Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Anh chan dung 100 tac gia van hoc viet nam va the gioi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.66 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Các bạn đồng nghiệp thân mến!
Ngữ văn là môn học rất quan trọng trong nhà trường phổ thông. Dạy văn
là dạy cho học sinh cách làm người. Trong những năm gần đây, các nhà nghiên
cứu giáo dục, các thầy giáo, cơ giáo ln cố gắng tìm tịi đưa ra nhiều những
giải pháp (từ biên soạn chương trình, nội dung sách giáo khoa, đổi mới phương
pháp, thiết bị dạy học...để nâng cao dần chất lượng dạy và học bô mơn. Học
sinh cũng ngày càng u thích học bộ mơn Ngữ văn. Tuy nhiên, hiện nay, ở hầu
hết các nhà trường phổ thông, thiết bị dạy học phục vụ cho mơn Ngữ văn cịn
rất thiếu (chỉ có Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo và một số
tranh ảnh minh họa). Dạy văn bản mà giáo viên, học sinh không được tiếp cận
với tác giả (không biết mặt tác giả, quê quán, sự nghiệp văn chương, nhất là với
những tác giả văn học nước ngồi) thì khó có được tiết dạy hiệu quả cao.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn giảng dạy bộ môn ở nhà trường, chúng
tôi, những giáo viên màng lưới cốt cán của Phòng GD & ĐT huyện Ba Vì (Hà
Nội) sưu tầm và biên soạn cuốn: Chân dung 100 tác giả văn học Việt Nam và
thế giới. Chúng tơi cố gắng tìm kiếm những bức ảnh có chất lượng tốt nhất,
chính xác, trung thực về các nhà văn, nhà thơ, chú thích các thơng tin về quê
quán, năm sinh, năm mất, sự nghiệp văn chương, tác phẩm có trong chương
trình phổ thơng (Cả Tiểu học, THCS và THPT). Chân dung 100 tác giả văn học
Việt Nam và thế giới cịn cung cấp thêm các thơng tin khác về các tác giả mà
sách giáo khoa, sách giáo viên khơng có. Chân dung các nhà văn được sắp xếp
theo thứ tự ABC để thuận tiện cho thầy , cơ và các em học sinh trong tìm kiếm,
sử dụng. Cuốn sách được in trên giấy cao cấp tráng pơ - li - me sắc nét, hình
ảnh đẹp, độ bền cao. Khổ giấy A4 cũng đủ to để học sinh quan sát rõ chân dung
các nhà văn, nhà thơ, cũng thuận tiện cất giữ, bảo quản. Hi vọng rằng cuốn
Chân dung 100 tác giả văn học Việt Nam và thế giới sẽ phần nào giúp ích cho
các bạn đồng nghiệp và các em học sinh trong việc giảng dạy và học tập môn
Ngữ văn.
Chúng tôi rất mong muốn nhận được sự chia sẻ cũng như ủng hộ của các
thầy, cô giáo dạy Ngữ văn cũng như các nhà trường để cuốn sách được phổ


biến rộng rãi. (Dưới đây là 30 trang trong tổng số 102 trang cuốn sách để thầy
cô và các em học sinh tham khảo)

(Giá: 490.000 đồng: Sách gồm 102 trang in màu trên giấy cao cấp
khổ A4). Liên hệ: Nguyễn Thị Thu Hà, ĐT: 01659.274.688
Nhóm tác giả
3


MỤC LỤC
TÁC GIẢ
Bằng Việt
Bùi Hiển
Chế Lan Viên
Chính Hữu
Đỗ Trung Qn
Đồn Thị Điểm
Đoàn Giỏi
Đoàn Văn Cừ
Hàn Mặc Tử
Hồ Phương
Hoài Thanh
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hồng Trung Thơng
Hồng Thanh Quang
Hữu Thỉnh
Huy Cận
Huỳnh Văn Nghệ
Kim Lân
Lâm Thị Mỹ Dạ

Lê Minh Khuê
Lý Thường Kiệt
Lưu Trọng Lư
Lưu Quang Vũ
Lý Lan
Ma Văn Kháng
Nam Cao
Phan Châu Trinh
Ngô Quân Miện
Ngô Tất Tố
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Công Hoan
Tố Hữu
Trần Đăng Khoa
Trần Hưng Đạo
Trường Chinh
Viễn Phương
Vũ Cao
Vũ Đình Liên
Vũ Khoan
Vũ Trọng Phụng
Xuân Diệu
Nguyễn Thị Xuân Quỳnh
Y Phương
Ai-ma-tốp

TRANG
7
8
9

10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
68
70

71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
80

TÁC GIẢ
Nguyễn Du
Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Duy
Nguyên Hồng
Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Khải
Nguyên Ngọc
Nguyễn Nhược Pháp
Nguyễn Quang Sáng
Nguyễn Thị Hồng Ngát
Nguyễn Trãi
Nguyễn Tn
Nguyễn Bính
Nguyễn Đình Thi
Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Thành Long

Phạm Duy Tốn
Phạm Hổ
Phạm Tiến Duật
Phan Bội Châu
Phan Châu Trinh
Phan Thị Thanh Nhàn
Quang Dũng
Tản Đà
Tế Hanh
Thạch Lam
Thanh Hải
Thế Lữ
Thép Mới
Tơ Hồi
Balzac
Defoe
Đỗ Phủ
Đốt-xtơi-ép-xki
Gogol
Hemingway
La Fontaine
Lev Nikolayevich Tolstoy
Lý Bạch
Lỗ Tấn
Maksim Gorky
Mơpatxăng
O. Henry

TRANG
37

38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67

84
85
86

87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
4


Andersen
Bạch Cư Dị
Tagore
Victor Hugo

82
83
99
100

Pushkin
Rousseau
Cervantes

HỒ CHÍ MINH

97
98
101
102

5


Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, ở làng Hồng Trù,
xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường
chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Theo nhiều tài liệu chính thống cũng như
tiểu sử tại Việt Nam, tên lúc nhỏ của ông Nguyễn Sinh Cung (giọng địa phương phát âm
là Côông), tự là Tất Thành. Tuy nhiên, một số tài liệu ghi nhận tên lúc nhỏ của ông
là Nguyễn Sinh Côn. Điều này cũng được chính ơng xác nhận bằng chính bút tích của
mình trong một bài viết năm 1954. Quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen) Tháng
6 năm 1911, Người ra đi tìm đường cứu nước và Người đã tìm thấy con đường cách
mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người
triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng
Cộng sản Việt Nam. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả nước và
nhân dân thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Người nhiều năm làm Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 2/9/1969, do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần
tại Hà nội, hưởng thọ 79 tuổi. Tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp, Vi hành, Thuế
máu, Nhật kí trong tù, Cảnh khuya, Tức cảnh Pác Bó, Rằm thánh Giêng...

6



Bằng Việt (sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941- mất năm 2014), nguyên quán xã Chàng Sơn,
huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lý, Đại học Tổng
hợp Kiev (Liên Xô) vào năm 1965, Bằng Việt về Việt Nam, công tác tại Viện Luật
học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Đến năm 1969, ông chuyển sang công tác ở
Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1970, ông tham gia công tác ở chiến trường Bình Trị Thiên,
với tư cách là một phóng viên chiến trường và làm tại Bảo tàng truyền thống cho
đoàn Trường Sơn. Năm 1975, ông công tác ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Sau khi
về Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (gọi tắt là Hội Văn nghệ Hà Nội) năm 1983, ông được
bầu làm Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1983-1989) và là một trong những
người sáng lập tờ báo văn nghệ Người Hà Nội (xuất bản từ 1985). Tác phẩm: Bếp lửa.

7


Bùi Hiển (22 tháng 11 năm 1919 - 11 tháng 3 năm 2009) là một nhà văn Việt Nam. Bùi Hiển
sinh tại làng Phú Nghĩa Hạ, nay là xã Tiến Thủy, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Vốn sinh
trưởng trong một gia đình khá giả, ơng sớm được tiếp xúc với văn hóa Pháp, chịu ảnh
hưởng nhiều của nhóm Tự Lực văn đoàn. Tốt nghiệp trung học, Bùi Hiển đi làm công
chức và lúc rảnh rỗi vào buổi tối bắt đầu viết văn. Khởi đầu sự nghiệp văn chương, ông
đăng các truyện ngắn trên tạp chí Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan . Trong suốt giai
đoạn 1945 đến 1960, ông tham gia công tác văn nghệ, giữ chức chủ tịch Hội văn nghệ
tỉnh Nghệ An, nhưng ít sáng tác, một phần thời gian dành cho công tác dịch thuật. Sau
1975, ông tiếp tục công tác trong Hội nhà văn Việt Nam và giữ chức chủ tịch Hội đồng
văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV. Năm 2001, ơng được trao Giải thưởng Nhà
nước về Văn học Nghệ thuật.. Ông qua đời lúc 7 giờ ngày 11 tháng 3 năm 2008, thọ 91
tuổi. Tác phẩm: Ngày đầu tiên của cu Tý.

8



Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An,
huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh
Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên
ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi
đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là
"Bàn thành tứ hữu" của Bình Định. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên
báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung
ương). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà
văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hịa các khóa IV, V và VI, ủy
viên Ban văn hóa giáo dục của quốc hội. Sau 1975, ơng vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ơng mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống
Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 69 tuổi. Tác phẩm: Con cị, Người đi tìm hình của nước.

9


Chính Hữu (15 tháng 12 năm 1926 - 27 tháng 11 năm 2007, tên thật là Trần Đình Đắc, là
một nhà thơ Việt Nam, nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục
chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ
thuật đợt hai (năm 2000. Ông sinh tại Vinh (Nghệ An). Nguyên quán của ông là
huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội
trước cách mạng tháng Tám. Năm1946, ông gia nhập Trung đồn Thủ Đơ và hoạt động
trong qn đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Ơng
cịn làm chính trị viên đại hội (chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954). Ông làm thơ từ
năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng
treo (1966) là tác phẩm chính của ơng. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2-1948. Thơ
ơng khơng nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình
ảnh chọn lọc, hàm súc. Ơng đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ
nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Ơng mất ngày 27 tháng 11 năm 2007 tại Bệnh viện Hữu

Nghị - Hà Nội. Tác phẩm: Đồng chí

10


Đỗ Trung Quân (sinh 19 tháng 1 năm 1955) là một nhà thơ Việt Nam. Ơng sinh tại Sài
Gịn. Đỗ Trung Quân vừa là bút danh vừa là tên thật của ông. Theo bài phỏng vấn trên
báo Vietnam News giữa năm 2005 thì trong khai sinh của ơng khơng có tên cha. Ơng
được mẹ là bà Đỗ Thị Hảo ni lớn đến năm 15 tuổi thì mẹ mất. Ơng tiếp tục mưu sinh và
sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông vào học tại Viện Đại học Vạn Hạnh. Năm 1979, ông tham
gia phong trào Thanh niên xung phong và bắt đầu sáng tác. Một số bài thơ do ông sáng
tác trở thành nổi tiếng như Hương tràm (1978). Một số bài thơ phổ nhạc được nhiều
người biết đến như: Hương tràm (1978), Vũ Hoàng phổ nhạc, Bài học đầu cho
con (1986), Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành bài "Quê hương" và Anh Bằng phổ thành bài
hát "Quê hương bài học đầu cho con" Chút tình đầu (1984), Vũ Hồng phổ nhạc thành
bài Phượng hồng (1988). Tác phẩm: Quê hương.

11


Đoàn Thị Điểm ( Ảnh minh họa) 1705-1748, hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ, là nữ sĩ Việt Nam thời Lê
trung hưng. Đoàn Thị Điểm là người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc
(nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Bà là tác giả tập Truyền kỳ tân phả (chữ Hán),
và tác giả của truyện thơ Chinh phụ ngâm (bản chữ Nôm- 412 câu thơ) - được bà dịch từ
nguyên bản Chinh phụ ngâm khúc (viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Cơn). Bà cịn viết
tập Nữ trung tùng phận gồm 1401 câu thơ và bài Bộ bộ thiềm-Thu từ (tức Bộ bộ thiềmBài hát mùa thu) Ngoài ra cịn có một số bài thơ văn khác của bà (gồm chữ Hán, chữ
Nôm) được chép trong tập Hồng Hà phu nhân di văn của tiến sĩ Nguyễn Kiều mới được
phát hiện gần đây. Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong
những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan
và Sương Nguyệt Ánh. Năm 1745, Nguyễn Kiều về nước. Năm 1748, ông được cử làm

Tham thị ở Nghệ An. Đoàn Thị Điểm cùng đi với chồng, nhưng trên đường đi, bà bị cảm
nặng, chạy chữa không khỏi, cuối cùng mất ở Nghệ An vào ngày 11 tháng 9 (âm lịch)
năm đó (Mậu Thìn, 1748), lúc 43 tuổi . Tác phẩm: Chinh phụ ngâm.

12


Đoàn Văn Cừ sinh ngày 25 tháng 3 năm 1913 ở Thơn Đơ Đị xã Nam Lợi, huyện Nam
Trực, tỉnh Nam Định trong một gia đình nơng dân. Trước Cách mạng tháng Tám. Đoàn
Văn Cừ dạy học. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Hội đồng Nhân dân tỉnh Nam
Định (1946). Năm 1948 ông tham gia Việt Minh trong Kháng chiến chống Pháp làm công
tác văn nghệ, phiên dịch, công tác địch vận Liên khu III. Từ 1959, ông là cán bộ biên tập
Nhà xuất bản Phổ Thông (Bộ Văn hóa). Năm 1974 cơng tác tại Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc huyện Nam Ninh, tỉnh Hà Nam Ninh (hiện nay huyện Nam Trực thuộc tỉnh Nam
Định). Từ 1971, ông là Ủy viên Ban chấp hành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông gần
như sống ẩn dật ở quê trong những năm cuối đời và mất tại đây ngày 27 tháng
6 năm 2004. Đoàn Văn Cừ được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật
năm 2001. Tác phẩm: Chợ tết.

13


Đoàn Giỏi (17 tháng 5 năm 1925 - 2 tháng 4 năm 1989), là một nhà văn hiện đại Việt Nam,
hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Đoàn Giỏi sinh ở quê tại xã Tân Hiệp,
huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình địa chủ
lớn, có hàng trăm mẫu ruộng màu mỡ ven sông Tiền . Trong những năm Việt Nam chống
Pháp, Đồn Giỏi cơng tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ,
từng giữ chức Phó trưởng Ty thơng tin Rạch Giá (1949). Từ năm 1949 đến năm 1954, ông
công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ
Miên Nam. Sau 1954, ơng tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và

biên tập sách báo, công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ơng là
viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Ơng là Đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam. Tác phẩm: Đất rừng phương Nam.

14


Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9, 1912 – mất 11
tháng 11, 1940) là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt
Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến
Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là
Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Tác phẩm: Đây thôn Vĩ Dạ.

15


Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương tên thật là Nguyễn Thế Xương, sinh năm 1931
tại Hà Đơng, Hà Nội, (có tài liệu ghi 1930, tại Tây Hồ (quận), Hà Nội) Hồ Phương
bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tay về bộ đội từ khi mới 17 tuổi. Năm 1949
ông phụ trách một trong những tờ báo đầu tiên của Quân đội là báo Quân Tiên
phong của Đại đoàn 308. Từ năm 1955 ơng về Tổng cục Chính trị, là thành viên
tham gia thành lập tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1957. Nhà văn Hồ Phương
từng giữ chức Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1990 ông được
phong quân hàm Thiếu tướng. Hiện nay ông đang là chủ nhiệm hội văn nghệ sĩ
Xứ Đoài. Tác phẩm: Cỏ non.

Hồi Thanh (1909 - 1982) có tên khai sinh là Nguyễn Đức Ngun (ngồi ra ơng cịn sử
dụng các bút danh khác như Văn Thiên, Le Nhà Quê), là một nhà phê bình văn học uyên
bác và tinh tế, đã đóng góp cơng lớn về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ
mới trong văn học Việt Nam thế kỉ 20. Tác phẩm bất hủ Thi nhân Việt Nam do ông và em

trai (Nguyễn Đức Phiên - bút danh Hoài Chân) viết đã đưa tác giả lên vị trí cao, xứng tầm
một nhà phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20. Sinh ngày 15 tháng
7 năm 1909 trong một gia đình nhà nho nghèo có tham gia phong trào Đơng
Du chống Pháp của Phan Bội Châu. Quê ông ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ
An. Bắt đầu học chữ Hán, chữ Quốc ngữ, hồi nhỏ ông là học sinh của trường Quốc học
Vinh; rồi theo học trường Pháp Việt đến bậc trung học; tham gia phong trào yêu nước
của học sinh của Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Trước 1945, ông tham gia viết văn,
làm báo, dạy học và được coi là người đứng đầu trường phái phê bình văn học Nghệ
thuật vị nghệ thuật. Năm 1927, Ông gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1930 đang
học ở trường Bưởi (Hà Nội) thì bị bắt, bị kết án treo, bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ và giải về
quê. Năm 1931 vào Huế, làm công cho một nhà in, đi dạy học, đồng thời viết văn, viết
báo. Tác phẩm: Thi nhân Việt Nam.

16


Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng
quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Năm 1960: tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964,
nhận bằng Cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966: dạy tại
trường Quốc Học Huế. Năm 1966-1975: thoát ly lên chiến khu, tham gia cuộc
kháng chiến chống Mỹ bằng hoạt động văn nghệ. Năm 1978, ông được kết nạp
vào Hội Nhà văn Việt Nam. Ông từng là Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình
Trị Thiên- Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp
chí Cửa Việt. Năm 2007, ơng được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
thuật, cùng đợt với vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Hiện nay nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường và vợ đang cư ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Hồng Trung Thơng (1925-1993), bút danh khác: Đặc Công, Bút Châm,
là một gương mặt thơ tiêu biểu có vị trí đại diện cho nền thơ cách

17


mạng của nước Việt Nam mới; nguyên Tổng biên tập báo Văn
nghệ Hội Nhà văn Việt Nam; nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Văn học;
nguyên Viện trưởng Viện Văn học (1976-1985) và Vụ trưởng Vụ Văn
nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương. Tác phẩm: Bài ca vỡ đất.

Hồng Thanh Quang, tên thật là Đặng Hồng Quang, sinh ngày 7 tháng 9 năm 1962
tại Hà Nội, quê quán tại xã Nguyên Hịa, huyện huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng n.
Ơng là kỹ sư vơ tuyến điện, cử nhân báo chí, nhà thơ, nhà báo Việt Nam. Hiện
nay là Tổng Biên tập Báo Đại đoàn kết, Đại tá An ninh Nhân dân, nguyên Phó
Tổng Biên tập Báo Cơng an nhân dân - chun đề An ninh thế giới, chịu trách
nhiệm nội dung các chuyên đề An ninh Thế giới Tuần.

18


Hữu Thỉnh (sinh 15/2/1942), tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút
danh Vũ Hữu, là một nhà thơ Việt Nam. Là hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam từ năm 1976, Hữu Thỉnh hiện là chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (3
nhiệm kỳ liên tiếp) đồng thời kiêm nhiệm Tổng biên tập Báo Văn
nghệ. Ông cũng là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hồ Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (khố X). Tác phẩm: Sang thu.

Huy Cận (1919 – 2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận; là một trong những nhà
thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông là bạn tâm giao của Xuân Diệu,
một nhà thơ nổi tiếng khác của Việt Nam. Ông lúc nhỏ học ở quê, sau
vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh
nông. Trong thời gian học Cao đẳng cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham

gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự
Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải
phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác
với nhóm Tự Lực Văn Đồn. Tác phẩm: Đồn thuyền đánh cá, Tràng giang.

19


Huỳnh Văn Nghệ (1914 - 1977) quê làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ
Hạ, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên,
tỉnh Bình Dương là một nhà hoạt động cách mạng và là một chỉ huy
quân sự Việt Nam, nổi tiếng về tài thi ca, có những câu thơ được
nhiều người truyền tụng. Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, vì những đóng góp
trong thời kỳ chống Pháp và Giải thưởng Nhà nước về nghệ thuật.

Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 - mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là Nguyễn
Văn Tài, là một nhà văn Việt Nam. Ông quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng,
huyện Từ Sơn (nay là làng Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn), tỉnh Bắc
Ninh, 2008 thuộc vùng Hà Nội. Do hồn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được
học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ
năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ
bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện (Vợ nhặt, Đứa con người vợ lẽ, Đứa
con người cô đầu, Cơ Vịa,...) mang tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được
khơng khí tiêu điều, ảm đạm của nơng thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả
của người nơng dân thời kỳ đó. Tác phẩm: Làng, Vợ nhặt.

20



Lâm Thị Mỹ Dạ (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1949), là một nhà thơ nữ Việt nam, Giải
thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Lâm Thị Mỹ Dạ sinh tại quê:
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà làm việc tại Ty văn hóa Quảng Bình,
năm 1978 đến 1983 học Trường viết văn Nguyễn Du. Sau đó bà làm phóng viên, biên tập
viên tạp chí Sơng Hương (của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên - Huế). Lâm
Thị Mỹ Dạ là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế, hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III, ủy
viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam khóa V. Hiện bà đang sống tại thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chồng bà, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một nhà văn, nhà thơ
có tiếng ở Việt nam. Tác phẩm: Khoảng trời và hố bom.

Lê Minh Khuê, tên khai sinh là Lê Thị Minh Khuê, sinh ngày 6 tháng 12 năm 1949 tại q
ngoại Lan Châu, Nơng Cống, tỉnhThanh Hóa. Quê nội bà ở xã Hải An, Tĩnh Gia, Thanh
Hóa. Lê Minh Khuê chuyên viết truyện ngắn và truyện vừa. Truyện của bà được dịch và
xuất bản ở Hoa Kỳ, Đức, Thụy Điển, Italia, Hàn Quốc. Bên cạnh việc viết văn, Lê Minh
Khuê từng là phóng viên báo Tiền phong, phóng viên Đài Phát thanh Giải phóng (đi B, về
Đà Nẵng năm 1975 cùng đơn vị quân đội), phóng viên Đài Truyền hình Việt Nam, biên tập
viên Nhà xuất bản Hội Nhà văn từ 1978 đến khi nghỉ hưu. Tác phẩm: Những ngôi sao xa
xôi.

Lý Thường Kiệt ( 1019 – 1105) - ảnh minh họa, là một danh tướng đời nhà Lý có
cơng lớn trong việc đánh bại qn nhà Tống vào năm 1075 -1077. Ông được cho

21


là đã viết ra bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc (Nam Quốc Sơn Hà).
Ông cũng là vị tướng nổi tiếng nằm trong số 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu
nhất trong lịch sử Việt Nam. Tác phẩm: Nam quốc sơn hà


Lưu Trọng Lư (19 tháng 6 năm 1911 – 10 tháng 8 năm 1991), là một nhà thơ, nhà
văn, nhà soạn kịch Việt Nam. Sau 1954, ơng cơng tác ở Bộ Văn hóa và làm Tổng
Thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1957, ông là hội viên Hội nhà văn
Việt Nam. Năm 1991, Lưu Trọng Lư mất tại Hà Nội. Ông đã được tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000. Tác phẩm: Tiếng thu.

Lưu Quang Vũ (17 tháng 4 năm 1948 - 29 tháng 8 năm 1988) là nhà soạn kịch, nhà
thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam. Ông sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú
Thọ nhưng quê gốc lại ở phường Hải Châu, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, là con
trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú
Thọ cùng cha mẹ. Khi hồ bình lập lại (1954) gia đình ơng chuyển về sống tại Hà Nội.
Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên

22


quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai[
Lưu Quỳnh Thơ. Tác phẩm: Tôi và chúng ta.

Lý Lan (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1957) là một nữ nhà văn, nhà thơ và dịch giả tiếng
Anh của Việt Nam. Lý Lan sinh ra tại Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Quê mẹ ở Lái Thiêu, quê
cha ở huyện Triều Dương, thành phố Sán Đầu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tám năm đầu đời
Lý Lan sống ở quê mẹ, sau khi mẹ mất thì gia đình về Chợ Lớn định cư. Lý Lan học khoảng một
năm ở trường làng, nửa năm ở trường Trung Chánh, và Tiểu học Chợ Quán, Trung học Gia
Long, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, và cao học (M.A.) Anh văn ở Đại học Wake
Forest (Mỹ). Từ năm 1980 Lý Lan bắt đầu dạy ở trường Trung học Cần Giuộc (Long An),
năm 1984 chuyển về trường Trung học Hùng Vương, Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1991 chuyển qua trường Trung học Lê Hồng Phong, năm 1995 sang dạy ở Đại học Văn
Lang đến năm 1997 thì nghỉ dạy. Tác phẩm: Cổng trường mở ra.


23



×