Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

TÌM HIỂU CÁC YẾU TỐ NGÔN TỪ BIỂU HIỆN SỰ KÌ THỊ GIỚI TÍNH TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.1 KB, 60 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC



NGUYỄN TUẤN ANH



TÌM HIỂU CÁC YẾU TỐ NGÔN TỪ BIỂU HIỆN
SỰ KÌ THỊ GIỚI TÍNH TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NGUYỄN TUẤN ANH



TÌM HIỂU CÁC YẾU TỐ NGÔN TỪ BIỂU HIỆN
SỰ KÌ THỊ GIỚI TÍNH TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM



CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: TS. Vũ Tiến Dũng



SƠN LA, NĂM 2013
Lời cảm ơn
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
TS. Vũ Tiến Dũng – người thầy đã tận tình quan tâm, hướng dẫn, động viên và
giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Phòng Đào tạo, Thư viện, Ban chủ
nhiệm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện giúp đỡ em
trong việc mượn tài liệu tham khảo để hoàn thành khóa luận này.

Em xin chân thành cảm ơn cô giáo chủ nhiệm, các bạn sinh viên lớp K50
ĐHSP Văn – GDCD, đặc biệt là gia đình đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận này.
Sơn la, tháng 05 năm 2013
Tác giả


Nguyễn Tuấn Anh
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT CÓ SỬ DỤNG TRONG KHÓA LUẬN


KTGT: Kì thị giới tính








MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 1
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu 4
4. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ Ý NGHĨA CỦA KHÓA LUẬN 4
4.1. Mục đích 4

4.2. Nhiệm vụ 5
4.3. Ý nghĩa lí luận 5
4.4. Ý nghĩa thực tiễn 5
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU 5
5.1. Phương pháp nghiên cứu 5
5.1.1. Phương pháp phân tích 5
5.1.2. Phương pháp quy nạp 5
5.1.3. Phương pháp khảo sát, thống kê 5
5.1.4. Phương pháp so sánh đối chiếu 6
5.1.5. Phương pháp hệ thống 6
5.2. Nguồn ngữ liệu 6
6. CẤU TRÚC CỦA KHÓA LUẬN 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 7
1.1. KHÁI NIỆM VỀ SỰ KTGT TRONG NGÔN NGỮ 7
1.1.1 Khái niệm kì thị 7
1.1.2. Khái niệm kì thị giới tính 7
1.2. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU KTGT TRONG NGÔN
NGỮ VỚI NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU 8
1.2.1. Những quan điểm khác nhau về mối liên hệ giữa ngôn ngữ và thực tế
xã hội 9
1.2.1.1. Quan điểm cho rằng không hề có một mối quan hệ đặc biệt nào giữa
ngôn ngữ và thực tế xã hội 9
1.2.1.2. Những quan điểm khẳng định sự tồn tại mối quan hệ qua lại nào đó
giữa ngôn ngữ và thực tế xã hội 9
1.2.2. Những quan điểm khác nhau về sự cần thiết phải có sự tác động vào
ngôn ngữ 10
1.2.2.1. Những quan điểm phản đối việc tác động vào ngôn ngữ 10
1.2.2.2. Những quan điểm ủng hộ việc tác động vào ngôn ngữ hay cải cách
ngôn ngữ 11
1.3. GIỐNG, PHẠM TRÙ GIỐNG TRONG NGỮ PHÁP VÀ QUAN HỆ

CỦA NÓ VỚI PHẠM TRÙ GIỚI 15
1.3.1. Giống, việc dán nhãn giống và những hệ thống giống trong ngôn ngữ 15
1.3.2. Những vấn đề của phạm trù giống dưới góc độ bình đẳng nam nữ
trong ngôn ngữ 17
1.3.2.1. Tính võ đoán của những hệ thống giống ngữ pháp, đặc biệt là loại
hệ thống chỉ giới tính 17
1.4. ĐÁNH DẤU GIỐNG TRONG CÁC DANH TỪ TÁC NHÂN CHỈ NGƯỜI
19
1.4.1. Khoảng trống từ vựng 20
1.4.2. Sự thiếu cân đối về mặt hình thái học trong những danh từ tác nhân
chỉ nam giới và nữ giới 22
CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU CÁC YẾU TỐ NGÔN TỪ BIỂU HIỆN SỰ KTGT
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM 25
2.1. KTGT THỂ HIỆN Ở SỰ THIẾU CÂN ĐỐI VỀ MẶT NGỮ NGHĨA . 25
2.1.1 Người đàn bà – một thứ hàng hóa trong xã hội xưa 25
2.1.2. Người đàn bà gắn với tình dục, sắc dục – người đàn ông gắn với tài
năng 29
2.1.3. Người đàn bà gắn với liên tưởng tiêu cực – người đàn ông gắn với liên
tưởng tích cực 33
2.2. SỰ KÌ THỊ GIỚI TÍNH TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI QUA
NHỮNG CHUẨN MỰC XÃ HỘI CŨ 37
2.2.1. Quan niệm ‘‘trinh tiết’’ - trinh tiết của người phụ nữ trong văn học
trung đại 37
2.2.2. Người phụ nữ vượt qua những luật lệ hà khắc của lễ giáo phong
kiến 40
2.3. SỰ KÌ THỊ GIỚI TÍNH TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI THỂ HIỆN
Ở VẤN ĐỀ TÊN GỌI 42
2.3.1. Tên người thể hiện sự kì thị giới tính 43
2.3.2 Cách xưng hô đối với nam giới và nữ giới thể hiện sự kì thị giới
tính 45

2.4. SỰ RẬP KHUÔN VỀ GIỚI TÍNH TRONG NGÔN NGỮ 47
2.4.1. Khái niệm về sự rập khuôn 47
2.4.2. Rập khuôn về giới tính trong ngôn ngữ - một biểu hiện của KTGT 47
KẾT LUẬN 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Để trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm của mình con người không thể
không sử dụng đền ngôn ngữ (Language). Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan
trọng bậc nhất của con người. F. de Sausure đã nói “ngôn ngữ là một hiện thực
xã hội”, nó góp phần không nhỏ trong việc phản ánh thực trạng - hình thái ý
thức xã hội mà nó đang tồn tại. Đúng vậy, ngôn ngữ không chỉ có chức năng
phản ánh thực tại xã hội mà còn có chứ năng củng cố và duy trì tồn tại xã hội.
Với cách nhìn này, từ góc độ giới có thể nhận thấy, ngôn ngữ không chỉ phản
ánh quan niệm, cách nhìn nhận về giới của con người mà có thể tác động, góp
phần vào thay đổi nhận thức của con người về giới. Ngày nay, khi ta nói tới
nghiên cứu ngôn ngữ là nói đến sự nghiên cứu nó trong mối liên hệ tinh tế và
phức tạp với hoàn cảnh xã hội mà nó được sinh ra, tồn tại và phát triển. Có thể
nói rằng, việc xem xét ngôn ngữ từ góc độ xã hội là địa hạt của ngôn ngữ học xã
hội. Một trong những mối quan tâm của ngôn ngữ học xã hội là vấn đề giới tính
trong ngôn ngữ. Vấn đề này có thể được tiếp cận bằng hai cách khác nhau như:
Ngôn ngữ của mỗi giới và ngôn ngữ về giới. Trong địa hạt ngôn ngữ nói về giới
thì sự KTGT được thể hiện rõ nhất, đầy đủ nhất thì đây chính là nội dung nghiên
cứu chính của khóa luận này. Thực tế trong xã hội, vấn đề KTGT vẫn tồn tại ở
những góc độ như: nghề nghiệp, giáo dục, địa vị pháp lí, nghĩa vụ quân sự…và
ngôn ngữ với tư cách là một thiết chế xã hội thì nó góp phần không nhỏ trong
việc phản ánh sự kì thị trong mỗi giới này. Trong xã hội xưa, vấn đề KTGT
không chỉ được thể hiện qua lời ăn tiếng nói hàng ngày qua những câu ca dao

tục ngữ mà đặc biệt hơn nữa sự kì thị đó còn được thể hiện qua các tác phẩm
văn học thời kì bấy giờ. Chính vì vậy mà chúng tôi lựa chọn đề tài: Tìm hiểu
các yếu tố ngôn từ biểu hiện sự kì thị giới tính trong một số tác phẩm văn
hoc trung đại Việt Nam để tiếp tục bổ sung và làm nên sự hoàn thiện hơn các
công trình nghiên cứu đã có từ trước. Qua đó khóa luận này cũng góp phần hữu
ích đối với mỗi người chúng ta trong việc giao tiếp với người khác giới, và cố
gắng tránh được sự kì thị giới tính trong hoạt động giao tiếp.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Vấn đề phân biệt giới tính hay kì thị giới tính không phải là vấn đề mới
mẻ đối với các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Theo các nhà nữ quyền,
phân biệt gới hay phản ánh trên một số mặt sau: quyền bỏ phiếu cho phụ nữ, sự
bình đẳng về chính trị, bạo lực gia đình mà đối tượng là nữ giới, những chỉ trích

2
về quảng cáo có tính phân biệt giới, các chỉ trích về sự thể hiện vai trò của phụ
nữ trong khoa học và xóa bỏ các ngôn ngữ phân biệt giới.
Vấn đề kì thị giới tính trong ngôn ngữ đã từ lâu là mối quan tâm của nhiều
học giả trên thế giới.
Theo Stanard (1977) thì điểm đáng chú ý về tổ chức “Lucy stone League”
có trụ sở đóng tại liên bang Maine (Hoa Kì) là sự vận động cho quyền của phụ
nữ được duy trì họ, tên của mình sau khi kết hôn. “Lucy Stone” chính là tên
riêng của một người phụ nữ kết hôn vào năm 1885 đã quyết định giữ nguyên họ
của mình thay vào việc phải mang họ chồng theo truyền thống. Tổ chức này cho
rằng việc phụ nữ phải từ bỏ họ của mình và mang họ chồng sau khi kết hôn và
việc trẻ em phải mang họ cha là một truyền thống thể hiện tính thiếu bình đẳng
nam - nữ, một truyền thống vẫn còn phổ biến trong văn hóa Hoa Kì cũng như
những nền văn hóa Anh - Mĩ khác. [21]
Theo những nghiên cứu của Kramarae và Treichler (1985) thì ngay từ năm
1908 đã có ý kiến phản đối việc sử dụng bao gộp đại từ “he” (đại từ ngôi thứ ba,
giống đực, số ít) và “man” (người đàn ông) và ngay từ năm 1941 đã xuất hiện

bài phê bình về cuốn từ điển nổi tiếng “Encyclopaedia Brittanica” thể hiện quan
điểm đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ trong ngôn ngữ [19].
Miller và Swift (1991) cho rằng: Ngay từ những năm 1930 và 1940 nhà văn
đồng thời là nhà sử học Mary Beard và nhà lí luận âm nhạc Sophie Drinker đã
có những nhận xét thiên về nam giới trong ngôn ngữ [20].
Tại Đan Mạch vào năm 1912, Lis Jacobsen đã công bố một công trình
nghiên cứu về tiếng Đan Mạch thời Trung cổ. Công trình này bà đã đưa ra nhận
xét rằng nam giới được gọi tên theo địa vị xã hội trong khi đó nữ giới lại bị gọi
tên theo quan hệ với người đàn ông - bạn đời của họ.
Những công trình nghiên cứu như: Công trình của Hellinger (1990) về sự
KTGT trong tiếng Anh và tiếng Đức, công trình của Poyntn (1985) về giống và
các từ xưng hô trong tiếng Anh - Úc.
Công trình của Freebody và Baker (1987) là công trình khảo sát lối biểu đạt
về giống và các quan hệ về giống trong những sách dạy đọc cho học sinh lớp
dưới ở Australia. Công trình nghiên cứu này đã cho thấy một sự mất cân đối về
mặt định lượng trong việc sử dụng những từ chỉ giống và sự mất cân đối trong
việc sử dụng tên riêng.
Sterns (1976) đã phân tích nội dung và hình ảnh trong 25 cuốn sách giáo
khoa dạy ngoại ngữ xuất bản năm 1970 và được sử dụng tại Hoa Kì. Bà đã phát

3
hiện được: Nhìn chung, ít thấy hình ảnh của người phụ nữ xuất hiện trong các
bài khóa, hoặc nếu có hình ảnh của người phụ nữ thì nét nổi bật vẫn là định kiến
về vai trò giống. Những nhân vật nữ được khắc họa chỉ là người mẹ, vợ hoặc
những người nội trợ và những nhân vật ấy thường được mô tả chủ yếu về mặt
thể xác.
Harres và Truckenbrodt (1992) và Rendes (1998) quan tâm tới ngôn ngữ và
đã có những nhận định: Phần lớn các hình thức định kiến trắng trợn đã phần nào
bớt xuất hiện chỉ là để nhường chỗ cho những hình thức định kiến tinh vi hơn
mà thôi.

Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu của Morris (1982:89),
Yagello (1978), Push (1984), Brouwer (1991), công trình của Hampeas (1976),
Baron (1986), v.v…. Cũng quan tâm đến rất nhiều vấn đề giới trong ngôn ngữ.
Trong những thế kỉ trước và đầu thế kỉ XX những vấn đề liên quan đến lối
ứng xử trong ngôn ngữ đối với phụ nữ cũng như sự khắc họa chân dung người
phụ nữ trong ngôn ngữ nhiều khi đẵ trở thành đề tài tranh luận gay gắt trong đội
ngũ các nhà ngôn ngữ học và các nhà bảo vệ ngôn ngữ (language guardian).
Những nhà bảo hộ ngôn ngữ (language custodian) này luôn quan tâm đến việc
xác định vai trò của phụ nữ trong sự thay đổi ngôn ngữ: liệu phụ nữ có phải là
những người bảo vệ hình thức ngôn ngữ cũ và thuần khiết hay họ chỉ là những
tác nhân gây thoái hóa ngôn ngữ, họ cũng đã thể hiện mối quan tâm tương tự với
việc ấn định tư cách của phụ nữ trong ngôn ngữ thông qua cách biểu đạt bằng
ngôn ngữ. Tuy nhiên, mối quan tâm này không hẳn nhằm vào mục tiêu đấu tranh
cho phụ nữ, vì trong nhiều trường hợp, những nhà bảo hộ ngôn ngữ này còn để
lộ sự băn khoăn trước tình trạng thế trội của nam giới trong ngôn ngữ ngày càng
bị mai một trước sự hiện diện ngày một gia tăng của nữ giới trong ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, đã có một vài công trình nghiên cứu bước đầu về ngôn ngữ và
giới tính và các nhà nghiên cứu cũng đã quan tâm tới vấn đề KTGT trong ngôn
ngữ tuy nhiên còn rất hạn chế. Các vấn đề về giới tính và ngôn ngữ nói chung
mặc dù đã có những quan tâm nhất định nhưng vẫn còn rải rác, chưa thành hệ
thống và chưa có những công trình lớn, tiêu biểu.
Trong cuốn ngôn ngữ học xã hội - những vấn đề cơ bản của Nguyễn Văn
Khang (1999) tác giả đã dành trọn cả 7 chương để nói về vấn đề ngôn ngữ và
giới tính. Trong bài sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ, Nguyễn Văn
Khang (1996) cũng phân biệt hai góc độ chính để nhìn vấn đề giới tính trong
giao tiếp ngôn ngữ.

4
Ngoài ra còn một vài tác giả khác như: Bùi Minh Yến (1996), Nguyễn Thị
Thanh Bình (2000), Vũ Tiến Dũng (2002) cũng đã quan tâm và đề cập đến vấn

đề ngôn ngữ và giới tính nói chung nhưng chỉ quan tâm tới đặc trưng đặc trưng
ngôn ngữ của từng giới.
Trần Xuân Điệp (2004) đã có một luận án tiến sĩ nghiên cứu về sự KTGT
trong ngôn ngữ.
Trên các phương tiện truyền thông đại chúng chúng ta còn thấy các nhà
nghiên cứu cũng có những bài viết, lời bàn về ngôn ngữ thể hiện sự KTGT của
người Việt.
Sơ bộ khái quát những công trình của các nhà nghiên cứu thì chúng ta dễ
nhận thấy rằng chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề
KTGT trong ngôn ngữ của các tác phẩm văn chương. Chúng tôi hi vọng với
khóa luận này cũng như với các công trình nghiên cứu về sau sẽ góp phần bổ
sung và làm hoàn thiện hơn những phần còn khuyết trống mà các công trình
nghiên cứu trước chưa có thời gian đề cập đến.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các yếu tố ngôn từ biểu hiện sự
KTGT trong văn học trung đại Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi mà khóa luận quan tâm nghiên cứu là sự KTGT trong một số tác
phẩm văn học trung đại Việt, gắn với những quan niệm của người Việt về sự
bình đẳng nam nữ còn tồn tại trong xã hội và được thể hiện trong những phát
ngôn. Phạm vi nghiên cứu vừa có tính khái quát lại vừa có tính chi tiết cụ thể để
góp phần thấy rõ được một cách cơ bản vấn đề KTGT trong ngôn ngữ và trong
quan niệm của người dân Việt Nam.
4. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ Ý NGHĨA CỦA KHÓA LUẬN
4.1. Mục đích
Mục đích của khóa luận là tìm hiểu các yếu tố ngôn từ biểu hiện sự kì thị
giới tính trong một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam. Góp phần nghiên
cứu và làm sang tỏ vai trò của ngôn ngữ trong tiến trình dân chủ hóa xã hội
loài người nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng. Để từ đó góp phần

làm giảm thiểu sự kì thị giới tính ngôn ngữ và trong quan niệm của người dân
Việt Nam.

5
4.2. Nhiệm vụ
Khóa luận đã bước đầu đi tìm hiểu về thuật ngữ và khái niệm kì thị giới
tính trong tiếng Việt, tiếng Anh, cũng như những biểu hiện của sự kì thị giới tính
trong ngôn ngữ. Để từ đó tìm ra những yếu tố ngôn từ biểu hiện sự kì thị giới
tính trong một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam và đi vào phân tích
những biểu hiện đó.
4.3. Ý nghĩa lí luận
Khóa luận góp phần trong việc nghiên cứu so sánh, đối chiếu ngôn ngữ với
những đặc trưng văn hóa đi kèm. Nhằm góp phần làm sáng tỏ vai trò của ngôn
ngữ trong xã hội loài người nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng. Theo
đó, khóa luận góp phần đi sâu nghiên cứu một vài vấn đề cụ thể về các yếu tố
ngôn từ biểu hiện sự kì thị giới tình trong các một số tác phẩm văn học trung đại
Việt Nam.
4.4. Ý nghĩa thực tiễn
Nếu kết quả nghiên cứu của khóa luận được chấp thuận thì nó sẽ góp phần
nâng cao ý thức về tìm hiểu kì thị giới tính trong ngôn ngữ. Từ đó bước đầu định
hướng cho các cá nhân trong viêc lựa chon và sử dụng ngôn ngữ một cách thích
hợp để làm giảm thiểu và tiến tới loại trừ sự KTGT trong ngôn ngữ.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khóa luận, để giải quyết được những công việc
đã đề ra, người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
5.1.1. Phương pháp phân tích
Phương pháp này được người viết sử dụng trong quá trình tìm hiểu nghiên
cứu các tài liệu về sự KTGT, phân tích mổ xẻ vấn đề theo nhiều chiều hướng
khác nhau để thấy rõ được những biểu hiện của sự KTGT.

5.1.2. Phương pháp quy nạp
Qua việc phân tích các tài liệu nghiên cứu, người viết đi đến tổng hợp và
khái quát hóa, rút ra những kết luận cần thiết về các vấn đề đã được nghiên cứu.
5.1.3. Phương pháp khảo sát, thống kê
Phương pháp này được sử dụng để tiến hành khảo sát các tác phẩm văn học
trung đại, các tài liệu liên quan đến đề tài và sau đó thống kê lại toàn bộ nội
dung đã được khảo sát. Việc sử dụng phương pháp này giúp cho chúng ta làm

6
việc được nhiều nguồn dữ liệu một cách chính xác và có hiệu quả. Giúp ta nắm
bắt được những vấn đề nào còn khuyết thiếu để từ đó chúng ta tiến hành bổ sung
hoàn chỉnh lại vấn đề.
5.1.4. Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp so sánh đối chiếu được chúng tôi sử dụng để làm nổi bật sự
KTGT trong ngôn ngữ, người viết đã so sánh đối chiếu giữa ngôn ngữ tiếng Việt
với các ngôn ngữ khác đặc biệt là tiếng Anh để rút ra được những kết luận khoa
học và khách quan hơn trong biểu hiện KTGT của người Việt.
5.1.5. Phương pháp hệ thống
Vận dụng phương pháp hệ thống nghiên cứu từ kì thị, chúng tôi tiến hành
miêu tả phân tích cách dùng từ kì thị theo từng hệ thống, từng nhóm như hệ
thống các đại từ, hệ thống các danh từ chỉ chức danh nghề nghiệp được dùng
làm từ kì thị. Tuân thủ các phương pháp hệ thống, chúng tôi xem xét các từ kì
thị trong quan hệ với các yếu tố khác như quan niệm và cách ứng xử của người
dân Việt Nam đối với hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội xưa.
5.2. Nguồn ngữ liệu
Khóa luận được thực hiện chủ yếu dựa trên nguồn ngữ liệu là nền văn học
trung đại Việt Nam; ngoài ra còn sử dụng, tham khảo thêm một số ít ngữ liệu từ
văn học hiện đại Việt Nam; và tục ngữ, ca dao Việt Nam.
6. CẤU TRÚC CỦA KHÓA LUẬN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo cấu trúc của khóa

luận gồm 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Tìm hiểu các yếu tố ngôn từ biểu hiện sự kì thị giới tính trong
một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam








7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. KHÁI NIỆM VỀ SỰ KTGT TRONG NGÔN NGỮ
1.1.1 Khái niệm kì thị
Theo UNIDS (Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS)
“kì thị là một quá trình làm giảm giá trị của một cá nhân dưới mắt người khác.
Những đặc điểm gây ra kì thị thường rất đa dạng, ví dụ: màu da, cách nói năng
hoặc sở thích tình dục. Trong một nền văn hóa hoặc một bối cảnh nào đó, một số
đặc tính nhất định bị người khác để ý và coi là đáng xấu hổ hoăc đáng bị coi
thường. Khi kì thị được thể hiện hành động thì đó là phân biệt đối xử… Phân
biệt đối xử bao gồm những hành động hoặc loại trừ do thái độ kì thị gây ra và
nhằm vào những cá nhân bị kì thị”.


Theo “Từ điển tiếng Việt”, kì thị là sự phân biệt đối xử do thành kiến
[31,519]. Như vậy, sự KTGT trong ngôn ngữ là sự phân biệt đối xử do thành
kiến xã hội về giới tính trong ngôn ngữ. Chúng ta hiểu rằng sự phân biệt đối xử

do thành kiến có nghĩa là sự coi trọng người này và coi khinh người kia do thành
kiến xã hội về một mặt nào đó thì đó chính là ý nghĩa, là biểu hiện của từ kì thị.
Tuy nhiên, với cách hiểu như vậy thì không được thuận lợi so với dung lượng
của một thuật ngữ.
Theo tác giả Trần Xuân Điệp, kì thị là sự coi khinh người này và coi trọng
người kia về một mặt nào đó. Trong xã hội loài người tồn tại nhiều hình thức kì
thị như: kì thị về tuổi tác, tình trạng sức khỏe, tín ngưỡng, hoàn cảnh kinh tế hay
tình trạng hôn nhân, v.v… Tất cả những hình thức kì thị đó đều được biểu đạt rất
rõ trong ngôn ngữ.
Ví dụ: Với những cách nói như: “Vắt mũi chưa sạch” hay “Miệng còn hôi
sữa” là thể hiện sự kì thị về tuổi tác. Hay “Nam tôn nữ ti” là sự kì thị về giới
tính. KTGT còn là sự coi thường giới này và coi trọng giới kia. Một biểu hiện
rất cụ thể của sự KTGT là tư tưởng trọng nam khinh nữ. Như vậy, trong ngôn
ngữ KTGT là sự biểu đạt bằng ngôn ngữ qua hình thức rất dễ nhận thấy là sự coi
thường - coi trọng về giới.
1.1.2. Khái niệm kì thị giới tính
Giới tính là một khái niệm sinh vật học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về
mặt sinh học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con
người và duy trì nòi giống.

8
Giới là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách nhiệm và quyền hạn mà xã hội quy
định cho nam và nữ. Nhìn từ góc độ xã hội học, giới đề cập đến sự phân công
lao động các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối
cảnh xã hội cụ thể.
Phân biệt giới tính hay kì thị giới tính (sexism), một thuật ngữ xuất hiện
giữa thế kỉ XX, là một dạng niềm tin hay thái độ cho rằng một giới là hạ đẳng,
kém khẳng năng và kém giá trị hơn giới còn lại. Thuật ngữ này dùng để ám chỉ
sự thống trị của nam so với nữ. Cuộc đấu tranh chống lại sự phân biệt giới tính,
mà trung tâm là phong trào nữ quyền diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và

không chỉ dành riêng cho nữ.
Trong tiếng Anh, khái niệm KTGT trong ngôn ngữ (sexism in language) có
các cách gọi khác: “Sexist language” (ngôn ngữ KTGT), “Sex - exclusive
language” (ngôn ngữ loại trừ giới tính), “Gender - biased language” (ngôn ngữ
mang tính thiên kiến về giống). Ví dụ: Every cook praises his own broth (Mỗi
người đầu bếp đều tán dương chính món nước xáo của anh ta), thì “his” được sử
dụng để thay cả cho “her”. Lối dùng từ “his” theo kiểu bao gộp như vậy thể hiện
xu hướng thiên về nam giới, coi nam giới là đại diện cho cả nữ giới.
Miller & Swift (1972) đưa ra định nghĩa: sự KTGT trong ngôn ngữ hay
ngôn ngữ mang tính KTGT là bất kì cách diễn đạt nào thể hiện thái độ và sự
trông mong về giới hoặc bất kì cách diễn đạt nào thể hiện tính trội cố hữu của
giới này so với giới kia.
Các định nghĩa nói trên đều thể hiện một điểm chung. Mấu chốt của KTGT
trong ngôn ngữ là ở sự khắc họa hình ảnh của nam giới và nữ giới bằng ngôn
ngữ. Với những biểu đạt này thể hiện sự đánh giá cao giới này hoặc sự đánh giá
thấp giới kia.
1.2. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU KTGT TRONG NGÔN
NGỮ VỚI NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU
Như chúng ta đã biết, KTGT là một hiện tượng có thực đã và đang tồn tại
trong xã hội loài người. Sự KTGT trong ngôn ngữ có tồn tại hay không là tùy
thuộc vào quan niện về mối liên hệ giữa ngôn ngữ và tư duy hay thực tế xã hội.
Chính vì vậy cần có sự can thiệp có chủ ý của con người vào ngôn ngữ với mục
đích cuối cùng là gián tiếp tác động làm thay đổi thực tế KTGT trong xã hội nói
chung và trong ngôn ngữ nói riêng. Dưới đây là một số quan điểm.


9
1.2.1. Những quan điểm khác nhau về mối liên hệ giữa ngôn ngữ và
thực tế xã hội
1.2.1.1. Quan điểm cho rằng không hề có một mối quan hệ đặc biệt nào

giữa ngôn ngữ và thực tế xã hội
Quan điểm này cho rằng ngôn ngữ thuần túy chỉ là một hệ thống võ đoán
các tín hiệu được sử dụng để biểu đạt thực tế mà thôi. Nó phủ nhận sự tồn tại
của KTGT trong ngôn ngữ, phủ nhận sự liên hệ giữa khái niệm giới - phạm trù
ngoài ngôn ngữ - với khái niệm giống - phạm trù ngữ pháp (trong ngôn ngữ).
1.2.1.2. Những quan điểm khẳng định sự tồn tại mối quan hệ qua lại
nào đó giữa ngôn ngữ và thực tế xã hội
Theo những quan điểm này cho rằng ngôn ngữ là một nguồn lực có khả
năng cải thiện đời sống xã hội. Tuy nhiên, nếu đi vào từng quan điểm cụ thể thì
chúng lại có những điểm khác nhau ở một phạm vi nào đó.
a. Theo quan điểm “ngôn ngữ phản ánh thực tế” thì cấu trúc ngôn ngữ, mẫu
câu, cách sử dụng ngôn ngữ đều chịu sự ảnh hưởng và sự khích lệ của thực tế
phi ngôn. Đó là các thiết chế và tổ chức xã hội, những đặc điểm và hiện tượng tự
nhiên. Cách thức sử dụng và kết cấu ngôn ngữ phải chịu ảnh hưởng của những
thiết chế, những quan niệm và những hệ tư tưởng của cộng đồng và xã hội gắn
liền với ngôn ngữ.
b. Theo quan điểm “quyết định luận ngôn ngữ” (linguistic determinism),
“tính tương đối ngôn ngữ học” hay còn được gọi là “giả thuyết Sapir - Whorf”,
ngôn ngữ quyết định phương thức tạo dựng và xem xét thế giới của một cá nhân.
Tuy vậy, quan điểm này lại có phiên bản, đó là:
Phiên bản “mạnh” cho rằng: Ngôn ngữ quyết định tư duy.
Phiên bản “yếu” thì cho rằng: Ngôn ngữ đóng góp vào việc tạo dựng tư duy.
c. Quan điểm “tương tác”. Đây là một hình thức tổng hợp giữa hai quan
điểm “phản ánh” và “quyết định” nói trên. Theo quan điểm này ngôn ngữ không
chỉ phản ánh thực tế mà còn đóng góp vào việc tạo dựng nên thực tế. Một số nhà
lí thuyết cho rằng đây chính là phiên bản yếu của giả thuyết Sapir - Whorf.
Những người khác lại cho rằng đây là quan điểm biện chứng về ngôn ngữ, cá
nhân và xã hội. Graddol & Swann (1989:165) cho rằng đó là: “một quan điểm
tổng hợp mà theo quan điểm này thì ngôn ngữ vừa đóng góp vào việc tạo nên
tình trạng bất bình đẳng giới tính lại vừa phản ánh sự tồn tại của tình trạng ấy

trong xã hội”. [6]

10
Theo toàn bộ những quan điểm nêu trên thì chúng ta có thể thấy rằng: ngôn
ngữ chính là một nguồn lực có khẳ năng cải tạo thiện đời sống xã hội.Tuy nhiên,
nếu xét ở một khía cạnh nào đó cụ thể và chi tiết hơn thì những quan điểm trên
vẫn bộc lộ một số điểm khác biệt.
1.2.2. Những quan điểm khác nhau về sự cần thiết phải có sự tác động
vào ngôn ngữ
Một trong những đặc trưng của ngôn ngữ là biến đổi. Sự thay đổi đó có thể
do nhiều nguyên nhân khác nhau hoặc có thể do con người chủ động tạo nên.
Đây chính là vấn đề “thay đổi ngôn ngữ có chủ ý” (intended language change).
Song, liệu con người có nên chủ động thay đổi ngôn ngữ hay không là một trong
những vấn đề còn nhiều tranh cãi. Quan niệm về việc cần thiết phải có sự tác
động vào ngôn ngữ xuất phát từ các quan điểm khác nhau về bản chất của mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và thực tế. Điều này dẫn đến quan niệm về vấn đề này
cũng rất khác nhau.
1.2.2.1. Những quan điểm phản đối việc tác động vào ngôn ngữ
a. Quan điểm phủ nhận mối liên hệ giữa ngôn ngữ và thực tế
Theo quan điểm phủ nhận mối quan hệ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thực
tế xã hội thì mặc dù trong thực tế xã hội có hiện tượng KTGT nhưng trong ngôn
ngữ không hề có hiện tượng đó và vì thế không cần phải tác động vào ngôn ngữ
hay cải cách ngôn ngữ.
b. Quan điểm “ngôn ngữ phản ánh thưc tế xã hội”
Quan điểm cho rằng ngôn ngữ chỉ thuần túy phản ánh thực tế thường được
vận dụng để phản đối cải cách ngôn ngữ. Những người theo quan điểm này
thường có thiên hướng ít ủng hộ việc tác động vào ngôn ngữ hay cải cách ngôn
ngữ vì họ không tin vào khả năng của ngôn ngữ có thể tạo ra được những thay
đổi trong xã hội như mong muốn (loại bỏ sự KTGT trong xã hội). Đại diện tiêu
biểu cho quan điểm này là Robin Lakoff (1975: 470 - Giáo sư Ngôn ngữ học

thuộc Đại học California tại Berkeley) và Martynyuk (1990b: 1099 - nhà ngôn
ngữ học người Nga). Lập luận của các học giả này là: Sở dĩ có thói quen KTGT
trong ngôn ngữ là do thái độ KTGT của những người sử dụng ngôn ngữ đó. Đó
là thái độ của những người sống trong cộng đồng thiếu quan tâm đến việc đối xử
bình đẳng nam – nữ. Theo quan điểm “phản ánh” thì những thói quen ngôn ngữ
thể hiện tính áp bức nào đó không hề gây ra và cũng không quy định sự phân
biệt đối xử hay sự áp bức đối với nữ giới, và cũng không quy định địa vị phụ
thuộc của nữ giới trong thực tế. Những thói quen ngôn ngữ đó chỉ đơn giản phản

11
ánh những hiện tượng thực tế ấy mà thôi. Do vậy những người theo quan điểm
này chủ trương thúc đẩy sự thay đổi trong xã hội, và theo thời gian, sự tác động
vào xã hội này sẽ kéo theo sự thay đổi về ngôn ngữ. Steindl (2004: 4) cũng quan
niệm: Ngôn ngữ thật ra là một cái gì đó luôn phát triển. Chúng ta không thể đơn
giản biến đổi nó, đối xử thô bạo với nó và ra lệnh cho nó. Trước hết, hiện thực
xã hội phải tự thay đổi, sau đó, một lúc nào đó, ngôn ngữ sẽ thay đổi theo.
1.2.2.2. Những quan điểm ủng hộ việc tác động vào ngôn ngữ hay cải
cách ngôn ngữ
a. Quan điểm cho rằng ngôn ngữ tụt hậu sau những biến đổi xã hội
Như trên đã trình bày ở trên, quan điểm “ngôn ngữ phản ánh thực tế xã
hội” ít ủng hộ cho cải cách ngôn ngữ. Điều này không có nghĩa là tất cả những
người theo quan điểm đó đã hoàn toàn phủ nhận ý muốn cũng như sự cần thiết
phải có cải cách ngôn ngữ. Trên thực tế, đã có không ít những người theo quan
điểm này lại lập luận ủng hộ cho tác động vào ngôn ngữ hay cải cách ngôn ngữ.
Tuy vậy, cơ sở của thái độ ủng hộ ấy lại hoàn toàn khác. Theo những học giả
này thì sự thay đổi trong ngôn ngữ luôn “tụt hậu” so với sự thay đổi về tập quán
xã hội và văn hóa. Nói cách khác, theo quan điểm này thì sự khắc họa bằng ngôn
ngữ hiện nay đối với hình ảnh của nam giới và nữ giới đã trở nên lỗi thời và
không phản ánh được sự thay đổi về vị trí cũng như vai trò của phụ nữ trong xã
hội mới.

Trong số những tác giả ủng hộ cho quan điểm này đáng chú ý nhất là hai
nhà nghiên cứu người Mỹ: Casey Miller và Kate Swift (1980, 1991), kế đó là
nhà ngôn ngữ học người Mỹ, Bobbye Sorrels (1983). Các tác giả này đều cho
rằng ngôn ngữ mang tính KTGT cần phải được cải cách để phù hợp với xã hội
hiện tại.
b. Quan điểm cho rằng ngôn ngữ mang tính KTGT là nguyên nhân gây nên
sự áp bức phụ nữ
Quan điểm “quyết định luận ngôn ngữ” về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
thực tế đã xem ngôn ngữ là một sức mạnh áp đảo, nếu không muốn nói là một
sức mạnh trung tâm trong việc tạo nên cũng như duy trì sự KTGT trong xã hội.
Đây chính là việc áp dụng phiên bản mạnh của giả thuyết Sapir - Whorf. Do đó
ngôn ngữ sẽ nắm giữ vai trò then chốt trong việc giải phóng phụ nữ trong xã hội.
Tác giả tiêu biểu cho quan điểm này là nhà ngôn ngữ học người Anh: Dale
Spender (1980:3).


12
c. Quan điểm cho rằng cần phải có một vị trí cho phụ nữ trong ngôn ngữ
Quan điểm này được xây dựng dựa trên quan niệm cho rằng: do đặc điểm
khác nam giới về mặt sinh vật học nên nữ giới đã không có một vị trí bình đẳng
với nam giới trong ngôn ngữ. Vì thế cần phải thay đổi ngôn ngữ để mang lại cho
nữ giới vị trí đó.
Ngôn ngữ đóng vai trò trung tâm trong việc gây ra sự đối xử bất công đối
với nữ giới và sự lệ thuộc của nữ giới. Đây là quan điểm của những học giả chịu
ảnh hưởng của phương pháp tiếp cận hậu cận đại đối với ngôn ngữ, đó là phân
tích luận tâm lí học và phân tích luận văn học và triết học. Tiêu biểu là các học giả
người Pháp: Hélène Cixous, Julia Kristeva và Luce Irigaray, những người chịu
nhiều ảnh hưởng từ tư tưởng phân tâm học của Lacan. Nhìn chung quan điểm của
trường phái ngôn ngữ này vẫn là một cách nhìn của “quyết định luận ngôn ngữ”.
Tiếp thu những tư tưởng của Sigmuna Freud, Lancan đã tin tưởng tuyệt đối vào

vai trò trung tâm của ngôn ngữ trong việc hình “cái tôi” của con người.
Lancan cho rằng quá trình sinh ra và lớn lên của con người chỉ là quá trình
hình thành “cái tôi”. Sự hình thành “cái tôi” xảy ra qua quá trình học tiếng và
trải qua những giai đoạn khác nhau. Lancan gọi các giai đoạn này là các những
“trình tự” (order) trong đó giai đoạn đầu là “trình tự tưởng tượng” (imaginary
order) giai đoạn sau là “trình tự tượng trưng “(symbolic order). Trong giai đoạn
đầu, đứa trẻ chưa có “cái tôi” vì nó chỉ là một bộ phận của mẹ nó. Sự hình thành
ý thức của bản thân mình (cái tôi) bao gồm việc thoát ra khỏi giai đoạn đầu và
chiếm được một vị trí trong giai đoạn hai. Giai đoạn hai - trình tự tượng trưng
chính là xã hội, bao gồm những thói quen có tính tín hiệu như tập quán xã hội,
văn hóa, v.v…. Việc trẻ chiếm được một vị trí trong trình tự tượng trưng bao
gồm một quá trình vừa cá nhân hóa vừa xã hội hóa mà trong đó học tiếng đóng
vai trò cơ bản. Qua ngôn ngữ mà trẻ học cách phân biệt mình với người khác về
nhiều mặt.
Điều có liên hệ đến vấn đề bình đẳng nam nữ là ở chỗ trên cơ sở lí thuyết
của Sigmund Freud, Lacan cho rằng chi phối “trình tự tượng trưng” là cái mà
Lacan gọi là luật người cha và quyền lực của dương vật, và rằng con trai và con
gái bước vào giai đoạn này theo những cách thức rất khác nhau. Do đó trai và
gái có liên hệ khác nhau đối với ngôn ngữ.
Nữ giới, do sự khác biệt về mặt giải phẫu học, không thể chấp nhận hoàn
toàn sự chi phối “trình tự tượng trưng” của luật người cha. Do vậy, trên một
phương diện nào đó, nữ giới đã bị loại trừ ra khỏi trình tự này hoặc bị đặt ra
ngoài lề của trình tự ấy. Chính vị trí “ngoài lề” ấy đã dẫn tới sự đối xử bất công

13
đối với nữ giới. Về mặt ngôn ngữ, trình tự tượng trưng chỉ có thể duy trì một
loại ngôn ngữ. Đặc trưng của loại ngôn ngữ này là những cặp nhị phân: “có” hay
+ và “không có / thiếu” hay -). Trong lí thuyết này, ngôn ngữ gắn liền với tính
dục nên những cặp nhị phân bao gồm những từ và khái niệm như “nam” và
“nữ”, “đực” và “cái” được xây dựng dựa trên cơ sở cơ quan sinh dục của người.

Bởi vì cơ quan sinh dục nữ không có dương vật nên nữ giới được xem là cực âm
của cặp nhị phân “nam - nữ”. Hơn nữa, vị trí ngoài lề này của nữ giới trong trình
tự tượng trưng còn có nghĩa là nữ giới đã bị lấy mất đi một loại ngôn ngữ có thể
diễn đạt tình cảm, kinh nghiệm và cái tôi của chính mình. Như vậy, theo Lacan
thì ngôn ngữ không thuộc về nữ giới. Nói cách khác, nữ giới không có vị trí
trong ngôn ngữ và đó là một thực tế cố hữu do sự khác biệt của nữ giới về mặt
sinh vật học. Nói tóm lại, theo Lacan, sự KTGT trong ngôn ngữ là tất yếu và
điều đó là không hề thay đổi.
Tuy nhiên, Heslene Cixous, Julia Kristeva và Luce Irigaray lại không hoàn
toàn nhất trí với Lacan về mối liên hệ giữa giới tính và ngôn ngữ. Tuy nhất trí
với Lacan về sự hiện hữu của sự KTGT trong ngôn ngữ nhưng những tác giả
này lại cho rằng: thay đổi ngôn ngữ có tính khả thi cao. Do đó họ còn chủ
trương một số hình thức tác động vào ngôn ngữ mà theo họ sẽ có tác dụng tốt
hơn đối với nữ giới.
Các học giả này cho rằng vị trí mà trẻ chiếm lĩnh trong trình tự tượng trưng
không chỉ được quyết định bởi cơ quan sinh dục mà còn bởi sự tương đồng với
bố hoặc mẹ của trẻ. Nói cách khác, con gái không nhất thiết phải giống mẹ và
con trai không nhất thiết phải giống bố. Do đó không nên có sự cào bằng giữa
“nữ” (famale) và “cái” (faminine), giữa “nam” (male) và “đực” (masculine).
Nam giới có thể chiếm một vị trí của giống cái và nữ giới có thể có một vị trí
của giống đực trong trật tự tượng trưng.
Trên cơ sở quan niệm như vậy, các học giả này xem việc tác động vào
ngôn ngữ là một bước quan trọng tiến tới việc giải phóng nữ giới ra khỏi trật tự
tượng trưng vốn hiện đang nghiêng về nam giới và mang tính áp bức của giống
đực. Các tác giả này còn chủ chương nữ giới nên có một loại ngôn ngữ riêng
khác với loại ngôn ngữ thiên về nam giới như hiện tại nhằm mục đích tạo và
đánh giá nghĩa theo cách riêng của nữ giới, tách khỏi sự phụ thuộc vào nam giới
về mặt ngôn ngữ như hiện trạng.
d. Quan điểm cho rằng tác động vào ngôn ngữ là một bộ phận cấu thành
của cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ

Đây chính là tinh thần của quan điểm “tương tác” về bản chất của mối quan

14
hệ giữa ngôn ngữ và thực tế. Do ngôn ngữ không chỉ phản ánh và còn góp phần
tạo dựng và duy trì thực tế KTGT nên tác động vào ngôn ngữ phải có tác dụng
nhất định đối với hiện tượng đó trong thực tế. Tuy nhiên, khác với những người
theo quan điểm “Quyết định luận ngôn ngữ”, những người theo quan điểm này
không hề quan niệm rằng ngôn ngữ giữ vai trò then chốt và quyết định trực tiếp
đến phong trào giải phóng phụ nữ. Họ cũng không quan niệm rằng sự can thiệp
vào ngôn ngữ, một mình nó có thể tác động mạnh mẽ trong việc làm giảm đi
những thói quen KTGT và tình trạng áp bức (đối với phụ nữ) trên những bình
diện khác của cuộc sống. Điều những người theo quan điểm này tin tưởng là tác
động vào ngôn ngữ có thể sẽ tạo cho phụ nữ một cơ hội để thể hiện được chân
dung và kinh nghiệm của mình. Đồng thời tác động vào ngôn ngữ có thể giúp
người ta nâng cao được ý thức về một thực tế là: Ngôn ngữ không đơn thuần là
một phương tiện trung tính để chuyển tải ý nghĩ và giá trị .
Phần trình bày trên đây đã đề cập đến những quan điểm khác nhau về hiện
tượng KTGT trong ngôn ngữ và sự cần thiết cũng như tính khả thi của sự tác
động vào ngôn ngữ nhằm khắc phục hiện tượng đó.
So với các quan điểm phủ nhận sự tồn tại của hiện tượng KTGT trong ngôn
ngữ, các quan điểm khẳng định sự tồn tại của hiện tượng đó trong ngôn ngữ
chiếm ưu thế không những về định lượng mà còn về cả mặt định tính: Bởi chúng
có cơ sở lý luận vững chắc hơn. Đó là các quan điểm” ngôn ngữ phản ánh thực
tế xã hội”, quan điểm “quyết định luận ngôn ngữ”, quan điểm” tương tác”.
Tuy nhiên, sẽ là không có sức thuyết phục nếu chỉ khẳng định được sự tồn
tại của hiện tượng KTGT trong ngôn ngữ mà lại chưa chỉ ra được sự cần thiết và
tính khả thi của những tác động nhằm thay đổi hiện trạng đó. Nói cách khác nếu
chỉ dừng lại ở việc thuần túy nghiên cứu sự KTGT trong ngôn ngữ mà không đề
cập đến nỗ lực của con người nhằm khắc phục hiện tượng đó thì thực tiễn của nó
sẽ bị giảm sút. Do vậy, lý thuyết về sự tồn tại của hiện tượng KTGT trong ngôn

ngữ luôn đi kèm với lý thuyết về sự cần thiết và tính khả thi của biện pháp khắc
phục và sự tác động của con người vào ngôn ngữ. Bên cạnh một vài quan điểm
phản đối việc tác động vào ngôn ngữ là những quan điểm ủng hộ việc tác động
vào ngôn ngữ mang tính thuyết phục hơn như những quan điểm “cho rằng ngôn
ngữ tụt hậu so với những biến đổi xã hội”, quan điểm”quyết định luận ngôn
ngữ”, quan điểm “cho rằng cần có một vị trí bình đẳng cho nữ giới trong ngôn
ngữ”, quan điểm “tương tác về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thực tế xã hội”


15
1.3. GIỐNG, PHẠM TRÙ GIỐNG TRONG NGỮ PHÁP VÀ QUAN HỆ
CỦA NÓ VỚI PHẠM TRÙ GIỚI
Vị trí của vấn đề giống trong ngôn ngữ, Corbett (1991:1) cho rằng giống là
một phạm trù phức tạp nhất trong tất cả các phạm trù ngữ pháp. Đó là một chủ
đề gây quan tâm không chỉ đối với người hoạt động trong lĩnh vực ngôn ngữ mà
còn đối với những người ở ngoài lĩnh vực ngôn ngữ… Trong một số ngôn ngữ,
giống đóng vai trò quan tâm và xuyên suốt, ngược lại trong nhiều ngôn ngữ
cũng không xuất hiện phạm trù này.
Cho dù có chuyên về ngôn ngữ học hay không chuyên về ngôn ngữ học thì
các tác giả không quan tâm nghiên cứu về sự KTGT trong ngôn ngữ đều hết sức
chú ý tới phạm trù giống trong việc khảo sát và phân tích sự khắc họa về giới
trong ngôn ngữ. Các tác giả này đã rất quan tâm tới phạm trù giống (thuộc ngôn
ngữ) và phạm trù giới (thuộc xã hội), và điều này đã nói nên mối quan hệ giữa
phạm trù giống trong ngữ pháp và phạm trù giới nằm ngoài ngôn ngữ. Việc
nghiên cứu vấn đề giống trong ngữ pháp và sự KTGT trong ngôn ngữ đã tạo nên
khá nhiều sự tranh cãi trong những nhà nghiên cứu ngôn ngữ chuyên, không
chuyên, trong những nhà phê bình ngôn ngữ có tư tưởng bình đẳng nam nữ cũng
như những nhà phê bình không có tư tưởng đó
1.3.1. Giống, việc dán nhãn giống và những hệ thống giống trong ngôn ngữ
Giống là một phạm trù ngữ pháp có ảnh hưởng đến danh từ. Giống được xem

như một kiểu hệ thống để phân loại danh từ thành những nhóm khác nhau. Những
nhóm hoặc lớp danh từ đó sẽ ứng xử khác nhau trong sự phù ứng đối với những bộ
phận khác của lời nói hoặc ngôn ngữ. Mặc dù giống không phải hoàn toàn là phổ
quát trong ngôn ngữ nhưng vẫn có một số đáng kể các ngôn ngữ thể hiện là có
phạm trù này. Corbett (1991: 1) đã đề cập đến những mặt khác nhau của vấn đề
quy giống và việc đánh dấu giống trong hơn 200 ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên,
ông cũng nhận xét là các ngôn ngữ thuộc hầu hết mọi ngữ hệ đều có hệ thống giống
trừ một số ngoại lệ chính là một vài ngữ hệ lớn ở châu Á. [17]
Thuật ngữ “giống” được dùng rộng rãi để chỉ phạm trù ngữ pháp này
nhưng người ta cũng còn dùng thuật ngữ khác như “lớp” hoặc “lớp danh từ”.
Thuật ngữ “giống” vốn là một từ được dịch ra từ nhiều tiếng nước ngoài mà bản
thân trong các tiếng nước ngoài ấy, thuật ngữ này cũng được dịch hoặc mượn từ
từ “genus” (loại / loài) trong tiếng La Tinh. Do vậy, đây không phải là một từ
dùng trong ngôn ngữ hàng ngày hay trong các loại văn bản thuộc chuyên ngành
khác. Có nhiều ngôn ngữ có hệ thống gồm 2 hoặc 3 giống, lại có những ngôn
ngữ với hệ thống có tới 20 giống và tiểu giống. Đồng thời những nhãn hiệu dán

16
cho những giống này cũng rất khác nhau. Bên cạnh những nhãn hiệu phổ biến
đối với nhiều ngôn ngữ như là: giống đực, giống cái, giống trung là những nhãn
hiệu khác như: Động vật, bất động vật, mạnh, yếu, nhân, phi nhân, v.v… Trong
một số trường hợp thì các giống được đánh số hơn là dán nhãn (như trong
Dyirbal, một ngôn ngữ của thổ dân Australia).
Corbett (1991: 1) phân biệt hai loại hệ thống giống đó là giống ngữ nghĩa
và giống hình thức.
Loại giống hình thức có thể được chia nhỏ ra thành hệ thống giống hình
thái học và hệ thống giống âm vị học.
Loại giống ngữ nghĩa trong hệ thống việc quy giống dựa trên cơ sở ngữ
nghĩa của danh từ. Những hệ thống giống như vậy còn được gọi là hệ thống
giống tự nhiên. [17]

Trong nhiều ngôn ngữ như vậy, những giống có nhãn hiệu như “đực” và
“cái” đều có quan hệ với phạm trù giới nằm ngoài ngôn ngữ trong việc phân loại
nam và nữ giới. Một điều thú vị là trong hệ thống giống lấy ngữ nghĩa làm cơ sở
thì nam và nữ giới chắc chắn được đưa vào lớp từ khác nhau ngay cả khi những
danh từ này không được dán nhãn “đực” và “cái”.
Những nghiên cứu đã cho rằng hệ thống giống trong tiếng Anh hiện đại chủ
yếu là một hệ thống giống tự nhiên có cơ sở là đặc điểm về giới cố hữu của danh
từ. Những danh từ chỉ nam giới và động vật giống đực được xếp vào giống đực,
những danh từ chỉ nữ giới và động vật giống cái được xếp vào giống cái trong
khi những đồ vật và những loài động vật khác được xếp vào giống trung. Tuy
nhiên cũng có một số trường hợp “bất quy tắc”, trong lớp từ chỉ lớp động vật có
khi một vật hay khái niệm cũng được xếp vào giống đực hay giống cái. Chẳng
hạn ”skis” (giày trượt tuyết), “shoes” (giày), “coffee” (cà phê), “car” (xe hơi),
“chocolate” (sôcôla), “pepper” (hồ tiêu) v.v… thuộc về giống đực và “boat”
(thuyền), “country” (đất nước, quê hương), “tea” (chè), “boots” (giày ủng),
“skates” (giày trượt băng) v.v… thuộc về giống cái. Như vậy việc quy về giống
đực hay giống cái dựa trên một sự ám chỉ ẩn dụ nào đó về “tính đực” hay “tính
cái”. Đây là hiện tượng mà người ta thường gọi là “giống ẩn dụ”. Mặc dù nét
đặc trưng là giới quan trọng trong nhiều hệ thống giống tự nhiên tuy vậy không
phải lúc nào cũng vậy.
Trong hệ thống giống hình thái học thì cơ sở của viêc quy giống cho danh
từ là đặc điểm về hình thái học. Theo Corbett (1991: 1) thì các hệ thống giống
thuần túy hình thái học là không có; các hệ thống này luôn có một hạt nhân ngữ

17
nghĩa và những hệ thống đó thường đan xen với các quy luật ngữ nghĩa. Nói
cách khác, việc phân lọai giống cho danh từ chẳng mấy khi chỉ dựa vào hình
thái, mà luôn dựa vào các đặc trưng hoặc các tiêu chuẩn ngữ nghĩa.
Trong hệ thống giống hình thái học thì việc quy giống cho danh từ dựa trên
hình thái đơn. Ví dụ, trong tiếng Pháp, các danh từ tận cùng là /m/ chủ yếu là

các danh từ giống đực như từ “femme” (/fam/) “phụ nữ” lại là danh từ giống cái.
Những ngôn ngữ có hệ thống dựa trên cơ sở hình thái học và âm vị học
được gọi là những ngôn ngữ có giống ngữ pháp. Cũng có những ngôn ngữ mà
không có hệ thống giống ngữ pháp, như tiếng Hunggari và tiếng Phần Lan.
Những ngôn ngữ này thường đánh dấu giống của người bằng biện pháp từ vựng.
1.3.2. Những vấn đề của phạm trù giống dưới góc độ bình đẳng nam
nữ trong ngôn ngữ
Dưới góc độ bình đẳng nam nữ trong ngôn ngữ thì phạm trù giống có liên
quan nhiều đến vấn đề KTGT trong ngôn ngữ. Các nhà nghiên cứu về sự KTGT
trong ngôn ngữ đã nêu phạm trù giống như là một sự cản trở cơ bản đối với sự
bình đẳng giới tính trong ngôn ngữ. Tất nhiên, phạm trù giống ở các ngôn ngữ
khác nhau thì sẽ tạo nên những vấn đề KTGT khác nhau trong ngôn ngữ vì các
ngôn ngữ đều khác nhau về phương thức thể hiện và phương thức đánh dấu
giống. Những vấn đề cơ bản nhìn theo góc độ bình đẳng giới tính thì trong ngôn
ngữ có liên quan đến các ngôn ngữ châu Âu có hệ thống giống, những ngôn ngữ
có xu thế hợp nhất giống đực và giống cái.
1.3.2.1. Tính võ đoán của những hệ thống giống ngữ pháp, đặc biệt là
loại hệ thống chỉ giới tính
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giống đực được sử dụng như là giống “trội”
hơn hoặc giống “có giá trị” hơn giống cái. Căn cứ vào ngữ nghĩa và hình thái mà
các ngôn ngữ phân biệt giống đực, giống cái và giống trung. Trong những ngôn
ngữ như vậy, phần lớn những trường hợp giống đực là giống quy định mô hình
phù ứng trong trường hợp những danh ngữ mang tính bao gộp, chỉ cả hai giới có
chứa những danh từ tác nhân chỉ nam giới và nữ giới.
Về mặt này tiếng Anh và tiếng Việt tương đồng ở chỗ đều thuộc về thuộc
loại hình ngôn ngữ có hệ thống giống tự nhiên hay còn được gọi là giống ngữ
nghĩa. Trong trường hợp này, sự KTGT được thể hiện ở việc sử dụng đại từ
giống đực để thay cho những danh từ chung về giống trong ngữ cảnh mang tính
bao gộp.
Trong tiếng Anh, những kiểu nói như sau:


18
The teacher is responsible for his students.
(Giáo viên chịu trách nhiệm đối với học sinh của anh ta)
Từ “teacher” (giáo viên) là từ chỉ chung về giới (có thể chỉ nam hoặc nữ)
nhưng đại từ sở hữu tương ứng với nó lại là “his” (giống đực) chứ không phải là
“her” (giống cái). Hoặc:
If a friend wishes to become a member, please ask him to write for
information.
(Nếu một người bạn muốn trở thành hội viên thì hãy bảo ta viết thư tìm
hiểu thông tin).
Từ “friend” (bạn) cũng là từ chỉ chung về giới nhưng đại từ nhân xưng cho
nó lại là “him” (giống đực) chứ không phải là “her” (giống cái). Ngay cả trong
những trường hợp giống của danh từ được đánh dấu, như “actor” (nam diễn
viên), “actress” (nữ diễn viên) thì danh từ giống đực thường được dùng là danh
từ bao gộp (chỉ chung).
Trong tiếng Việt, ở khu vực giáo dục, một ví dụ tương tự là cách sử dụng
từ “thầy” với tư cách là một chức danh chỉ sự tôn xưng và là một từ nhân xưng.
Ngày nay để chỉ những người làm công tác giảng dạy người ta dùng cụm từ:
thầy cô giáo. Nhưng chỉ quan hệ nói chung giữa người dạy và người học, người
ta thường chỉ dùng cách nói quan hệ “thầy - trò” chứ không dùng cách nói quan
hệ “cô - trò”. Như thế từ thầy đã được dùng để chỉ cả cô trong trường hợp này.
Nói cách khác từ thầy vốn là một từ chỉ giống đực nay đã được dùng như một
danh từ bao gộp chỉ chung về giới (cả nam và nữ).
Trong khi chuyển dịch các văn bản, tài liệu học tập từ tiếng nước ngoài
sang tiếng Việt người ta cũng khó tránh khỏi việc dùng đại từ nhân xưng ngôi
thứ 2 “anh” - đại từ bao gộp chỉ cả nam và nữ giới. Nguyễn Lai (1997: 62) đã
viết: “Và khi xuất hiện thì ngôn ngữ ấy là của tôi và của anh, ngôn ngữ ấy cho
tôi và cả cho anh…” [12].
Trong hoạt động tôn giáo cũng có những trường hợp tương tự. Đó là việc

dùng những từ như thầy và chú trong những tập hợp từ như sư thầy, chú tiểu để
chỉ cả nam và nữ tu hành. Các nhà ngôn ngữ học có tư tưởng bình đẳng nam nữ
cho rằng thói quen dùng giống đực để phục vụ những mục đích bao gộp đã là
một trong những nguyên nhân tạo nên tính vô hình của phụ nữ trong ngôn ngữ
và đưa phụ nữ xuống vị trí thứ yếu, phụ thuộc vào nam giới. Đây là một biểu
hiện cơ bản của KTGT trong ngôn ngữ.

×