đảng ủy là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt Đảng ở cơ sở; chủ tịch, phó chủ
tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch, phó chủ tịch UBND là những cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt chính quyền cơ sở; người đứng đầu các đồn thể chính
trị - xã hội gồm mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ, đồn thanh niên, hội cựu chiến
binh, hội nơng dân là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt đoàn thể ở cơ sở.
Như vậy, đội ngũ cán bộ cơ sở, ngồi những chức danh chun mơn
theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP của Chính phủ cịn các chức
danh khác đều thơng qua bầu cử và làm việc có nhiệm kỳ.
1.1.2. Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về Hội nhập
kinh tế quốc tế
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng quan tâm và dày cơng xây dựng
Đảng thành một khối đại đoàn kết thống nhất vững mạnh, trong sạch. Người
thường chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ trở thành những con người vừa hồng vừa
chun. Người cịn dạy “Mn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ
tốt hoặc kém…”. Những tư tưởng của Người về công tác cán bộ vẫn luôn là
17
những giá trị thực tiễn, là bài học kinh nghiệm vô giá trong công cuộc dựng
xây nhà nước pháp quyền hiện nay và mai sau.
Bên cạnh đó, quan điểm nổi bật trong hội nhập và hợp tác quốc tế của
Hồ Chí Minh là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn
với một ai”, thể hiện tư tưởng hịa bình, hữu nghị, cùng có lợi. Một lần trả lời
các nhà báo, Hồ Chí Minh đã nói: Có thể rằng, chúng ta hoan nghênh những
người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu
chưa có ai khai thác. Có thể rằng: chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn
Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong cuộc
kiến thiết quốc gia. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện đất nước cịn nghèo
thì hội nhập, hợp tác quốc tế, sự giúp đỡ của các nước là một nguồn vốn quý
cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng
của ta, phát triển khả năng của ta. Người không bao giờ nhầm lẫn giữa những
giá trị văn minh của nhân loại với những xấu xa của chủ nghĩa tư bản thực
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ rằng, mọi thành tựu của khoa học kỹ
thuật, mọi nguồn lực kinh tế, văn hóa đã được tạo ra đều là tài sản chung của
văn minh nhân loại. Do đó, nước ta phải tích cực hội nhập thơng qua các hình
thức hợp tác quốc tế để khai thác tốt nhất mọi giá trị nguồn lực của nhân loại
nhằm làm giàu và tăng cường sức mạnh cho dân tộc, giữ vững quyền độc lập
tự do, mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào. Từ địa vị một nước thuộc địa mới
giành độc lập, lại nghèo, trong hội nhập, hợp tác với các nước, bao giờ cũng
tiềm ẩn nhiều điều bất lợi. Do vậy, Hồ Chí Minh địi hỏi hợp tác, quan hệ
quốc tế phải trên cơ sở thật thà và cùng có lợi, chống lại mọi thủ đoạn để dẫn
tới sự can thiệp và thơn tính lẫn nhau. Người khẳng định: Việt Nam sẵn sàng
cộng tác thân thiện với công dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công
nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam sẽ
18
được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bè bạn. Song nhân dân
Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân phiệt.
Quan điểm tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thể hiện rõ trong thư của Người gửi cho Liên hợp quốc tháng 12/1946:
“Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở
cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
a) Nước Việt Nam giành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà
tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá
giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế
quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc…
Trong cuộc đấu tranh vì những quyền thiêng liêng của mình, nhân dân
Việt Nam có một niềm tin sâu sắc rằng họ cũng chiến đấu cho một sự nghiệp
chung: Đó là sự khai thác tốt đẹp những nguồn lợi kinh tế và mọi tổ chức có
hiệu quả cho an ninh ở Viễn Đông” [22; 470].
Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức, quá
trình đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, hội nhập và hợp tác quốc tế có
vai trị to lớn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về hội nhập, hợp tác quốc tế thật sự là kim chỉ nam để dân tộc ta
vượt lên sớm thốt khỏi đói nghèo, thực hiện dân giàu, nước mạnh.Chính
những tư tưởng vơ cũng q báu ấy đã được Đảng ta vận dụng xây dựng các
chiến lược xây dựng, phát triển thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế nhằm góp
phần vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ đất nước,
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chủ
động hội nhập quốc tế.
19
Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung về tồn cầu hố của thời
đại, đại hội VI của Đảng (12/1986) trong khi quyết định chuyển từ mơ hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mơ hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải
tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao đông quốc tế, tích cực phát
triển quan hệ kinh tế và khoa học kĩ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và
tư nhân nước ngồi trên ngun tắc bình đẳng cùng có lợi.
Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, Nhà nước ban hành hệ thống
luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luật lao động, luật thương mại, luật ngân
hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn thơng, luật xây dựng, luật khoa học
công nghệ, luật tài nguyên... Sửa đổi và bổ sung pháp luật và pháp lệnh hiện
hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam... Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật... Đối với những chính sách:
Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư...để kích
thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp...tạo
điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ những yêu cầu đặt ra đó, cán bộ cơ sở địi hỏi phải có sự nhanh
nhẹn, linh hoạt, nắm bắt kịp thời các đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước để tuyên truyền, phổ biến cho các doanh nghiệp, tầng lớp
nhân dân trên địa bàn từng bước đáp ứng được yêu cầu của HNKTQT.
1.1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu nâng cao trình độ, kiến
thức cho đội ngũ cán bộ cơ sở
Trong bối cảnh hiện kinh tế hiện nay cịn rất nhiều biến động, tồn cầu
hố kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu
tranh. Để phát triển trong bối cảnh như vậy, HNKTQT trở thành một đòi hỏi
20
khơng thể né tránh đối với các nước. Vì vậy, Đảng ta đã quyết định: Chủ động
HNKTQT và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi
ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo
vệ mơi trường. Tồn cầu hoá và HNKTQT đã trở thành một xu thế tất yếu
trong quan hệ kinh tế hiện nay. Trong xu thế đó, ở các mức độ khác nhau, các
nước khơng thể không tham gia hội nhập. Vấn đề đặt ra là nếu khơng có sự
chuẩn bị, khơng chủ động phát huy nội lực thì khơng thể hội nhập thành cơng.
Tồn cầu hố kinh tế có tác động hai mặt đối với nền kinh tế của mọi quốc
gia. Q trình tồn cầu hố kinh tế khơng chỉ gây tác động lan toả, phổ cập
những mặt tích cực mà nó cịn gây ra những mặt trái, ảnh hưởng tới sự phát
triển của các quốc gia. Tuy thế giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi
nước vẫn đang tồn tại sự khác biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành
động trước tồn cầu hố. Những nước và nhóm xã hội yêu thế thường bị thua
thiệt do tác động từ những mặt trái của tồn cầu hố và ln phản đối nó hoặc
trong tâm thế thích ứng bị động. Trong khi đó, những nước và những người
có sức mạnh chi phối tồn cầu hố lại coi đó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho
mình và ra sức tận dụng những mặt tích cực của nó. Cho dù vậy, tồn cầu hố
vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới hình thức này hay khác, với các mức độ
khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội của hầu hết các
nước, nếu nhìn về dài hạn. Bên cạnh đó, HNKTQT là điều kiện cần thiết
không thể thiếu được để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Ngày
nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc tế,
thì vấn đề cốt lõi là phải tăng cường thực lực kinh tế và chủ động hội
nhập. Đồng thời có tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập hiệu
quả như mong muốn. Xác định độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật
chất cơ bản bảo đảm sự bền vững của độc lập tự chủ về chính trị và do
21
đó, trên con đường HNKTQT, các nước tham gia HNKTQT tế phải có
đường lối, chính sách kinh tế độc lập tự chủ, gắn với nguyên tắc chủ
động HNKTQT trên nguyên tắc bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, kế thừa thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp và
đặc biệt vào những năm 80 của thế kỷ XX đã diễn ra cuộc cách mạng khoa
học công nghệ tạo ra tiền đề quan trọng cho tất cả các quốc gia đó là:
- Tạo khả năng cho các ngành sản xuất trong việc ứng dụng các công
nghệ hiện đại và kỹ thuật do con người tạo ra.
- Nhu cầu xã hội, đặc biệt là nhu cầu tiêu dùng của con người ngày
càng được thỏa mãn với chất lượng cao.
- Xuất khẩu tăng nhanh, cung luôn vượt cầu, thị trường trở nên chật hẹp.
- Phải đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại,
thực hiện phân công lao động quốc tế sâu sắc hơn.
- Ngày nay, các định chế kinh tế tài chính quốc tế xuất hiện ngày càng
nhiều và bao trùm lên phạm vi toàn cầu góp phần tạo động lực to lớn thúc đẩy
quá trình tồn cầu hóa. Sự xuất hiện của các tổ chức như IMF, AFTA,
NAFTA, là những ví dụ điển hình của các liên kết kinh tế tài chính thúc đẩy
hoạt động kinh tế diễn ra trên phạm vi rộng mang tính tồn cầu.
- Đặc biệt là sự xuất hiện WTO với tư cách là diễn đàn thương mại đa
phương, đã biến WTO thành một "Liên hợp quốc" về thương mại. Sự xuất
hiện WTO đã góp phần to lớn trong việc đẩy nhanh q trình tự do hóa
thương mại tồn cầu, làm cho quan hệ thương mại quốc tế thay đổi mạnh về
chất, phân công lao dộng quốc tế ngày càng sâu sắc.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nhu cầu và mục tiêu vươn tới
22
để trở thành một quốc gia cơng nghiệp có kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên
tiến, đời sống của nhân dân với chất lượng ngày càng cao. Tư tưởng chỉ đạo
đó đã được khẳng định trong nhiều Nghị quyết quan trọng của Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa VIII; IX, X, XI.
1.1.4 Vai trị của cơng tác bồi dưỡng chun đề “tích cực, chủ động
HNKTQT” đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cơ sở
Trong thời kỳ đổi mới, HNKTQT, vấn đề cải cách hành chính đã được Nhà
nước ta chú ý thực hiện và đã có những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, nền kinh
tế Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổi, việc tiếp tục cải cách hành
chính, kiện tồn bộ máy quản lý, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công chức, cải cách
cơ chế vận hành của bộ máy chính quyền các cấp vẫn đang là vấn đề cần thiết. Do
đó cần coi trọng nâng cao trình độ chun mơn nói chung, trình độ và kiến thức
hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đối với đội ngũ cán bộ cơ sở.
Đội ngũ cán bộ cơ sở là một trong những nhân tố có tính chất quyết định
sự thành công hay thất bại của một hệ thống quản lý nhà nước và hiệu quả của
các hoạt động kinh tế - xã hội ở cấp xã, phường, thị trấn. Ngày nay, lao động
quản lý có xu hướng trở thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu lao động
xã hội, là một nghề với một cơ cấu phức tạp trong cơ cấu sản xuất xã hội được
chuyên mơn hố, hiệp tác hố sâu sắc.Vai trị của cán bộ quản lý ngày càng
tăng do sản xuất xã hội ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và
có sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Điều đó làm tăng số lượng các
phương án và quyết định lựa chọn các phương án tối ưu trong sản xuất kinh
doanh trở nên phức tạp hơn. Do vậy, tác động của các quyết định quản lý đối
với đời sống kinh tế - xã hội vừa có thể đem lại hiệu quả lớn hoặc để lại hậu
quả nghiêm trọng. Thực tế cho thấy, nó địi hỏi tính trách nhiệm của mỗi cán
bộ cơ sở cả về chất lượng và tính khoa học của các quyết định quản lý. Đồng
thời, sự tăng nhanh khối lượng tri thức và độ phức tạp của cơ cấu tri thức, sự