Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Hình tượng thánh mẫu liễu hạnh từ tín ngưỡng thờ mẫu đến văn học trung đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 69 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

HOÀNG THỊ THU HẰNG

HÌNH TƢỢNG THÁNH MẪU LIỄU HẠNH
TỪ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU

ĐẾN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

HOÀNG THỊ THU HẰNG

HÌNH TƢỢNG THÁNH MẪU LIỄU HẠNH
TỪ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU
ĐẾN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học



TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG

HÀ NỘI, 2019


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hồn thành, chúng tơi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô
khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà Nội 2. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Việt Hằng người đã hướng dẫn, chỉ bảo
tận tình để tơi hồn thiện khóa luận.
Mặc dù đã rất cố gắng song do thời gian và năng lực có hạn nên khóa
luận của tơi cịn nhiều hạn chế. Tơi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của thầy, cơ và các bạn để nghiên cứu này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Hoàng Thị Thu Hằng


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đề tài “Hình tượng Thánh mẫu Liễu Hạnh từ tín
ngưỡng thờ Mẫu đến văn học trung đại Việt Nam” được tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng. Đây là nghiên cứu của cá nhân
tôi và không trùng lặp với kết quả của tác giả khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên


Hoàng Thị Thu Hằng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
6. Cấu trúc khóa luận...................................................................................... 5
NỘI DUNG .................................................................................................... 7
Chương 1 TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TỪ CỘI NGUỒN VĂN HĨA
ĐẾN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM .................................................. 7
1.1. Những vấn đề chung về tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ Thánh mẫu Liễu
Hạnh ở Việt Nam ........................................................................................... 7
1.1.1. Nguồn gốc hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu .......................................... 7
1.1.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu và tục thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh trong văn
hóa Việt Nam ................................................................................................. 9
1.1.2.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam ................................... 9
1.1.2.2. Tục thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh ........................................................ 14
1.2. Tác giả và tác phẩm viết về Thánh mẫu Liễu Hạnh trong văn học
trung đại Việt Nam ....................................................................................... 17
1.2.1. Đoàn Thị Điểm với Vân Cát thần nữ ................................................. 17
1.2.2. Nguyễn Công Trứ với Liễu Hạnh công chúa diễn âm ......................... 18
1.2.3. Tác giả khuyết danh với Vân Cát thần nữ cổ lục diễn âm ................... 20
1.2.4. Kiều Oánh Mậu với Tiên phả dịch lục ................................................ 20
Tiểu kết chương 1......................................................................................... 21

Chương 2 HÌNH TƯỢNG THÁNH MẪU LIỄU HẠNH TRONG VĂN
HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM................................................................... 22


2.1. Những tương đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu và văn học trung đại
Việt Nam ...................................................................................................... 22
2.2. Những sáng tạo của tác giả văn học trung đại Việt Nam ........................ 26
Tiểu kết chương 2......................................................................................... 35
Chương 3 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG THÁNH MẪU
LIỄU HẠNH TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ..................... 36
3.1. Thể loại ................................................................................................. 36
3.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật ............................................. 41
3.3. Khơng gian và thời gian nghệ thuật ....................................................... 47
Tiểu kết chương 3......................................................................................... 53
KẾT LUẬN .................................................................................................. 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhiều năm trở lại đây, tín ngưỡng thờ Mẫu chiếm được lịng tin của
đơng đảo dân chúng. Người ta tìm đến Mẫu nhằm gửi gắm hi vọng các vị
Thánh sẽ là chỗ dựa tâm linh, che chở cho con người. Đầu xuân năm mới,
mọi người lại nô nức sắm sửa lễ vật đến các đền, phủ cầu bình an, sức khỏe,
bn bán, học hành,… Chính vì vậy, tục thờ Mẫu đã ăn sâu vào tiềm thức văn
hóa của người Việt từ bao đời nay. Tháng 12 năm 2016, UNESCO cơng nhận
tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Đây là một niềm vinh dự tự hào đối với người dân Việt Nam nói chung
và các tín đồ của thờ Mẫu nói riêng. Sự kiện này càng khẳng định niềm tin

của con người vào thế giới tâm linh. Tín ngưỡng thờ Mẫu khơng chỉ hấp dẫn
bởi yếu tố kỳ ảo mà nó cịn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa to lớn. Với tính
thời sự nóng hổi và sự hấp dẫn đặc biệt, tín ngưỡng thờ Mẫu đã thực sự cuốn
hút nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu, độc giả u thích văn hóa, trong đó có
chúng tơi.
Văn học được coi là tấm gương phản chiếu văn hóa. Trong kho tàng
văn học Việt Nam, rất nhiều tác phẩm tái hiện cho người đọc nhiều nét độc
đáo, phong phú trong đời sống văn hóa. Chẳng hạn, tục ăn trầu của con người
được phản ánh qua Sự tích trầu cau. Đến Truyện Kiều, tác giả Nguyễn Du đã
cho người đọc thấy được tục tảo mộ trong văn hóa Việt mỗi khi tới tiết Thanh
Minh: “Thanh Minh trong tiết tháng ba/ Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”.
Sang Vợ chồng A Phủ, Tơ Hồi đã dựng lại bức tranh phong tục tập quán đa
sắc màu của người dân vùng núi Tây Bắc. Ta thấy nhiều tục lệ hà khắc vẫn
còn tồn đọng: Tục cho vay nặng lãi, phạt vạ. Và cả những tục lệ cổ hủ, lạc
hậu vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của những con người nơi đây: Tục cúng trình
ma, tục cướp vợ. Đơi khi người đọc còn thấy được tục chơi tết, chơi xuân của
bản người Mèo vô cùng rực rỡ và vui tươi được tái hiện trong tác phẩm…
Qua những ví dụ trên, có thể thấy văn học và văn hóa có sự gắn kết rất mật
thiết với nhau. Văn chương hoàn toàn có thể diễn lại câu chuyện về một hay
nhiều nét văn hóa đặc sắc. Văn học trung đại có khá nhiều tác phẩm viết về
Thánh mẫu Liễu Hạnh. Nhiều tác giả đã sưu tầm và san định các huyền thoại,
1


truyền thuyết về hình tượng nhân vật này. Cùng với sự hiểu biết nhất định của
cá nhân về tín ngưỡng thờ Mẫu, chúng tơi nhận thấy hình tượng nhân vật Liễu
Hạnh trong văn hóa và văn học có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chính điều
ấy đã thơi thúc chúng tơi tìm đến đề tài.
Hơn nữa, là sinh viên sư phạm, việc tìm hiểu đề tài này giúp chúng tơi
có cơ hội được tiếp cận nhiều phương pháp nghiên cứu văn học khác nhau

nhằm phục vụ tốt cho công việc giảng dạy sau này.
Với những lý do trên, chúng tơi đã chọn đề tài Hình tượng Thánh
mẫu Liễu Hạnh từ tín ngưỡng thờ Mẫu đến văn học trung đại Việt Nam
cho khóa luận tốt nghiệp để đóng góp một phần nhỏ những hiểu biết và
nghiên cứu của mình về hình tượng Thánh mẫu Liễu Hạnh từ góc nhìn văn
hóa và văn học.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay có hai hướng nghiên cứu cơ bản về Thánh mẫu Liễu Hạnh, đó
là từ góc độ văn hóa và văn học. Những cơng trình nghiên cứu đầu tiên về
Thánh mẫu Liễu Hạnh từ góc độ tín ngưỡng được ra đời vào khoảng đầu thế
kỷ XX bởi các nhà nghiên cứu người Pháp, như: M. Durand, P. J. Simon, I.
Simond - Baouch, …
Năm 1959, M. Durand tiếp cận về Thánh mẫu Liễu Hạnh từ tục lên
đồng với đề tài Kỹ thuật lên đồng ở đền thờ Mẫu của Việt Nam. Nghiên cứu
này đã đưa ra những thần thích của một số vị thánh, trong đó có Liễu Hạnh.
Song, như tên gọi của nó, “đề tài nhấn mạnh đến kỹ thuật lên đồng với tính
chất nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các ơng đồng, bà đồng. Tuy nhiên, đây có
thể coi là một trong những cơng trình đầu tiên đi vào nghiên cứu tục lên đồng
mang tính chất Shaman giáo của tín ngưỡng thờ Mẫu.” [18, 15]
Sau cơng trình của M. Durand, đến năm 1973 hai vợ chồng tác giả người
Pháp P. J. Simon với Hầu bóng, một thứ lễ thức nhập hồn của Việt Nam được
mang sang Pháp đã phản bác ý kiến của M. Durand, cho rằng tục lên đồng
không phải là một hiện tượng Shaman giáo mà nó chỉ là sự nhập hồn thần linh
vào các ông đồng, bà đồng. “Ở cơng trình này, việc tìm hiểu Liễu Hạnh rõ
ràng, cụ thể hơn so với nghiên cứu của M. Durand” [18, 15]. Có thể nói, các

2


tác giả người Pháp đã có những đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.

Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã cho ra đời những đề
tài về tín ngưỡng thờ Mẫu. Tuy nhiên, mỗi tác giả lại có một cách khai thác
khác nhau.
Năm 1943, Nguyễn Văn Huyên với Sự ra đời của các tín đồ Đạo Nội
tại An Nam khẳng định mối liên hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với Đạo Nội.
Sang năm 1944, ông tiếp tục nghiên cứu về Sự phụng thờ các vị thánh bất tử
ở Việt Nam, trong đó có Thánh mẫu Liễu Hạnh. Cũng trong thời gian này,
Đào Thái Hành đã cho ra đời cơng trình Nữ thần Liễu Hạnh.
Năm 1990, Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty với cuốn Vân Cát thần nữ
đã tập hợp các tư liệu văn bản có liên quan tới việc thờ phụng Mẫu Liễu
Hạnh. Cũng trong năm này, Vũ Ngọc Khánh, Ngơ Đức Thịnh với cuốn Tứ bất
tử đã tìm hiểu về Liễu Hạnh, bước đầu đã lý giải được hiện tượng văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu.
Hơn nữa, năm 1990 Hoàng Tuấn Phổ cho ra đời cuốn Bà Chúa Liễu và
năm 1991 Vũ Ngọc Khánh tiếp tục với cơng trình viết về Công chúa Liễu
Hạnh. Qua hai cuốn sách, các tác giả đều dùng bút pháp văn học để vẽ lại
chân dung của Thánh mẫu Liễu Hạnh, giúp người đọc nhìn nhận cụ thể, tồn
vẹn về nhân vật này đậm nét hơn so với các tác phẩm khác. Tuy nhiên, chất
thiêng trong thần tích về Thánh mẫu lại bị phai nhạt đáng kể.
GS. Ngô Đức Thịnh là một trong những nhà nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ Mẫu hàng đầu của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt cuốn sách viết
về Thánh mẫu Liễu Hạnh. Năm 1992, với cuốn Hát văn, ông đã đưa ra những
nội dung cơ bản xoay quanh tín ngưỡng thờ Mẫu. Năm 2007, cuốn Lên đồng,
hành trình của thần linh và thân phận là một bước tiến dài trong việc tìm hiểu
sự tích hợp các giá trị văn hóa trong tục thờ Mẫu. Và cho tới năm 2009, cuốn
Đạo Mẫu Việt Nam ra đời, đây được coi là cơng trình nghiên cứu đầy đủ nhất
về tục thờ Mẫu và Thánh mẫu Liễu Hạnh của ơng.
Ngồi góc nhìn từ tín ngưỡng, Thánh mẫu Liễu Hạnh cịn được các nhà
3



nghiên cứu nhìn nhận ở góc độ văn học.
Năm 1990, Hoàn Tuấn Phổ xuất bản cuốn Bà chúa Liễu. “Cuốn sách
vừa mang tính tiểu thuyết về thần linh vừa mang tính nghiên cứu” [18, 17].
Bằng tưởng tượng và phóng tác, ông đã vẽ ra một Bà chúa Liễu khá sinh động
trong đời thường, mang những đặc điểm của nhân vật trong tiểu thuyết văn
học.
Năm 1992, với cuốn Tam tòa thánh Mẫu, Đặng Văn Lung “đã tiếp cận
hình tượng Liễu Hạnh từ góc độ văn học và cuộc đời như một áng sử thi
mang tính thần thoại” [18, 18].
Năm 1995, nữ tác giả Kim Seona với cơng trình Nhân vật phụ nữ trong
thể truyền kỳ qua các tác phẩm “Truyền kỳ mạn” lục và “Truyền kỳ tân phả”
đã cho người đọc thấy được nhân vật Giáng Tiên (tức Thánh mẫu Liễu Hạnh)
trong tương quan với các nhân vật nữ ở hai tập truyện trên.
Năm 2002, nhà nghiên cứu người Nga PSG. TS. Olga Dror với “Vân
Cát thần nữ” của Đoàn Thị Điểm: Truyện giải phóng phụ nữ đã cho người
đọc một cái nhìn mới mẻ về hình tượng Thánh mẫu Liễu Hạnh. Ở đó, nhân
vật nữ là trung tâm, có vai trị chi phối đến các nhân vật khác. Ngồi ra, cơng
trình này cịn cho thấy sự nổi loạn, đơi khi trái với đạo lý phong kiến của nhân
vật Liễu Hạnh, điều mà trong văn học trung đại hiếm có nhân vật nào làm
được.
Năm 2009, thông qua cuốn Đạo Mẫu Việt Nam, tác giả Ngô Đức Thịnh
đã đề cập tới kho tàng huyền thoại, thần tích được lưu truyền như một “hiện
tượng văn học dân gian” về Thánh mẫu Liễu Hạnh. Bên cạnh đó, ở chương 16
của cuốn sách cùng với cuốn Lên đồng, hành trình của thần linh và thân
phận, tác giả đã đề cập tới mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu và các loại
hình nghệ thuật. Cụ thể là sự tích hợp với văn học và các loại hình nghệ thuật
khác như: Điện ảnh, kiến trúc, âm nhạc, hội họa, …
Năm 2010, tại Hội thảo Khoa học “Một nghìn năm văn học Thăng

Long - Hà Nội” do Viện Văn học tổ chức. Nhà phê bình văn học TS. Bùi Thị
Thiên Thai với nghiên cứu Đoàn Thị Điểm và “Truyền kỳ tân phả” được nhìn
nhận dưới góc độ nữ quyền, “đặc biệt là góc độ tương tác giữa văn học trung
4


đại và văn hóa dân gian” [16]. Ở đó, nhân vật Thánh mẫu Liễu Hạnh được
xây dựng như một “kẻ phản Nho giáo”. Bên cạnh những đức tính tốt đẹp của
người phụ nữ truyền thống, nhân vật này còn mang những tính cách nổi loạn
khác thường.
Tiếp thu những thành tựu của các tác giả đi trước, những cơng trình
nghiên cứu trên đã cho chúng tôi nhiều gợi mở quan trọng để thực hiện đề tài
Hình tượng Thánh mẫu Liễu Hạnh từ tín ngưỡng thờ Mẫu đến văn học
trung đại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Hồn thành nghiên cứu về hình tượng Thánh mẫu Liễu
Hạnh trong việc đối sánh giữa tín ngưỡng thờ Mẫu và văn học trung đại Việt
Nam.
- Nhiệm vụ: Tập hợp các tài liệu dân gian: Thần tích, các bản văn chầu
để tìm hiểu về Thánh mẫu Liễu Hạnh từ góc độ tín ngưỡng. Đồng thời, so
sánh với một số tác phẩm văn học trung đại viết về hình tượng này để thấy
được các phương diện và cách thức mà các tác giả trung đại xây dựng nhân
vật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam và văn học
viết về nhân vật Thánh mẫu Liễu Hạnh. Ở đây, chúng tôi sử dụng cuốn Đạo
Mẫu Việt Nam của GS. Ngô Đức Thịnh (NXB Tơn giáo, 2009) làm tài liệu
nghiên cứu.
- Phạm vi: Hình tượng Thánh mẫu Liễu Hạnh
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp liên ngành
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh đối chiếu
6. Cấu trúc khóa luận
Mở đầu
5


Nội dung
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Hình tượng Thánh mẫu Liễu Hạnh trong văn học trung đại
Việt Nam
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng Thánh mẫu Liễu Hạnh
trong văn học trung đại Việt Nam
Kết luận
Tài liệu tham khảo

6


NỘI DUNG
Chƣơng 1
TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU TỪ CỘI NGUỒN VĂN HÓA
ĐẾN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung về tín ngƣỡng thờ Mẫu và thờ Thánh mẫu Liễu
Hạnh ở Việt Nam
1.1.1. Nguồn gốc hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu
Từ lâu, tín ngưỡng thờ Mẫu đã trở thành một nét đẹp trong đời sống
văn hóa tâm linh của người Việt. Bàn về nguồn gốc hình thành, có ý kiến cho
rằng: “Nguyên nhân khởi phát tín ngưỡng thờ Mẫu là từ chế độ mẫu hệ.

Trong thời kỳ nguyên thủy khi mà người phụ nữ đóng vai trị là chủ gia đình,
là người có quyền quyết định mọi vấn đề to lớn trong gia đình, bộ tộc thì họ
cũng góp phần quyết định vào sự tồn tại của xã hội” [8, 12]. Nhìn chung, ta có
thể lý giải nguồn gốc của tín ngưỡng dựa trên những quan niệm trong đời
sống văn hóa.
Việt Nam là một trong số những quốc gia phương Đông gắn liền với nền
văn minh nông nghiệp. Con người có mối quan hệ chặt chẽ với các hiện tượng
thiên nhiên như cây cỏ, hoa lá, đất đai, sông nước,… Chính vì vậy mà con
người ln coi thiên nhiên là một phần của cuộc sống, thiên nhiên ban cho họ
sự che chở, cho họ của cải nuôi dưỡng sự sống, nhưng cũng chính thiên nhiên
cướp đi sinh mạng của họ. Bởi lẽ đó mà con người vừa yêu quý, tơn trọng
nhưng cũng sợ hãi trước thiên nhiên. Từ đó, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên được
hình thành. Người Việt thường quan niệm rằng “một hòn đá lớn, một gốc cây
cổ thụ, một rừng sâu, một vực sông, ngọn núi cao, một vũng nước giữa đồng,
một gốc cây âm u đều là cơ sở của thần linh, thần ở khắp cả, thấm nhuần khắp
cả, tất cả đều là thần” [24, 20]
Ngồi ra, tâm lý tình cảm cũng trở thành ngun nhân ra đời của tín
ngưỡng. Xét về góc độ triết học, tâm lý tình cảm là một bộ phận của ý thức xã
hội và tơn giáo tín ngưỡng hình thành dựa trên cơ sở đó. Triết học cũng đã
thừa nhận hai chủ nghĩa duy vật và duy tâm luôn tồn tại song song. Con người

7


luôn đặt ra câu hỏi về nguồn gốc cũng như số phận của chính mình hay với
những vấn đề xảy ra trong cuộc sống mà đôi khi khoa học không thể giải
thích nổi. Khi ấy, họ trở nên bế tắc và khi bế tắc, con người thường tìm tới
tâm linh để giải quyết vấn đề tâm lý. Tuy tâm linh đưa ra những nhận định
khơng có căn cứ nhưng với những lý lẽ mang đậm tính huyền bí và hợp logic
khiến con người bị thuyết phục và từ đó hình thành nên niềm tin vào những

thế lực siêu nhiên, không có thực. Đây là ngun nhân chính hình thành nên
tơn giáo và tín ngưỡng trong đời sống văn hóa của con người.
Cũng chính bởi tâm lý coi trọng người mẹ, con người ln muốn tìm
cách báo đáp cơng ơn sinh thành và nuôi dưỡng của mẹ mà sinh ra thờ phụng.
Quan niệm con người sinh ra từ tự nhiên và được tự nhiên che chở, cho nên
“người mẹ đầu tiên của con người đó là Mẹ Cây” [24]. Mẹ Cây che mưa
nắng, đem lại cho con những trái thơm quả ngọt. Dần về sau, con người tránh
mưa nắng bằng việc ở trong các hang động, lúc này vai trò của Mẹ Cây đã
giảm xuống, thay vào đó họ tơn thờ mẹ rừng núi và gọi đó là Mẫu Thượng
Ngàn. Sau này, con người xuôi xuống vùng đồng bằng, lúc lênh đênh sông
nước họ lại mong chờ vào sự che chở của Mẹ Nước và coi mẹ là Mẫu Thoải
Phủ. Và cuối cùng, khi con người mở rộng khai hoang, họ lại tôn thờ thêm
Mẹ Đất và sau trở thành Mẫu Địa. Kể từ đây, tín ngưỡng thờ Mẫu đã dần
hồn thiện. Mặc dù mẹ là người gần gũi thế nhưng Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu
Thoải Phủ, Mẫu Địa lại rất xa vời, trừu tượng với tâm thức của con người.
Hơn nữa, xã hội Việt Nam từ sau thế kỷ XVII bước vào thời kỳ khủng
hoảng, sự đối đầu của vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và Trịnh - Nguyễn
phân tranh đẩy cuộc sống nhân dân vào vòng loạn lạc. Vì thế, con người chỉ
cịn cách đặt niềm tin, hi vọng vào sự che chở, cứu giúp của các thần linh, đặc
biệt là Mẫu.
Trong bối cảnh ấy, Thánh mẫu Liễu Hạnh đã xuất hiện. Theo cảm quan
huyền thoại, Liễu Hạnh có nguồn gốc là tiên nữ (Đệ Nhị Tiên Chúa Quỳnh
nương - con gái thứ hai của Ngọc Hoàng) sau 21 năm sống ở cõi trần, bà được
suy tôn làm Thánh mẫu. Có thể nói, Mẫu chính là hiện thân của khát vọng của
người dân Việt Nam trong quan hệ với tự nhiên và xã hội ở thế kỷ XVI. Như
đã nói ở trên, nhân dân đã tơn thờ những người mẹ của rừng núi, sông nước,
8


đất đai thành các mẫu. “Khác với những vị mẫu này, Mẫu Liễu Hạnh là

“người thực” nên mẫu không quá xa vời, trừu tượng mà mẫu rất gần gũi với
con người. Phải chăng vì lẽ đó mà người Việt có sự ưu ái, coi Liễu Hạnh là
thần chủ của tín ngưỡng này tức là đại diện của con người đã trở thành vị thần
chủ có quyền năng tối cao nhất trong bộ tam tòa Thánh mẫu (Mẫu Thượng
Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải Phủ) hay nói khác đi là con người vượt
lên trên tự nhiên như núi rừng, sông nước” [24].
Như vậy, tục thờ Mẫu có từ rất lâu đời, song còn phân tán, rời rạc trong
phạm vi cộng đồng làng xóm. Từ thế kỷ XVI, với sự xuất hiện của Liễu Hạnh
cơng chúa đã đánh dấu sự hồn thiện của tín ngưỡng thờ Mẫu, nâng tục thờ Nữ
thần nguyên thủy lên tầm của một tơn giáo sơ khai.
1.1.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu và tục thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh trong văn
hóa Việt Nam
1.1.2.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam
Về vấn đề tên gọi, một số nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ “Đạo Mẫu”
thay vì “tín ngưỡng thờ Mẫu”. “Đạo” và “tín ngưỡng” là hai khái niệm rất quen
thuộc, có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Điểm chung giữa đạo và tín
ngưỡng là đều hướng con người có niềm tin vào đạo hay tín ngưỡng đó truyền
bá, dạy con người làm việc thiện, tránh làm điều ác, hướng con người đến
những giá trị chân, thiện, mỹ…
Tuy nhiên, một đạo phải có đủ bốn yếu tố cấu thành, bao gồm: Giáo
chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, trong khi thờ Mẫu chưa có đầy đủ bốn yếu tố
đó. Ngồi ra, các tín đồ theo đạo chỉ có thể theo một đạo, nhưng có thể được
sinh hoạt nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, một người theo Đạo Phật
không thể theo Đạo Thiên Chúa nhưng họ vẫn có thể theo tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên hoặc theo tín ngưỡng thờ Thành Hồng. Phần lớn các đền, chùa ở
Việt Nam đều phối cả Phật và Mẫu, và người Việt Nam khi đi lễ chùa thường
quan niệm “tiền Phật hậu Mẫu”, nếu như thờ Mẫu được coi là một đạo thì ắt
người theo Đạo Phật khơng thể theo Đạo Mẫu và ngược lại. Từ những lập
luận trên, ta có thể khẳng định rằng, tục thờ Mẫu của người Việt mới chỉ dừng
lại ở “tín ngưỡng” chưa đủ điều kiện để coi là một tơn giáo (hay cịn gọi là


9


Đạo).
Như đã phân tích ở trên, việc dùng thuật ngữ “tín ngưỡng” sẽ hợp lý
hơn thuật ngữ “Đạo”. Với tên gọi này, ta nên xem xét dưới hai góc độ rộng và
hẹp để hiểu rõ hơn bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Hiểu theo khái niệm rộng, nền tảng của thờ Mẫu bắt nguồn từ tục thờ
Nữ thần, sau đó phát triển thành thờ Mẫu thần và cuối cùng là Mẫu Tam phủ Tứ phủ. Trên dải đất hình chữ S có hàng trăm, hàng nghìn đền - điện, song ở
mỗi vùng miền lại có những cách thức thờ Mẫu khác nhau.

Mẫu tam
phủ
Tứ phủ
Mẫu thần

Nữ thần
Hình 1.1. Sơ đồ về tục thờ Mẫu theo khái niệm rộng

Thờ Mẫu ở Nam Bộ rất đơn giản, họ không phân biệt thờ Nữ thần và
Mẫu thần mà người dân nơi đây thờ Nữ thần, sau đó tơn xưng họ là Mẫu, đó
là các vị như: Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Xứ, Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu),
Bà Thiên Hậu, Cửu Thiên huyền nữ,… Tục thờ Mẫu Tam - Tứ phủ đã dần
hình thành và phát triển, do người Việt ở Bắc Bộ trực tiếp di cư mang vào.
Tục thờ Mẫu ở Nam Trung Bộ lại có sự khác biệt, chỉ có thờ Nữ thần,
tiêu biểu như: Tứ vị Thánh nương, Bà Ngũ Hành,… và thờ các Mẫu thần dựa
trên sự dung hịa tín ngưỡng tơn giáo của người Chăm, đó là các Thánh mẫu:
Thiên Ya Na và Pô Inư Nưgar. Mặc dù đã có sự phân biệt rạch rịi giữa Nữ
thần và Mẫu thần, thế nhưng tục thờ Mẫu ở Nam Trung Bộ lại khơng có sự

hiện diện của của Mẫu Tam phủ - Tứ phủ.
Tục thờ Mẫu ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ được coi là hoàn chỉnh, đầy đủ
nhất. Tục thờ Nữ thần ở đây ứng với thờ Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp
10


Lôi, Pháp Điện hoặc thờ các Nữ thần như: Thần Lúa, thần Nước, thần Mặt
Trời... Lớp thờ Mẫu thần thường gắn liền với q trình lịch sử hóa như hiện
tượng thờ Nguyên Phi Ỷ Lan, Mẫu Âu Cơ, mẹ Thánh Gióng, Bà Chúa Kho,…
Lớp thờ Mẫu Tam - Tứ phủ là một hệ thống phát triển cao hơn, dựa trên nền
tảng tục thờ Nữ thần và Mẫu thần.
Theo nghĩa hẹp, tín ngưỡng thờ Mẫu được hiểu là tục thờ Mẫu Tam Tứ phủ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu tín ngưỡng thờ
Mẫu theo nghĩa hẹp, bởi sự ra đời của Thánh mẫu Liễu Hạnh là cơ sở cho sự
hình thành lớp thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ.
Trước hết, ta tìm hiểu về hệ thống điện thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu.
Mặc dù ở từng địa phương lại có những nét riêng, song hệ thống điện thần vẫn
tuân thủ theo các hàng bậc. Đứng đầu là Phật Bà Quan Âm, kế tiếp là Vua cha
Ngọc Hồng. Hàng thứ ba thờ tam tịa Thánh mẫu (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu
Thượng Ngàn, Mẫu Thoải Phủ). Hàng thứ tư thờ ngũ vị tôn quan (từ quan Đệ
Nhất đến quan Đệ Ngũ. Sau hàng quan là tứ phủ Chầu bà (từ Chầu Đệ Nhất
đến Chầu Mười, riêng Chầu cuối cùng được gọi là Chầu Bé). Kế tiếp thờ thập
vị quan Hồng (từ Hồng Cả đến Hồng Mười). Sau các ơng Hồng là thập nhị
Tiên Cơ (từ Cơ Cả đến Cơ Mười, riêng cô mười một được gọi là Cô Bé, cô
mười hai là Cô Bản Đền). Cuối cùng là thờ tứ phủ Thánh cậu (từ Cậu Cả đến
Cậu Mười, riêng cậu mười một được gọi là Cậu Bé, cậu mười hai là Cậu Bản
Đền). Thờ hạ ban có Ngũ Hổ và Ơng Lốt (ơng rắn)
Các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu khơng chỉ phân thành hàng mà
cịn được phân thành các phủ. Khái niệm phủ tương ứng với các miền khác
nhau trong vũ trụ: Thiên phủ (miền trời), Nhạc phủ (miền rừng núi), Thoải
phủ (miền sông nước), Địa phủ (miền đất đai). Đứng đầu các phủ là các

Thánh mẫu: Mẫu Thượng Thiên (đồng nhất với Mẫu Liễu Hạnh) cai quản
Thiên Phủ; Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ; Mẫu Thoải cai quản Thoải
phủ; Mẫu Địa cai quản Địa phủ. Giúp việc cho Thánh mẫu là các vị Quan lớn,
Chầu bà, ơng Hồng, Cơ, Cậu như đã nói ở trên và cũng được phân theo phủ
như các Mẫu.
Trong điện thờ Mẫu, nhân dân ta còn phối thờ với Đức Thánh Trần -

11


một vị anh hùng có cơng lao to lớn trong việc chống giặc ngoại xâm. Trong
tâm thức dân gian, ông được đồng nhất với Vua cha, ngày giỗ của ông cũng
đồng nhất với ngày giỗ Cha Bát Hải Động Đình (một trong tứ vị Vua cha
trong tín ngưỡng thờ Mẫu) “Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Cùng với
Đức Thánh Trần, hai Vương cô và các vị tướng của ông cũng được thờ
phụng, trở thành những giá đồng trong tục lên đồng của người Việt. Sau khi
hầu tráng mạn ba giá Mẫu, người lên đồng có thể hầu Đức ông Trần Triều
(Trần Quốc Tuấn); Vương cô Đệ Nhất, Đệ Nhị; Cô Bé Cửa Suốt; Cậu Bé Cửa
Đông (Trần Quốc Tảng) Sau này, tục thờ Trần Triều mở rộng với quy mơ lớn,
hồn chỉnh, trở thành một tín ngưỡng riêng của dân tộc, tín ngưỡng thờ Đức
Thánh Trần.
Tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính bản địa. Người Việt ta thường có xu
hướng hòa nhập, tiếp thu những tư tưởng ngoại lai. Chính vì thế, tục thờ Mẫu
có mối quan hệ khăng khít với các tín ngưỡng, tơn giáo khác.
Tín ngưỡng thờ Mẫu có ảnh hưởng trực tiếp từ tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên. Xem xét hệ thống điện thần thờ Mẫu, ta thấy tính chất gia tộc: Có Vua
cha, có Mẫu và các hàng theo thứ bậc. Nhìn chung, hai tín ngưỡng này đều
xuất phát từ lễ nghĩa, lòng biết ơn của con cháu đối với thế hệ cha ông, tổ,
hướng con người tới cội nguồn, đề cao đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của
dân tộc.

Hơn nữa, tín ngưỡng thờ Mẫu có sự giao thoa với tục thờ Đức Thánh
Trần. Khi đến các đền, điện, phủ ta hay thấy có ban thờ, cung thờ Trần Triều.
Mặc dù đây là lớp tín ngưỡng khác nhưng việc phối thờ đã có từ lâu và trở nên
khá phổ biến. Cùng hướng con người tới đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tín
ngưỡng thờ Trần Triều tơn vinh những anh hùng có cơng lao to lớn với đất
nước, họ đều là những nhân vật lịch sử có thật, được thần Thánh hóa mang
màu sắc tâm linh. Bên cạnh đó, hai tín ngưỡng này đều có những nghi lễ
giống nhau liên quan đến con người: Cầu tự, bán khốn, tơn nhang, trừ tà, trị
bệnh… đặc biệt là nghi lễ lên đồng. Khi ngự đồng, các Thánh đều làm một
nhiệm vụ là trừ tà sát quỷ.
Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần và chịu nhiều ảnh hưởng của Đạo giáo,

12


tín ngưỡng thờ Mẫu rất gần gũi với đạo thờ Tiên trong nghi thức thờ cúng.
Hơn nữa, Mẫu Liễu Hạnh vị thần chủ của tín ngưỡng này có nguồn gốc là
một vị tiên. Các nghi lễ cầu tiên, giáng bút cũng có nét tương đồng với Đạo
giáo. Từ xa xưa, người Việt vốn sùng bái phù phép, ma thuật, … họ tin rằng
các pháp thuật có thể trừ tà chữa bệnh. Vì thế, Đạo giáo phù thủy thâm nhập
vào nước ta, hịa quyện vào tín ngưỡng tới mức khơng cịn ranh giới, điều này
được thể hiện qua các phép: Thần phù, trị bệnh trong thờ Mẫu. Khơng chỉ có
vậy, Tín ngưỡng thờ Mẫu với sự phối thờ với thờ Đức Thánh Trần cũng là
một điểm tương đồng với Đạo giáo. Tương truyền, Trần Hưng Đạo là người
rất giỏi trong việc trừ tà ma, chính vì thế mà ơng được nhân dân tôn thờ như
một vị Thánh. Trong buổi lên đồng, người ta thường thỉnh Đức Thánh Trần
về làm phép từ tà sát quỷ đó là: “Xiên lình” (dùng thanh sắt nhọn xuyên từ má
bên này qua má bên kia); “Lên đai thượng” (cầm dải lụa đỏ thắt cổ) hay “lấy
dấu mặn” (dùng con dao hay vật nhọn rạch vào lưỡi người hầu để lấy máu)
sau đó phun ra tờ giấy hoặc rượu… Những hình thức này đều ảnh hưởng từ

Đạo giáo Trung Hoa.
Từ hệ thống điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu có thể thấy, mặc dù
Mẫu là thần chủ nhưng trên Thánh mẫu cịn có chư Phật - đại diện là hình ảnh
Phật Bà Quan Âm. Đây là biểu hiện của q trình giao thoa giữa tín ngưỡng
bản địa với các tơn giáo từ bên ngồi du nhập vào nước ta, cụ thể ở đây là
Phật giáo. Không chỉ có Phật đi vào hệ thống điện thần thờ Mẫu, mà cịn có
đường ngược lại. Hầu hết các ngơi chùa hiện nay đều có điện thờ Mẫu, phổ
biến nhất là dạng “tiền Phật hậu Mẫu”. Bên cạnh đó, các Phật thường có xu
hướng “nữ thần hóa”, Phật Quan Âm theo quan niệm của Ấn Độ vốn là Phật
nam, nhưng sang tới Việt Nam, ảnh hưởng từ văn hóa bản địa đã trở thành
Phật Bà Quan Âm từ bi, đức độ. Mặc dù đối tượng thờ phụng khác nhau
nhưng cả Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu đều hướng con người đến sự từ bi,
khuyên con người ăn ở có đức, năng làm việc thiện, tránh làm việc ác…
Thiên Chúa giáo được du nhập từ phương Tây vào nước ta ít nhiều
cũng có nét chung với tín ngưỡng thờ Mẫu. Hình tượng Mẫu của người Việt
có điểm gần gũi với Đức Mẹ Maria. Do vậy, khi du nhập vào nước ta, bên
cạnh việc thờ Chúa Giêsu, người Việt còn thờ Mẹ Maria ở một số nhà thờ lớn,
13


như: Nhà thờ Hà Nội, nhà thờ đá Phát Diện, …
Tín ngưỡng thờ Mẫu khơng chỉ hấp dẫn bởi yếu tố tâm linh kì ảo mà nó
cịn hấp dẫn bởi những giá trị nhân sinh sâu sắc.
Bên cạnh việc thờ Mẫu thần, các vị Hoàng hậu, những người phụ nữ có
cơng với đất nước, tín ngưỡng này cịn thờ các vị nam thần, những người dân
tộc có cơng với đất nước. Như vậy, giá trị nhân sinh được thể hiện ở chỗ
không chỉ đề cao người phụ nữ mà đề cao tất cả những vị thần có cơng, đem
lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Tín ngưỡng thờ Mẫu đề cao đạo lý “Uống
nước nhớ nguồn”, hướng con người về cội nguồn dân tộc.
Phật giáo hướng con người làm việc thiện để sau này khi mất đi được

đến với Phật, về cõi Niết bàn, Thiên Chúa giáo hướng con người đến lòng bác
ái để sau này được lên Thiên Đường. Nhìn chung, hai tơn giáo này coi cuộc
sống thực tại là khổ ải, mục đích hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp ở cõi
tiên. Khác với hai tôn giáo trên, với niềm tin các Thánh mẫu có sự yêu
thương, che chở và bảo vệ, phù hộ cho những đứa con của mình tránh được
những bất trắc, rủi ro trong cuộc sống. Con người gửi gắm cuộc đời, số phận
và sự nghiệp của mình đến các Mẫu để tìm kiếm sự bình yên và tạo lại sự cân
bằng trong tâm lý khi phải đương đầu với những khó khăn. Điều quan trọng,
tín ngưỡng thờ Mẫu hướng con người vào cuộc sống thực tại chứ không phải
vào cuộc sống sau khi chết. Với sự thực tâm, cầu xin, ho dễ được ban phát,
đạt được ước mong ở hiện tại.
Một trong những giá trị nhân văn sâu sắc trong tín ngưỡng thờ Mẫu đó
là sự giải phóng người phụ nữ, đồng thời khẳng định vị trí của họ trong xã
hội. Ngồi ra, những người đến với Mẫu không phân biệt giàu sang, nghèo
hèn, không phân biệt tầng lớp, giai cấp, địa vị trong xã hội. Tất cả mọi người
đến với Mẫu đều bằng cái tâm, mong muốn được ba phước lành, tài lộc và sự
bình an trong tâm hồn.
1.1.2.2. Tục thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh
Theo cảm quan huyền thoại, Liễu Hạnh công chúa (Thánh mẫu Liễu
Hạnh) vốn là Đệ Nhị Quỳnh Hoa công chúa trên thiên cung, ba lần giáng sinh
trần thế và được nhân dân suy tôn làm Thánh mẫu. Trong hệ thống điện thần
14


tín ngưỡng thờ Mẫu, Thánh mẫu Liễu Hạnh được đồng nhất với Mẫu Thượng
Thiên, mặc trang phục màu đỏ, ngồi chính giữa, hai bên là Mẫu Thượng Ngàn
(bên phải) và Mẫu Thoải (bên trái). Nơi thờ chính của bà ở Phủ Dầy (Nam
Định), ngồi ra cịn có đền Sịng Sơn (Thanh Hóa) là nơi bà hiển thánh; Phủ
Tây Hồ (Hà Nội) là nơi Mẫu gặp gỡ và đàm đạo văn thơ với Phùng Khắc
Khoan cùng cử nhân họ Ngô, tú tài họ Lý. Ngồi những nơi thờ chính, bà cịn

được thờ vọng ở khắp nơi, trong Nam, ngoài Bắc. Trong phạm vi nghiên cứu,
chúng tơi tìm hiểu về tục thờ Mẫu và lễ hội tại Phủ Dầy (Nam Định).
Phủ Dầy được coi là trung tâm của Tín ngưỡng thờ Mẫu. Lúc đầu có ba
nơi thờ chính, đó là Phủ Thiên Hương (quê chồng Đào lang), Phủ Vân Cát
(nơi Mẫu giáng sinh lần thứ hai) và Lăng Mẫu, sau đó lan rộng ra một số điện
thần khác. Ngày nay, Phủ Dầy được coi là một “siêu điện thần” với trên 20 di
tích thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Lễ hội Phủ Dày được tổ chức vào tháng 3 hàng năm theo quan niệm
dân gian “Tháng tám tiệc Cha, tháng ba tiệc Mẫu” và tháng 3 cũng là khoảng
thời gian tạ thế của Mẫu khi giáng trần lần thứ hai. Xưa kia, lễ hội kéo dài
khoảng 10 ngày, bắt đầu từ ngày 30 tháng 2 âm lịch. Ngày mở hội bao giờ
cũng là nghi thức cúng tế, ngày cuối hội rước Thánh Mẫu.
Nghi lễ tiêu biểu trong hội Phủ Dầy là nghi lễ rước Mẫu từ Phủ Thiên
Hương lên chùa Gôi vào ngày mồng 6. Nghi thức này phản ánh sự giao thoa
giữa Tín ngưỡng thờ Mẫu với Phật giáo. Trong huyền thoại, Mẫu Liễu bại
trận trong Sòng Sơn đại chiến, tại đây Mẫu được Đức Phật ra tay cứu giúp.
Sau đó, Mẫu quyết định quy y cửa Phật, chỉ làm việc ban phát ân đức. Nghi lễ
rước Mẫu lên chùa có trong hội Phủ Dầy cũng là vì lẽ đó.
Ngày mồng 7 tháng 3 là ngày hội kéo chữ, đây là nét độc đáo nhất của hội
Phủ Dầy. Tương truyền trong dân gian có một câu chuyện về một kỹ nữ tài
sắc tên là Ngọc Đài. Trước khi ứng tuyển để được vào cung múa hát cho chúa
Trịnh nghe, nàng đã đến Phủ Dầy quỳ trước bàn thờ Mẫu cầu khấn: “Nếu lần
này đi mà được vua u, chúa dùng thì khơng bao giờ quên ơn Mẫu, xin hứa
làm cái gì để ghi nhớ Mẫu mãi về sau”. Quả nhiên lời cầu xin của Ngọc Đài
được ứng nghiệm, nàng được chúa Trịnh sủng ái, phong làm Vương Phi. Lúc

15


bấy giờ, cuộc xung đột Trịnh – Nguyễn nổ ra dữ dội, chúa Trịnh bắt phu về

kinh thành xây dựng hệ thống phịng thủ. Trong số phu bắt về có những người
cùng quê với Vương Phi ở Nam Định. Biết tin, Vương Phi tìm cách cứu giúp,
sai người báo cho dân phu khi về tới kinh thành chỉ mặc quần áo rách và ăn
cháo cám. Chúa Trịnh hỏi mới biết đó là những dân phu ở Vụ Bản, nhân cơ
hội đó Vương Phi tỏ ra buồn rầu, xót thương. Khi biết họ cùng quê với Vương
Phi, vua liền miễn phu cho họ, đồng thời cấp lương thực, quần áo cho về quê
làm ăn sinh sống. Sau khi nhận ân huệ của chúa Trịnh, Vương Phi nhớ ơn lời
hứa với Thánh Mẫu nên dặn dân làng Phủ Dầy, cứ sau ngày mồng 6 đưa Mẫu
lên chùa thì dân làng đem cuốc, xẻng đến trước Phủ Dầy vứt ngổn ngang
xuống đất, tỏ ý nhờ linh ứng của Thánh nên dân làng không phải chịu cảnh
phu phen nhọc nhằn, rồi xếp hàng thành hai chữ “Cung tạ”. [18, 141]
Từ đó về sau, năm nào cũng có tục kéo chữ nhằm mơ phỏng lại cảnh xưa.
Ngày nay, nhân dân đem cờ gậy vứt xuống đất như mô phỏng lại tục vứt
cuốc, xẻng xưa của dân phu trước phủ. Sau đó, nhân dân xếp hàng thành chữ
để bày tỏ lòng biết ơn với Thánh Mẫu, việc xếp chữ là do những người tổ
chức hội làng quy định, nhưng thường là “Mẫu nghi thiên hạ” hay “Thiên hạ
thái bình”…[18, 142]
Nói về tục thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh, người ta thường nhắc đến nghi lễ
lên đồng, một hình thức sinh hoạt văn hóa tiêu biểu trong tín ngưỡng thờ
Mẫu. Nghi thức này thường được diễn ra ở phủ, đền hay điện thờ. Không gian
lên đồng trong phủ, đền hay điện nhuốm màu tâm linh, uy nghi, lộng lẫy.
Người ta thường lên đồng ở ban chính giữa (tức ban cơng đồng), phía dưới
ban đặt một tấm gỗ lớn, hoặc xây một mặt phẳng lớn cao hơn so với mặt đất
khoảng 20 đến 30cm, với diện tích chỉ đủ bằng một manh chiếu được gọi là
sập công đồng. Trên sập đồng, ta thường thấy một chiếc bàn có gắn gương
được chạm khắc rất đẹp mắt, đó là bàn loan. Người lên đồng sẽ ngồi trước
bàn loan, người phụ đồng lên khăn sẽ ngồi bên phải, phụ đồng lên hương sẽ
ngồi bên trái.
Âm nhạc là thứ không thể thiếu trong nghi thức lên đồng. Chầu văn,
còn gọi là hát văn là loại hình nghệ thuật khơng thể thiếu cho một buổi lên

đồng. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thời kỳ thịnh vượng
16


nhất của hát văn là cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Một dàn nhạc hát văn bao
gồm một đàn nguyệt, một đàn nhị, một sáo, một trống lớn, bốn trống nhỏ, một
cảnh đôi, một phách…
Yếu tố quan trọng tạo nên một buổi lên đồng thành công không thể
thiếu được là khăn áo và đạo cụ. Trước hết, người lên đồng phải có những
trang phục thứ yếu: Một bộ lót hầu màu trắng, một đơi tất trắng, áo bản mệnh,
khăn phủ diện và khăn tấu hương. Với mỗi giá đồng, người lên đồng sẽ được
hai phụ đồng mặc cho mình những trang phục tương ứng. Người ta khơng hầu
Thánh mẫu Liễu Hạnh mà chỉ hầu tráng mạn (hình thức giáng đồng trùm
khăn). Trang phục của Mẫu là áo dài đỏ thêu phượng, đầu đội khăn xếp có
lược cài trâm giắt, cổ đeo tràng hạt, chân đi hài thêu hoa.
Sự tích hợp các hình thức nghệ thuật khác nhau đã tạo nên những giá trị
độc đáo. Với những giá trị to lớn đó, tín ngưỡng thờ Mẫu và tục thờ Thánh
mẫu Liễu Hạnh của người Việt đã được UNESCO công nhận là Di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào tháng 12 năm 2016. Đây là một
niềm tự hào, vinh dự cho các tín đồ của tục thờ Mẫu nói riêng và của cả dân
tộc Việt Nam nói chung.
1.2. Tác giả và tác phẩm viết về Thánh mẫu Liễu Hạnh trong văn học
trung đại Việt Nam
1.2.1. Đoàn Thị Điểm với Vân Cát thần nữ
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) hiệu Hồng Hà nữ sĩ, sinh ra tại làng Giai
Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn,
học vấn uyên bác, thế nhưng tài liệu viết về cuộc đời của bà khơng nhiều.
Đồn Thị Điểm sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học.
Cha là Đồn Dỗn Nghi, rất thông minh, chăm chỉ, siêng năng học tập. Mẹ
của bà là một người phụ nữ thông minh sắc sảo, khi rảnh rỗi bà thường giảng

giải kinh luân, hiếu hạnh cho các con nghe. Đoàn Thị Điểm ảnh hưởng lớn từ
người anh trai là Đồn Dỗn Ln, chí tiến thủ của anh trai ln là nguồn
khích lệ cho Đồn Thị Điểm vươn lên. Ngay từ nhỏ, bà đã được cha và anh
dạy cho học cho nên sớm bộc lộ bản tính thơng minh.
Đồn Thị Điểm là người có tài trí và nhan sắc hơn người, nổi tiếng từ
17


hồi trẻ. Năm 16 tuổi, quan thượng thư Lê Anh Tuấn muốn xin làm con ni,
thấy bà là người có tài sắc nên đưa bà về Thăng Long để nuôi dạy, sau này
tiến cử vào cung Chúa Trịnh, nhưng bà nhất định từ chối.
Năm 1735, anh trai qua đời, bà rời đến Sài Trang. Thời gian này Đoàn
Thị Điểm kiêm ln nghề bốc thuốc, một mình gồng gánh vực lại gia đình
đang trên đà suy sụp. Mãi sau này, năm 37 tuổi bà kết duyên với học sĩ
Nguyễn Kiều. Cưới nhau được một tháng, Nguyễn Kiều phải đi sứ ba năm.
Trong khoảng thời gian đó, bà đã dịch Chinh phụ ngâm bày tỏ nỗi lịng, sự
cảm thơng với những người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Năm 1748, Đồn
Thị Điểm theo chồng vào Nghệ An, tuy nhiên trên đường đi bà đã nhuốm
bệnh và qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Đoàn Thị Điểm viết nhiều nhưng thất lạc cũng
nhiều, hậu thế chỉ còn biết đến Chinh phụ ngâm - bản diễn Nôm tác phẩm
Chinh phụ ngâm khúc bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn. Bản dịch gồm 408
câu được viết theo thể song thất lục bát diễn tả nỗi nhớ nhung khắc khoải của
người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đây có lẽ cũng là tâm trạng của bà khi
ông Nguyễn Kiều đi sứ Trung Quốc. Tuy là bản dịch nhưng nó đem lại giá trị
nội dung và thuật sâu sắc, trở thành một trong những tác phẩm ưu tú nhất của
nền thi văn trung đại Việt Nam.
Người ta khơng chỉ biết đến Đồn Thị Điểm qua Chinh phụ ngâm mà
còn biết đến bà là tác giả của Truyền kỳ tân phả. Tập truyện này là tập hợp
những câu chuyện kỳ lạ được lưu truyền trong dân gian được bà san định lại.

Đây là bước phát triển mới về thể loại truyền kỳ mà trước đó tác giả Nguyễn
Dữ cũng đã từng san định qua Truyền kỳ mạn lục.
Tác phẩm Vân Cát thần nữ được coi là công trình san định đầu tiên về
Thánh mẫu Liễu Hạnh trong nền văn học Việt Nam, được trích trong tập
truyện Truyền kỳ tân phả của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm thuộc thể loại
truyện truyền kỳ với nội dung xoay quanh về thân thế và cuộc đời của Thánh
mẫu Liễu Hạnh.
1.2.2. Nguyễn Công Trứ với Liễu Hạnh công chúa diễn âm
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu
18


Hi Văn. Ơng là một nhà thơ, nhà chính trị, quân sự tài ba thời nhà Nguyễn.
Xuất thân trong một gia đình Nho học tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân,
Hà Tĩnh, ngay từ thuở nhỏ, ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự
nghiệp.
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sơng
Ơng là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực hoạt động, từ
văn hóa đến kinh tế - quân sự. Thế nhưng, con đường quan lộ của một đấng
nam nhi, luôn khát khao lý tưởng lập công danh lại không bằng phẳng . Năm
1819, Nguyễn Công Trứ đỗ giải Ngun khi tuổi đã ngồi bốn mươi. “Ơng
được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến cơng trong
quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc” [26, 78]. Tuy nhiên, năm
1841 ông bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 bị cách chức làm
binh lính. Cho tới năm 1847, ơng nghỉ hưu với chức Phủ dỗn tỉnh Thừa
Thiên.
Nguyễn Cơng trứ là một nhà chính trị, quân sự, một nhà văn tài ba. Bên
cạnh sự nghiệp về chính trị quân sự và kinh tế, ơng cịn để lại cho đời nhiều
tác phẩm thơ ca có giá trị to lớn về mặt nội dung và nghệ thuật. Các sáng tác

của ông hầu hết được viết bằng chữ Nơm, thể loại ưa thích của ông là hát nói.
Hát nói đã khá phổ biến từ các thế kỷ trước, nhất là cuối thế kỷ XVIII, song
Nguyễn Cơng Trứ là người đầu tiên có cơng đem đến cho thể loại này một nội
dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó. Các tác phẩm của ơng chủ
yếu nói về “cái ngơng” và chí làm trai. Một số tác phẩm tiêu biểu viết về đề
tài này: Bài ca ngất ngưởng, Bỏ vợ lẽ cảm tác, Bỡn cơ đào già, Bỡn tình
nhân, Chí làm trai, Chí nam nhi, Đi thi tự vịnh, Đường công danh, Nợ tang
bồng,…
Tác phẩm Liễu Hạnh cơng chúa diễn âm có phải của Nguyễn Công Trứ
không, hiện vẫn đang là một nghi vấn. Tuy nhiên, theo PSG. Ngô Đức Thịnh:
“Tại Thư viện Khoa học xã hội, có một tập sách Hán Nơm, đề là Đại Nam
quốc âm ca khúc, ký hiệu AB 146 và ghi rõ Hồng triều Thượng thư Nguyễn
Cơng Trứ soạn. Sách chia làm nhiều tập, gồm 230 trang, chép nhiều bài ca

19


×