Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện thường tín, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.34 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………../………………….

BỘ NỘI VỤ
……/……..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ THANH AN

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƢỜNG TÍN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CƠNG

HÀ NỘI – NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………../………………….

BỘ NỘI VỤ
……/……..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ THANH AN

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƢỜNG TÍN,


THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CƠNG
Chun ngành: Quản lý công
Mã số:

8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÝ THỊ HUỆ

HÀ NỘI – NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Lý Thị Huệ. Các kết quả được trình bày trong luận văn là
trung thực và chưa được cơng bố trong bất cứ cơng trình khoa học nào khác. Những
tài liệu sử dụng tham khảo trong luận văn đều được trích dẫn nguồn một cách đầy
đủ và chính xác.

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh An


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, trách
nhiệm của TS. Lý Thị Huệ trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành
luận văn thạc sĩ: “Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội”.

Tác giả luận văn cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo, cán
bộ, nhân viên Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình giúp đỡ cũng như tạo mọi
điều kiện thuận lợi hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn cũng trân trọng cảm ơn lãnh đạo và chun viên phịng Nội
vụ huyện Thường Tín đã quan tâm, giúp đỡ trong q trình nghiên cứu và hồn
thành luận văn.

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh An


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU: ................................................................................................ 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG.................................................. 11
1.1. Thi đua, khen thưởng ....................................................................... 11
1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ....................... 19
1.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng .............................................................................................................. 33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƢỜNG TÍN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ............................................................... 39
2.1. Thực trạng xây dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen thưởng trên
địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ....................................... 39

2.2. Thực trạng triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ................. 46
2.3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ........................................................... 73
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM VIỆC TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THƢỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY .......................... 79
3.1. Giải pháp nhằm bảo đảm việc xây dựng và ban hành pháp luật về thi
đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ..... 79
3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật
về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện
nay ................................................................................................................... 83
3.3. Giải pháp nhằm bảo đảm việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay. ................ 95
KẾT LUẬN ......................................................................................... 100
DANH MỤC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA TÁC
GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN ............................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................ 103


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thường Tín được khen thưởng cấp
nhà nước giai đoạn 2015 - 2019 .................................................................................... 60
Bảng 2.2. Số lượng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thường Tín được Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội khen thưởng giai đoạn 2015 - 2019 .......................................... 61
Bảng 2.3. Số lượng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thường Tín được Ủy ban nhân
dân huyện Thường Tín khen thưởng giai đoạn 2015 - 2019 ........................................ 62



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Thi đua khen thưởng
là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới” [5,
tr.1]. Mục đích của các phong trào thi đua được Người chỉ rõ: “Thi đua ái quốc
nhằm ba mục đích: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Tức là làm cho
nhân dân no, ấm, biết chữ, làm cho Tổ quốc được độc lập, tự do” [34, tr.236].
Muốn đạt được mục đích ấy, trước hết cần xây dựng kế hoạch tổ chức thực
hiện cho chu đáo, cho sát với hiện thực khách quan. Tức là: “Phải có kế hoạch tỉ mỉ.
Kế hoạch đó phải do từng đơn vị nhỏ, từng gia đình, từng cá nhân bàn bạc kỹ, hiểu
biết thấu, vui vẻ làm” và “Nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng
mực” [34, tr.270]. Hơn nữa, kế hoạch thi đua cần được bàn bạc dân chủ trong dân
chúng. Người nói: “Kế hoạch từng gia đình, từng nhóm phải đem ra bàn bạc kỹ,
phải dân chủ, nghĩa là làm cho mọi người đều hiểu, mọi người đều vui lịng nhận và
quyết tâm làm cho kỳ được. Có như thế kết quả mới đầy đủ, tốt đẹp. Kế hoạch thi
đua phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực, giản đơn” [34, tr.303]. Nhờ có kế hoạch thi
đua thiết thực và có kiểm điểm đánh giá, rút kinh nghiệm nên phong trào thi đua
diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm mà chúng ta tiến hành đã đạt được
những thắng lợi hết sức quan trọng.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, Đảng và
Nhà nước tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của phong trào thi đua yêu nước và
công tác thi đua, khen thưởng nhằm “phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh
tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển” [15, tr.54]. Trên cơ sở các quan điểm của Đảng về thi đua, khen thưởng, Nhà
nước đã thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Thực tiễn cho thấy quá trình thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng có
ảnh hưởng quan trọng, mang tính then chốt, là cơ sở góp phần thể chế hóa, đưa
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thi đua, khen thưởng vào cuộc
sống, phấn đấu mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”


1


[17, tr.220] theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII của
Đảng, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do dân và vì nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh đó q trình thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
vẫn cịn khơng ít bất cập, được chỉ rõ trong Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014
của Bộ Chính trị và đến nay vẫn cần tiếp tục được xem xét giải quyết: phong trào
thi đua phát triển chưa đồng đều, liên tục, nhiều nơi cịn mang nặng tính hình thức,
chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị. Nhiều nơi việc khen thưởng cịn thiếu
tính chính xác, chưa kịp thời..v.v…làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể và cá
nhân. Các hạn chế này khiến cho ý nghĩa của cơng tác thi đua, khen thưởng bị lệch
lạc, hình thức và bị lợi dụng với mục đích “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”,
“chạy danh hiệu” [18, tr.48] như Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII đã chỉ ra.
Việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng ở huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội cũng khơng nằm ngồi tình trạng trên. Nhiều văn
bản hướng dẫn về thi đua, khen thưởng chưa sát với thực tế tại địa phương. Các
danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cơng nhận nhiều nhưng chưa tương xứng
với các phong trào thi đua, chưa đúng so với thành tích đạt được. Việc khen thưởng
đối với các tập thể nhỏ và người lao động trực tiếp cịn hạn chế, chưa kịp thời. Bộ
máy làm cơng tác thi đua, khen thưởng còn bất cập. Năng lực một số bộ phận công
chức phụ trách công tác thi đua, khen thưởng tại các đơn vị còn yếu..v..v. Nguyên
nhân của các tồn tại, bất cập có nhiều nhưng chủ yếu do quy định và tổ chức thực
hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng cịn có những hạn chế bất cập, ảnh hưởng
trực tiếp đến các phong trào thi đua và thực hiện công tác khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Tổ chức thực hiện pháp

luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

2


Vai trò, mối quan hệ giữa thi đua với khen thưởng và việc triển khai các
văn bản quy định về thi đua, khen thưởng là chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của các nhà khoa học, các học giả ở Việt Nam thời gian qua. Cho đến nay đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết do nhiều tác giả với nhiều góc độ khác
nhau nghiên cứu liên quan đến vấn đề này đã được công bố; nhiều cơng trình, bài
viết đã có những đóng góp, những lý giải, những kiến nghị sâu sắc và có giá trị
thực tiễn cao. Tuy nhiên, trong phạm vi và giới hạn của đề tài, luận văn chỉ đề cập
đến một số nhóm cơng trình liên quan trực tiếp đến đề tài:
Thứ nhất, nhóm các cơng trình nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng
Năm 2006, cuốn Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của nhà nghiên cứu Nguyễn Viết
Vượng được xuất bản, tác giả đã trình bày, phân tích chi tiết về nguồn gốc, quá trình
hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua; phân tích nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về thi đua; nêu định hướng và các giải pháp vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về thi đua [61]. Cơng trình là nguồn tư liệu tham khảo quý giá cho tác
giả luận văn.
Sách Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu nước và công tác thi đua khen thưởng,
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008 đã phân tích khá kỹ những vấn đề lý luận,
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chỉ thị, nghị
quyết của trung ương Đảng, nghị định của Chính phủ về thi đua yêu nước, công tác
thi đua, khen thưởng. Đồng thời cuốn sách giới thiệu các bài phát biểu, bài viết của
các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước như: Thủ tướng Phạm Văn Đồng

với bài “Bất cứ trong lĩnh vực nào của đời sống, chúng ta đều cần có thêm “người
tốt, việc tốt” [2, tr.252], 02 bài viết của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu: “Làm cho phong
trào thi đua phát triển sâu rộng, đẩy tới đỉnh cao, làm xuất hiện nhiều con người và
tập thể anh hùng trong sự nghiệp đổi mới” [2, tr.259], “Thi đua là sáng tạo, là trí
tuệ, là tiến cơng, là đạo đức, là rèn luyện bản lĩnh, xây dựng nhân cách con người xã
hội chủ nghĩa” [2, tr.306] và nhiều bài viết khác của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Thủ

3


tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Phó Chủ tịch nước Trương
Mỹ Hoa..v.v...về cơng tác thi đua. Đây có thể coi là một cuốn sách tốt, giúp tác giả
có cách tiếp cận tổng quát lý luận về thi đua, khen thưởng.
Cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước của Lê Quang
Thiệu, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2008 bao gồm các bài viết trình bày tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thi đua, khen thưởng như: công việc hàng ngày
là nền tảng của thi đua; mọi việc đều thi đua; thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải
thi đua, những người thi đua là những người yêu nước nhất; người người thi đua,
ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua, thi đua phải có mục đích; Thi đua phải có
kế hoạch tỉ mỉ..v.v.[53]. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả luận văn
trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng.
Năm 2012, đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước Những vấn đề lý luận
chung về thi đua, khen thưởng do Nguyễn Thế Thắng làm chủ nhiệm đã luận giải
một số quan điểm, khái niệm về thi đua, khen thưởng; vai trò của Đảng, Nhà nước,
Mặt trận tổ quốc đối với cơng tác thi đua, khen thưởng; phân tích vị trí, vai trị, ý
nghĩa của việc tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, công tác khen thưởng [52].
Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo hữu ích cho tác giả luận văn.
Một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí khoa học đề cập đến tư tưởng Hồ
Chí Minh về thi đua, khen thưởng, như: Bài viết “Vận dụng tư tưởng thi đua yêu
nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đổi mới công tác thi đua, khen thưởng hiện

nay” của tác giả Trần Thị Hà, đăng trên Tạp chí Thi đua Khen thưởng số 216 (52018). Bài viết phân tích, làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước
và các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Tác giả đã
khẳng định “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc sẽ mãi mãi là ánh sáng chỉ
đường cho chúng ta về cách thức tổ chức và động viên lực lượng quần chúng tham
gia cách mạng” [24, tr.7]; bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước vận
dụng trong phong trào thi đua yêu nước hiện nay” của tác giả Hồng Phúc Lâm,
đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 7/2020 đã tập trung phân tích, làm rõ những nội
dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, đồng thời, đặt ra yêu cầu

4


tiếp tục kế thừa, phát huy tư tưởng của Người về thi đua yêu nước và vận dụng một
cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của cách mạng nước ta hiện nay [29].
Thứ hai, nhóm các cơng trình nghiên cứu về thực trạng tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng
Cuốn sách Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, yêu nước trong xây
dựng và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng của Trương Quốc Bảo, Nxb.
Chính trị quốc gia, 2010 đã góp phần làm phong phú cơ sở lý luận vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật
thi đua, khen thưởng. Trong đó, tác giả nhấn mạnh: hệ thống pháp luật thi đua,
khen thưởng hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn là cơ sở pháp lý vững chắc và
thuận lợi cho việc quản lý nhà nước về lĩnh vực thi đua, khen thưởng cũng như tổ
chức các phong trào thi đua, thực hiện công tác khen thưởng đạt hiệu quả tốt, làm
cho công tác thi đua, khen thưởng thực sự trở thành động lực phát triển đất nước
và công cụ quản lý của Nhà nước [4]. Đây là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
tác giả luận văn khi tác giả cuốn sách có cách tiếp cận khá mở trong việc phản ánh
thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Năm 2010, Luận văn thạc sĩ Hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở

Việt Nam của Đỗ Thúy Phượng đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về công tác thi
đua, khen thưởng; hệ thống hóa và đánh giá khái quát pháp luật về thi đua, khen
thưởng từ năm 1945 đến nay. Trong đó, tác giả đi sâu phân tích, đánh giá những
quy định pháp luật hiện hành về thi đua, khen thưởng; đánh giá tình hình thực hiện
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở nước ta hiện
nay [45]. Những gợi mở của cơng trình đã đóng góp tốt cho tác giả luận văn trong
quá trình triển khai thực hiện.
Trong đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi
mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay do Trần Thị Hà làm chủ nhiệm
(2013), đã chỉ rõ: đối tượng nghiên cứu đề tài là lý luận và thực tiễn đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng; phạm vi nghiên cứu của đề tài là lịch sử công tác khen

5


thưởng từ thời kỳ phong kiến và công tác thi đua, khen thưởng từ khi thành lập
nước cho đến nay, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, quy định của Đảng, Nhà nước ta về thi đua, khen thưởng. Bên cạnh đó,
cơng trình cịn nghiên cứu chế độ chính sách khen thưởng của một số nước trên thế
giới như: Pháp, Bỉ, Nga, Nhật, Australia, Trung Quốc để rút ra những bài học vận
dụng vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam [23].
Một trong những nội dung quan trọng của luận án tiến sĩ Pháp luật về thi
đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay của Phùng Ngọc Tấn (2016) cho rằng “pháp
luật về thi đua khen thưởng vẫn chưa hồn thiện, cịn có những mâu thuẫn, chồng
chéo, “nhận thức về pháp luật thi đua, khen thưởng có những biểu hiện lệch lạc,
nặng hình thức và chạy theo thành tích” [51, tr.1]. Luận án đã phân tích hệ thống
pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về thi đua, khen thưởng trong các cơ quan, tổ
chức trong hệ thống chính trị và các đơn vị khác từ đó chỉ ra các nhu cầu hồn thiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng nhằm đưa pháp luật thi đua, khen

thưởng vào trong đời sống xã hội hiện nay. Cơng trình là tài liệu tham khảo hữu ích
cho tác giả luận văn trong hướng nghiên cứu này.
Đề tài khoa học cấp Bộ Cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay do Nguyễn
Thị Phương Lan làm chủ nhiệm (2016) đã phân tích, làm rõ thực trạng đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
với những ưu điểm cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân. Trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi
đua, khen thưởng từng bước đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ của công tác thi đua, khen thưởng trong thời kỳ mới [28]. Kết quả nghiên
cứu của cơng trình có giá trị tham khảo hữu ích cho tác giả luận văn.
Thứ ba, nhóm các cơng trình nghiên cứu về các giải pháp nhằm bảo đảm
việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng

6


Trong cuốn Đẩy mạnh, nhân rộng, phát huy hiệu quả phong trào thi đua yêu
nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới, Nxb. Thanh niên,
2010 đã khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, giới thiệu các bài viết
của nhiều tác giả trong việc vận dụng tư tưởng thi đua yêu nước của Hồ Chí Minh,
từ đó đề xuất các giải pháp đẩy mạnh, nhân rộng, phát huy hiệu quả phong trào thi
đua yêu nước trong giai đoạn cách mạng mới [20]. Những giải pháp được cơng
trình đề xuất đã gợi mở cho tác giả luận văn trong hướng nghiên cứu này.
Năm 2014, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
cộng sản Việt Nam Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công
tác thi đua, khen thưởng ở nước ta giai đoạn hiện nay của Nguyễn Khắc Hà đã đưa
ra 6 nhóm giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách
công tác thi đua, khen thưởng nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác thi đua,
khen thưởng trong những năm tiếp theo, trong đó tác giả nhấn mạnh: “Xây dựng

cán bộ lãnh đạo quản lý chuyên trách công tác TĐKT trong giai đoạn hiện nay là
vấn đề rất lớn, mới và khó cần được quan tâm chỉ đạo” [25, tr.175]. Cơng trình đã
gợi mở tốt cho tác giả luận văn khi đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm công tác tổ
chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội hiện nay.
Đề tài khoa học cấp Bộ Phương pháp tổ chức phong trào thi đua đạt hiệu
quả cao trong giai đoạn hiện nay do Phạm Huy Giang làm chủ nhiệm (2015) đã
làm rõ cơ sở lý luận về thi đua và tổ chức phong trào thi đua, thực trạng tổ chức các
phong trào thi đua ở các địa phương, từ đó đề xuất một số phương pháp tổ chức
phong trào thi đua đạt hiệu quả cao trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, tác giả cho
rằng việc phát động và tổ chức các phong trào thi đua yêu nước cần phải có “những
đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp để tổ chức được các phong trào thi
đua yêu nước thiết thực, hiệu quả” [21, tr.90]. Các giải pháp mà cơng trình đưa ra là
tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả luận văn.
Tài liệu Báo cáo Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ IX, năm 2015 của
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương. Báo cáo đã tổng kết những thành tựu

7


cũng như hạn chế trong phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai
đoạn 2011 - 2015; đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng giai đoạn 2016 - 2020 [39]. Nội dung tài liệu rất có giá
trị tham khảo, nghiên cứu hồn thiện các giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật về
thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu khác đăng trên các báo, tạp chí khoa học đề cập
đến sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng, đó là: bài
viết “Nâng cao chất lượng tổ chức các phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Đặng Văn Tùng, đăng trên Tạp chí Thi đua Khen thưởng số
214 (3-2018); bài viết “Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn mới”

của tác giả Lê Ân Mai, đăng trên Tạp chí Thi đua Khen thưởng số 235 (12-2019);
bài viết “Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen
thưởng” của tác giả Nguyễn Văn Hữu, đăng trên Tạp chí Thi đua Khen thưởng số
224 (9-2020)..v.v..Các bài viết đã mang tính gợi mở cho tác giả luận văn trong việc
nghiên cứu nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những góc độ khác
nhau về cơng tác thi đua, khen thưởng và việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng. Có thể khẳng định, kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước là
tài liệu tham khảo rất có giá trị đối với tác giả luận văn trong quá trình triển khai
thực hiện. Tuy nhiên, vấn đề thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay thì chưa có cơng trình nào chun sâu
nghiên cứu, trình bày thật hệ thống trên góc độ quản lý cơng. Vì vậy, luận văn dựa
trên sự kế thừa, bổ sung, phát triển những nội dung liên quan đến công tác thi đua,
khen thưởng và thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng của các đơn vị, địa
phương khác trong cả nước, kết hợp với nghiên cứu thực tế tại huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội, mong muốn hệ thống lại những kiến thức đã được học, các cơng
trình nghiên cứu đã được công bố để nghiên cứu thực trạng việc tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội trước yêu
cầu và nhiệm vụ mới. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao

8


hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội hiện nay cũng như trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển huyện Thường Tín nói riêng,
thành phố Hà Nội nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Nghiên cứu lý luận của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng,

và phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay. Từ đó, đề xuất một số
giải pháp nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay cũng như trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ
Một là, nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận của tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
Ba là, đề xuất được giải pháp nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật
về thi đua, khen thưởng ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay cũng như
trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian nghiên cứu: trên địa bàn huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội.
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: từ năm 2015 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận

9


Luận văn dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơng tác thi đua, khen thưởng. Đồng
thời, luận văn có kế thừa những thành tựu đạt được của một số công trình nghiên

cứu khoa học đã được cơng bố có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản và hiện đại
của khoa học xã hội như: phương pháp lịch sử và lôgic, quy nạp và diễn dịch, đối
chứng và so sánh, liên ngành khoa học xã hội, đồng thời có sử dụng phương pháp
tổng kết thực tiễn để làm rõ nội dung nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Những vấn đề mà luận văn đề cập và giải quyết, sẽ góp
phần thiết thực vào việc luận giải và đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm việc tổ chức
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội
hiện nay cũng như trong thời gian tới.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo và giảng dạy, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng tại địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo cùng với cơng
trình nghiên cứu của tác giả có liên quan đến đề tài, nội dung của luận văn được cấu
trúc thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.

10


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.1. Thi đua, khen thƣởng
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của thi đua
C.Mác và Ph.Ăngghen là một trong những người đầu tiên nghiên cứu một
cách khoa học về nguồn gốc, bản chất và nội dung của thi đua. Theo C.Mác Ph.Ăngghen, thi đua là một hiện tượng khách quan nảy sinh trong quá trình hợp tác
lao động và quan hệ xã hội. Khi phân tích quá trình hợp tác giữa con người với con
người, giữa con người với lao động sản xuất, C.Mác đã phát hiện ra đặc điểm tâm lý
thi đua của con người và ơng đánh giá cao vai trị của hiệp tác trong lao động, là
nguồn gốc tạo nên thi đua: “Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong
hoạt động chung và kế hoạch của con người với sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua
và sự nâng cao theo lối đặc biệt, nghị lực sinh động làm tăng thêm nghị lực cho
riêng từng người” [10, tr.474]. Ông cũng cho rằng sự tiếp xúc xã hội trong quá trình
lao động sản xuất sẽ tạo ra thi đua và chính thi đua sẽ tạo ra sức mạnh tập thể lớn
hơn sức mạnh của từng lao động cá biệt, riêng lẻ từ đó làm tăng năng suất lao động
của người công nhân: “ngay sự tiếp xúc xã hội cũng đẻ ra thi đua, cũng kích thích
nguyên khí (ani-mal spirit) làm tăng năng suất cá nhân của từng người riêng rẽ…
Đó là vì con người ta, do bản tính, nếu khơng phải là động vật chính trị như A-rixtơt nói, thì dẫu sao cũng là một động vật xã hội” [11, tr.478].
Trên cơ sở những quan điểm nền tảng của C.Mác và Ph.Ăngghen về thi đua,
sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nhà nước công nông đầu tiên trên
thế giới ra đời, để lãnh đạo xây dựng xã hội mới, V.I.Lênin coi thi đua là một nhiệm
vụ quan trọng trong phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Nhiệm vụ của
chúng ta hiện nay, khi Chính phủ xã hội chủ nghĩa đang cầm quyền là tổ chức thi
đua” [43, tr.235], “tổ chức thi đua phải chiếm một địa vị quan trọng trong số những
nhiệm vụ kinh tế của chính quyền xơ-viết” [44, tr.185]. Trong q trình lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, V.I.Lênin nhận thấy chủ nghĩa xã hội là một

11


công trường lớn của thi đua tập thể, Người đã chỉ ra tính tất yếu cũng như mục đích

tốt đẹp của thi đua trong điều kiện xã hội mới, qua đó tinh thần thi đua, óc sáng kiến
của đơng đảo quần chúng nhân dân mới được phát huy rộng rãi: “Chủ nghĩa xã hội
không những không dập tắt thi đua, mà trái lại lần đầu tiên đã tạo ra khả năng áp
dụng thi đua một cách rộng rãi, với một quy mô thật sự to lớn, tạo ra khả năng thu
hút thật sự đa số nhân dân lao động vào vũ đài hoạt động khiến họ có thể tỏ rõ bản
lĩnh, dốc hết năng lực của mình, phát hiện những tài năng mà nhân dân sẵn có cả
một nguồn vơ tận” [43, tr.234]. Bên cạnh đó, V.I.Lênin cho rằng xã hội chủ nghĩa
muốn tránh được những người ăn bám cần phải tổ chức cho toàn dân tham gia việc
kiểm kê, kiểm sốt và để làm được điều đó, Người chỉ rõ “cần phải khơi những tài
năng tổ chức của họ, của những người có tài tổ chức của chính bản thân họ, xuất
phát từ hàng ngũ của họ; cần phải khêu gợi ở họ, - và tổ chức trong phạm vi toàn
quốc, - sự thi đua nhằm đạt những thành tích phải thực hiện về mặt tổ chức” [44,
tr.241] và “Tất cả các “công xã” - công xưởng, làng, hợp tác xã tiêu dùng, ban cung
cấp - đều phải cam kết thi đua với nhau trong việc tổ chức một cách thực tiễn việc
kiểm kê và kiểm soát sự lao động và sự phân phối sản phẩm” [43, tr.244].
Kế thừa, tiếp thu có chọn lọc tư tưởng thi đua của các nhà kinh điển Mác xít
vào hồn cảnh Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng thi đua lên tầm tư tưởng,
đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Người đã gắn thi đua với lòng yêu
nước của dân tộc Việt Nam khi khẳng định:“Yêu nước thì phải thi đua, thi đua tức
là yêu nước” [34, tr.270]. Đồng thời, khi bàn luận về thi đua, Người đã chỉ ra cơ sở,
gốc rễ, nền tảng của thi đua chính từ các hoạt động thực tiễn hàng ngày: “Tưởng
lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc hàng ngày. Thật ra cơng việc
hàng ngày chính là nền tảng thi đua” [33, tr.658]. Những luận điểm trên đã thể hiện
một cách độc đáo, sáng tạo quan niệm về thi đua của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người
lấy thi đua làm động lực để phát huy lòng yêu nước, làm cho thi đua yêu nước trở
thành một phương pháp cách mạng mang đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Ngoài
quy luật tất yếu khách quan của thi đua trong hợp tác lao động trên lĩnh vực kinh tế,
Người đã mở rộng phạm vi của thi đua trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội

12



với lực lượng tham gia thi đua là toàn thể nhân dân: “Bổn phận của người dân Việt
Nam, bất kỳ sĩ, nơng, cơng, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua
nhau: Làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều” [33, tr.444].
Với việc huy động sức mạnh của toàn thể nhân dân tham gia thi đua, trong
thi đua cần thực hiện tốt khâu đoàn kết, Người nói: “Thi đua khơng phải ganh đua,
giấu nghề. Thi đua có nghĩa là mọi người phát triển tài năng, sáng kiến của mình,
học hỏi điều hay lẫn nhau, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm để cùng nhau tiến bộ”
[35, tr.417] và “Thi đua là một cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến
bộ. Thi đua giúp cho đoàn kết chặt chẽ thêm. Và đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi”
[34, tr.270]. Bản chất của thi đua không phải là sự cạnh tranh, ganh đua, thi đua sẽ
tạo lên động cơ trong sáng, lành mạnh, vì lợi ích của mọi người, lợi ích của tập thể,
“Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ
giúp ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của địch để đi đến thắng lợi cuối
cùng” [33, tr.445].
Ý nghĩa của thi đua theo tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu nước, đoàn kết, hoàn
thành nhiệm vụ, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, rèn luyện và xây dựng
con người mới, “thi đua cải tạo con người” [36, tr.297]. Ý nghĩa đó có giá trị lớn về
thực tiễn không chỉ trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc trước đây, mà cịn có giá trị
lý luận và thực tiễn trong phong trào thi đua yêu nước hiện nay.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Thi đua là cùng nhau đưa hết khả năng ra
nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất” [62, tr.1559].
Tại Khoản 1, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng (Văn bản hợp nhất số
16/VBHN-VPQH ngày 13/12/2013 của Văn phòng Quốc hội hợp nhất Luật Thi
đua, khen thưởng) ghi rõ: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự
nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng khái niệm
thi đua được quy định tại Khoản 1, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng làm cơ sở lý

luận về thi đua.

13


Qua các cách tiếp cận về thi đua có thể thấy, thi đua là hoạt động có tổ chức
với các nhiệm vụ chủ yếu như lập kế hoạch, xác định mục tiêu, hình thức, đối
tượng, tổ chức phát động, ký giao ước thi đua, v.v... Người phát động phong trào thi
đua là người có thẩm quyền được quy định trong Luật Thi đua, Khen thưởng. Thi
đua diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến tất cả các
thành phần, các tầng lớp xã hội từ đó nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân
về tư tưởng, chính trị, văn hóa, nhận thức xã hội, hướng mọi người đến những giá
trị tốt đẹp trong đời sống xã hội và giúp các cấp ủy Đảng, chính quyền triển khai
thực hiện các nhiệm vụ chính trị đạt hiệu quả. Thi đua hoạt động trên nguyên tắc tự
nguyện của mỗi tập thể, cá nhân khi tham gia. Thông qua hoạt động cùng nhau trên
tinh thần tự nguyện sẽ khơi dậy sự sáng tạo của mọi cá nhân, phát huy tính tích cực,
chủ động, cổ vũ, động viên, lôi cuốn các tầng lớp, lực lượng trong xã hội nêu cao
tinh thần trách nhiệm thực hiện có hiệu quả các nội dung, chỉ tiêu thi đua của cơ
quan, đơn vị, địa phương đã đặt ra. Thi đua hướng tới những mục tiêu rõ rệt và
nhằm thu được kết quả thành tích tốt nhất. Thi đua trong quản lý nhà nước là thi đua
ái quốc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đảm bảo
sự phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ XXI nhằm hướng tới một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của khen thưởng
Trong các hình thái kinh tế xã hội, tùy thuộc vào bản chất của từng nhà nước
mà khen thưởng được thể hiện dưới các hình thức khác nhau, trở thành một trong
những cơng cụ quản lý của nhà nước nhằm động viên, khuyến khích mọi người thực
hiện tốt những mục đích mà nhà nước đó hướng tới.
Khen thưởng có vai trị quan trọng đối với các triều đại phong kiến ở Việt
Nam, là một công cụ quản lý của nhà nước hướng tới các đối tượng khác nhau trong

xã hội với mục đích trọng dụng người đức, tài, ghi nhận công lao của những người
có nhiều đóng góp của cải, người có cơng trong: chiến đấu chống giặc ngoại xâm,
xây dựng triều chính, phát triển nơng nghiệp, làm thủy lợi, người giữ gìn đạo lý
nhằm xây dựng, giữ gìn và bảo vệ nhà nước trước các thế lực thù địch. Các hình

14


thức khen thưởng cũng rất đa dạng. Tùy vào công trạng, đối với người còn sống sẽ
nhận được một hoặc nhiều hình thức khen thưởng như: được Vua ban Quốc tính (họ
vua), gia phong chức quan, thưởng lụa là, gấm vóc, thưởng quan tiền, được dựng
bia ghi cơng đức, được phong chức; đối với người đã mất: Vua đích thân làm văn
tế, giảm ăn, nghỉ coi trầu một ngày, truy phong, truy tặng hoặc gửi vàng bạc, lụa để
viếng, phong quan chức cho con, cấp ruộng cho con cháu thờ cúng. Bên cạnh đó,
khen thưởng là cơ sở để duy trì quyền lực thống trị, đánh giá sự mạnh yếu của một
triều đại. Khi bàn luận về khen thưởng trong xây dựng nhà nước phong kiến,
Nguyễn Trãi viết: Nhà nước thưởng nhiều hơn phạt là Nhà nước phồn vinh; nhà
nước thưởng, phạt nghiêm minh là nhà nước vững mạnh; nhà nước phạt nhiều hơn
thưởng là nhà nước đang suy tàn.
Kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, để
động viên mọi người hăng hái thi đua, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh ngày 26/01/1946 với lời mở đầu: “Trong một
nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới
thắng lợi, kiến quốc mới thành cơng. Vậy Chính phủ ra Quốc lệnh rõ ràng gồm
có 10 điểm thưởng và 10 điểm phạt, cho quân dân biết rõ những tội nên tránh,
những việc nên làm” [32, tr.163].
Trong đó, “Mười điều thưởng” trong Quốc lệnh được ban hành với nội
dung rất rõ ràng, cụ thể về những hành động, việc làm được khen thưởng:
“1. Nhà nào có ba con tịng qn sẽ được thưởng;
2. Ai lập được qn cơng sẽ được thưởng;

3. Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng;
4. Ai ra trận can đảm phi thường sẽ được thưởng;
5. Ai làm việc công một cách ngay thẳng sẽ được thưởng;
6. Ai làm việc có ích cho nước nhà, dân tộc được dân chúng mến phục sẽ
được thưởng;
7. Ai bỏ tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường sẽ được thưởng;
8. Ai bắt được nhiều kẻ phản quốc sẽ được thưởng;

15


9. Ai liều mình vì việc cơng sẽ được thưởng;
10. Ai cứu được người bị nạn sẽ được thưởng” [32, tr.163].
Việc quy định mười điểm thưởng trong Quốc lệnh chính là cơ sở pháp lý
đầu tiên về điều kiện khen thưởng, là minh chứng đầu tiên về chính sách trong
khen thưởng của Đảng và Nhà nước và đặt nền móng xây dựng ngành khen
thưởng ở nước ta.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Khen thưởng là khen và thưởng bằng hiện
vật xứng với thành tích, cơng lao: khen thưởng về thành tích lao động sáng tạo;
khen thưởng các học sinh giỏi” [62, tr.896].
Tại Khoản 2, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng (Văn bản hợp nhất số
16/VBHN-VPQH ngày 13/12/2013 của Văn phòng Quốc hội hợp nhất Luật Thi
đua, Khen thưởng) ghi rõ: “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh
cơng trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có
thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trên cơ sở các lý luận trên về khen thưởng, trong giới hạn phạm vi nghiên
cứu của đề tài, tác giả luận văn sử dụng khái niệm về khen thưởng được quy định
trong Khoản 2, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng làm cơ sở lý luận về khen
thưởng, bởi khái niệm đã đảm bảo được tính thống nhất giữa tính chất, hình thức
và đối tượng khen thưởng.

Có thể thấy, khen thưởng có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý
nhà nước nói riêng và tổ chức nói chung. Thể hiện trách nhiệm của tổ chức cũng
như người đứng đầu trong việc ghi nhận cơng lao, thành tích của tập thể, cá nhân.
Trong hoạt động quản lý nhà nước, khen thưởng là một trong những công cụ quan
trọng của Nhà nước; một hoạt động quan trọng trong quá trình thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nhiệm
vụ chính trị của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương; là biện pháp
cơ bản để đánh giá những cố gắng, thành tích đạt được cũng như các hoạt động
đóng góp của tập thể, cá nhân trong công việc và xã hội. Qua việc khen thưởng sẽ
phát huy mặt ưu điểm của từng cá nhân, từ đó tiếp tục khơi dậy sự sáng tạo, phát

16


huy trí tuệ, năng lực, tính tích cực của từng cá nhân cho sự phát triển của tổ chức
nói riêng và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung; đồng thời khen thưởng giúp
thúc đẩy tinh thần làm việc và tạo động lực để mọi cá nhân cố gắng đạt được
những kết quả tốt nhất nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức cũng như thực hiện
nhu cầu của bản thân.
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít và tác động
biện chứng với nhau. Nói về mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch. “Gieo trồng”
có thể hiểu là hành động tự nguyện, tự giác, là quá trình phấn đấu của mỗi cá nhân
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc; còn “thu hoạch” là những thành quả đạt được qua
quá trình nỗ lực phấn đấu của mỗi cá nhân, tập thể.
Mối quan hệ biện chứng giữa thi đua và khen thưởng được thể hiện ở các
mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, thi đua là tiền đề của khen thưởng, tạo nên thành tích để khen
thưởng. Thơng thường, khi phát động, tổ chức một phong trào thi đua sẽ gắn liền

với điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng. Bởi, qua hoạt động thi đua, mỗi cá nhân, tổ
chức sẽ phát huy trí tuệ, sức sáng tạo, sự đồn kết để đạt được những mục đích mà
tổ chức hướng tới. Những công sức, hành động của mỗi cá nhân, tập thể sẽ tạo nên
các thành tích đạt được, từ những thành tích đó sẽ là cơ sở để tổ chức, nhà quản lý
xét chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu xuất sắc nhất để khen thưởng. Ở đâu có
phong trào thi đua mạnh mẽ, rộng khắp thì số lượt khen thưởng nhiều và ngược lại
nếu khơng có phong trào thi đua hoặc phong trào thi đua yếu, chưa có sức lan tỏa
thì nơi đó khen thưởng khơng chuẩn xác, khơng có khen thưởng. Tùy vào hình thức
thi đua sẽ có hình thức khen thưởng phù hợp (tặng cờ, giấy khen, bằng khen, chứng
nhận, ..v.v.).
Thứ hai, khen thưởng là động lực của thi đua, là bước tiếp sau của thi đua,
kết quả của thi đua, phản ánh chất lượng và hiệu quả của thi đua, là nhân tố thúc
đẩy thi đua phát triển. Tập thể, cá nhân được khen thưởng cảm thấy vinh dự, tự hào,

17


được trân trọng sẽ cố gắng, tích cực trong các cơng việc được giao và sẽ khích lệ
mọi người cùng tham gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò quan trọng của
khen thưởng trong thi đua: “Sau đợt thi đua, phải thiết thực kiểm tra, tổng kết, phổ
biến kinh nghiệm, khen thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ những người kém
cỏi” [34, tr.270]. Khen thưởng còn nhằm dẫn dắt phong trào thi đua, là định hướng
phát triển xã hội. Thực tiễn cho thấy, nơi nào thực hiện việc xét khen thưởng chính
xác, cơng bằng, đúng người, đúng việc sẽ động viên, khuyến khích, giáo dục, nêu
gương và nhân rộng các điển hình tiên tiến, tạo sức lan tỏa trong từng tổ chức, từ đó
cổ vũ động viên mọi cá nhân học tập và noi theo, tạo tiền đề cho các phong trào thi
đua khác phát triển như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Vì khen thưởng
khuyến khích rất nhiều, vì khen thưởng là tổng kết và phổ biến kinh nghiệm ra cho
mọi ngành hoạt động” [35, tr.347]. Ngược lại, khi khen thưởng mang tính chất cào
bằng, khen thưởng tràn lan, thiếu sự chính xác, cơng khai, khen thưởng khơng kịp

thời hoặc chỉ có thi đua mà khơng có khen thưởng sẽ kìm hãm thi đua, khiến tổ
chức, cá nhân khơng có động lực để phấn đấu hoàn thành các mục tiêu thi đua đã đề
ra, làm mất niềm tin của cá nhân, tổ chức. Không nghiêm minh trong khen thưởng
thì phong trào thi đua khơng thể trở thành động lực phát triển, mà dẫn đến bệnh
thành tích trong thi đua.
Bên cạnh mối quan hệ biện chứng, giữa thi đua và khen thưởng có sự độc
lập, không phụ thuộc vào nhau. Khi tham gia phong trào thi đua, mục tiêu cuối cùng
mà tổ chức, cá nhân hướng tới khơng phải để được khen thưởng mà chính là kết quả
trong thực hiện công việc, khẳng định năng lực, sự cống hiến cho tổ chức. Ngược
lại, có những hình thức khen thưởng khơng phản ánh kết quả trực tiếp từ phong trào
thi đua nhưng cũng có quan hệ nhất định với thi đua, ảnh hưởng từ phong trào thi
đua, phản ánh một góc của các phong trào thi đua như: khen đột xuất, khen thưởng
tổng kết thành tích kháng chiến, khen thưởng cống hiến, khen thưởng trong công
tác đối ngoại.
Tuy nhiên, không thể coi trọng thi đua hay khen thưởng, giữa thi đua và khen
thưởng ln có sự tác động, bổ sung hỗ trợ cho nhau, là động lực trong phát triển

18


kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội, là cơ sở để
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: thi
đua và khen thưởng là cơng tác động viên chính trị, giáo dục tư tưởng, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa, đều là động lực phát triển xã hội theo hướng tốt
đẹp hơn.
1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng
Khái niệm pháp luật về thi đua, khen thưởng
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cũng như nhà nước, pháp luật

là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Pháp luật và nhà nước ln có mối quan hệ
khăng khít, cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát
huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Bởi, pháp luật là “hệ thống quy tắc xử sự
chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước” [19, tr.212]. Vì vậy, nhà
nước khơng thể tồn tại và phát huy quyền lực khi thiếu pháp luật; ngược lại pháp
luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực
nhà nước.
Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, tác động tới xã hội bằng
phương tiện đặc thù, đó là pháp luật. Pháp luật là ý chí của nhân dân được thể hiện
dưới dạng các văn bản quy phạm. Đối với các quá trình quản lý, pháp luật khơng
chỉ điều chỉnh, tác động mang tính pháp lý lên các quan hệ xã hội, mà còn là một
phương tiện quan trọng để hoàn thiện tổ chức quá trình đó. “Xưa nay, pháp luật bao
giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và
biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu thì vai trị của pháp luật
càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, khơng thể bng lỏng pháp luật nếu việc này
chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức” [22, tr.177].

19


×