Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động ...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.9 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM</b>
<b> Độc lập - Tự do - Hạnh phúc</b>


<b>ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN</b>
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến thị xã Phổ Yên.


<b>Số</b>
<b>TT</b>


<b>Họ và tên </b> <b>Ngày</b>
<b>tháng</b>
<b>năm sinh</b>


<b>Nơi</b>
<b>cơng tác</b>


<b>Chức</b>
<b>danh</b>


<b>Trình</b>
<b>độ</b>
<b>chun</b>


<b>mơn</b>


<b>Tỷ lệ (%)</b>
<b>đóng góp</b>
<b>vào việc</b>


<b>tạo ra</b>
<b>sáng kiến </b>


1 Nguyễn Hữu Hân 19/12/1980 Trường


THCS
Bắc Sơn


Giáo
viên


Đại học
Văn – Sử




Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: <i><b>Một số giải pháp nhằm phát</b></i>
<i><b>huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam</b></i>
<i><b>môn Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn</b></i>


<b>I. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến</b>
Tác giả: Nguyễn Hữu Hân


Đơn vị, địa chỉ: Trường THCS Bắc Sơn
<b>II. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến</b>


Sáng kiến được áp dụng trong công tác giảng dạy môn Lịch sử 9 ở Trường
THCS Bắc Sơn


<b>III. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử</b>
Sáng kiến được áp dụng từ ngày 15/9/2019


<b>IV. Mô tả bản chất của sáng kiến</b>


<b>1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn</b>


<i><b>1.1. Cơ sở lí luận</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chất của sự kiện, nhân vật lịch sử. Có như vậy mới giúp cho học sinh nhớ được bài
học lâu hơn và sẽ vận dụng được kiến thức vào trong thực tiễn cuộc sống.


<i><b>1.2. Cơ sở thực tiễn</b></i>


Trong mơn Lịch sử có nhiều khái niệm và sự kiện học sinh phải hiểu và
phải nhớ, tuy nhiên hiện nay còn hiện tượng học sinh học tập một cách thụ động,
chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư
duy. Tâm lí của học sinh thường có xu hướng chưa thật sự coi trọng bộ môn Lịch
sử nên chưa tập trung tìm hiểu nghiên cứu sâu về bài học mà chỉ dừng lại ở mức
độ học thuộc kiến thức thầy, cô cung cấp. Do vậy học sinh sẽ không phát huy tối
đa được khả năng tư duy sáng tạo của mình, chưa thực sự chủ động và tích cực
trong học tập và cũng vì thế kết quả học tập đạt được cũng chưa thật cao. Vì
những lí do trên mà tôi đã lựa chọn sáng kiến “<i><b>Một số giải pháp nhằm phát huy</b></i>
<i><b>tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam môn</b></i>
<i><b>Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn</b></i> để nghiên cứu và áp dụng.


<b> 2. Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh</b>
<b>trong dạy học phần lịch sử Việt Nam môn Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn</b>


Nhận biết tầm quan trọng của lịch sử đối với thế hệ trẻ là cần thiết cho nên
để đạt kết quả cao trong dạy học lịch sử, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tư
duy sáng tạo cho học sinh, tơi đã nghiên cứu tìm ra và vận dụng một số giải pháp
sau đây:


<i><b>2.1. Sử dụng sách giáo khoa để phát huy tính tích cực, chủ động của học</b></i>


<i><b>sinh</b></i>


<i>2.1.1. Sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng:</i>


Trước khi soạn bài người giáo viên cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong
sách giáo khoa. Sau đó xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ mục đích yêu
cầu ở học sinh về mặt kiến thức, tư tưởng, kỹ năng. Khi đã có cái nhìn toàn diện
khái quát, rồi mới đi sâu vào từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó,
sự liên quan của kiến thức đó đối với kiến thức cơ bản của tồn bài.


Mỗi bài thường có từ 2 đến 3 đề mục nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau
song không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng
phần, mà chúng ta cần phải xác định phần nào là trọng tâm phần nào cần lướt qua.


Ví dụ: Khi dạy Bài 18: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ở bài học này có
ba đơn vị kiến thức chính tương ứng với ba mục.


Mục I: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Mục II: Luận cương chính trị (10-1930)


Mục III: Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Như vậy chính sách giáo khoa đã làm điểm tựa để người giáo viên xác định
kiến thức cơ bản, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy học vừa phù hợp với
đối tượng vừa phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh.


<i>2.1.2. Sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học trên lớp</i>


Trong giờ học, học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi so sánh
đối chiếu với sách giáo khoa, thậm chí có những em khơng thích ghi theo bài


giảng của giáo viên mà lại ghi chép trong sách giáo khoa. Vì vậy bài giảng của
giáo viên khơng nên lặp lại nhiều ngôn ngữ trong sách giáo khoa mà nên diễn đạt
bằng ngơn ngữ của mình


Ví dụ: Khi dạy <i>Bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc</i>
<i>chống thực dân Pháp (1946-1954)</i>. Khi dạy mục IV: <i>Chiến dịch Việt Bắc thu</i>
<i>đông năm 1947</i>, giáo viên có thể vừa chỉ bản đồ vừa phân tích:


- Sáng 7-10-1947, thực dân Pháp cho một cánh quân nhảy dù xuống Bắc
Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn


- Một cánh quân bộ từ Lạng Sơn lên Cao Bằng rồi từ Cao Bằng đánh xuống
Bắc Kạn tạo thành gọng kìm bao vây phía đơng và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc.


- Ngày 9-10-1947, một binh đồn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ
ngược sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa,
Đài Thị (Tuyên Quang) bao vây phía tây căn cứ địa Việt Bắc.


Trong sách giáo khoa phần lớn các bài đều có các đoạn tư liệu chữ in nhỏ,
kiến thức ở đó rất quan trọng, là nguồn tư liệu mới làm nổi bật nội dung cơ bản
của bài. Chính vì vậy giáo viên phải sử dụng triệt để. Nếu nó đề cập đến những
vấn đề khó, phức tạp thì giáo viên miêu tả hoặc kể cịn nếu dễ thì giáo viên có thể
gọi học sinh đọc cho cả lớp nghe để các em hiểu về các sự kiện lịch sử trong đoạn
tư liệu đó (Ví dụ: Phần chữ nhỏ ở mục IV – Bài 25: <i>Chiến dịch Việt Bắc thu đông</i>
<i>năm 1947</i>, giáo viên cần kết hợp tường thuật và miêu tả ba cánh quân của thực dân
Pháp đổ bộ xuống căn cứ Việt Bắc)


<i>2.1.3. Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa để học ở nhà</i>


Đối với học sinh lớp 9 phần nhiều các em đều có khả năng tự học, do đó


người giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức với các em. Nếu hoàn thành tốt
nhiệm vụ thì đó chính là điều kiện để tư duy của các em phát triển.


Trong hoạt động dạy học, việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh là rất quan
trọng do đó giáo viên cần yêu cầu và hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà bằng
cách soạn bài trước khi học bài mới. Cách chuẩn bị bài thông thường là giáo viên
yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa và ghi vào vở. Mặt khác
giáo viên cũng có thể giao các bài tập theo từng bài học hay theo chương để học
sinh chuẩn bị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khắc sâu kiến thức đã hoc. Muốn lập được bảng thống kê trên đòi hỏi học sinh
phải tự đọc sách lắng nghe bài học trên lớp từ đó rèn luyện cho các em thói quen
học tập ở nhà thơng qua sách giáo khoa.


Ví dụ 1: Lập bảng thống kê quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài từ
năm 1919 – 1925 (Bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm
1919-1925) theo mẫu sau:


Thời gian Những hoạt động chính Ý nghĩa


18-6-1919 Gửi bản <i>Yêu sách của nhân dân An Nam</i>


lên hội nghị Véc-xai


Việc làm đó có tiếng
vang lớn đối với nhân
dân Việt Nam, nhân
dân Pháp và nhân dân
các thuộc địa Pháp



….



….



….


Ví dụ 2: Lập bảng các niên đại và sự kiện về thắng lợi của quân dân ta ở miền Nam
trong chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ (1961-1965)


Thời gian Những sự kiện lịch sử tiêu biểu


Năm 1962 Quân giải phóng cùng với nhân dân đánh bại nhiều cuộc hành
quân càn quét của quân đội Sài Gòn đánh vào chiến khu D, căn
cứ U Minh, Tây Ninh






….


Muốn cho học sinh học tốt hoặc để nhận biết sự tiếp thu của học sinh như
thế nào, người giáo viên ra câu hỏi cho học sinh về nhà làm (cả câu hỏi bài tập lẫn
thực hành) Học sinh về nhà phải làm tất cả các bài tập mà giáo viên đưa ra bằng
cách dựa trên bài học hoặc đi tìm từ các nguồn thơng tin khác… Muốn làm tốt
khâu này, giáo viên phải thường xuyên đánh giá, cho điểm khuyến khích tuyên
dương những học sinh tích cực, nhắc nhở những học sinh chưa tích cực làm bài


tập có như thế mới nắm bắt được tinh thần và thái độ học tập của các em.


- Dạng bài tập so sánh: So sánh phong trào cách mạng 1930 – 1931 với Phong
trào cách mạng 1936 – 1939 về xác định kẻ thủ, mục tiêu đấu tranh, hình thức đấu
tranh, lực lượng tham gia.


- Dạng bài tập theo bài học: Lập niên biểu về thắng lợi của quân dân ta
trong chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ (Bài 29: Cả nước
trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước 1965 - 1973) theo mẫu sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Ngày 18/8/1965 ChiÕn th¾ng V¹n Têng


(Quảng Ngãi) * Kết quả :- Diệt 900 tờn ch.


- Bắn cháy 22 xe tăng, xe
bọc thép.


- Hạ 13 máy bay.


* ý nghĩa: Mở đầu cao trµo
diƯt MÜ.


... ... <sub>…</sub>


- Dạng bài tập theo chương: Kể tóm tắt những chiến cơng lớn của những
anh hùng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1946-1954) (Chương V)


<i><b>2.2. Sử dụng các câu hỏi để phát huy tính tích cực, chủ động của học</b></i>
<i><b>sinh</b></i>



Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng là
một trong những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy cho học
sinh. Trong thực tế dạy học ở trường THCS để sử dụng tốt các câu hỏi trong quá
trình dạy học người giáo viên cần lưu ý:


Thứ nhất, câu hỏi và bài tập cần vừa sức và phù hợp với từng đối tượng.
Tránh trường hợp đặt câu hỏi quá khó và vượt quá khả năng tư duy của học
sinh như đánh giá, phân tích đồng thời câu hỏi cũng không quá đơn giản như “Ai
lãnh đạo chiến thắng nào? Chiến thắng bao giờ? Giáo viên cần khắc phục tình
trạng chưa cung cấp sự kiện lịch sử đã học mà đặt câu hỏi, cách đặt câu hỏi như
thế trái với đặc trưng bộ môn, buộc học sinh phải nhìn vào sách giáo khoa để trả
lời chứ khơng hồn tự suy nghĩ tìm kiến thức.


Thứ hai, mỗi giờ học giáo viên chỉ sử dụng lượng câu hỏi vừa phải. Sau mỗi
chương cần có câu hỏi bài tập, các câu hỏi của giáo viên phải tạo thành hệ thống
hoàn chỉnh có mối quan hệ lơgic chặt chẽ làm nổi bật chủ đề, nội dung tư tưởng
của bài.


Thứ ba, giáo viên cần triệt để khai thác nội dung các câu hỏi sách giáo khoa
và các câu hỏi được sáng tạo trong q trình soạn giảng của giáo viên, những câu
hỏi đó phải đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng, đồng thời phát huy được tư duy,
rèn luyện được các kĩ năng học tập cho các em.


<i>2.2.1. Nêu câu hỏi có vấn đề để vào bài học mới</i>


Vào đầu giờ học trước khi cung cấp kiến thức mới, giáo viên có thể nêu câu
hỏi có tính chất gợi mở hay câu hỏi có vấn đề có liên quan đến bài học để định
hướng và kích thích hứng thú học tập cho học sinh.



Ví dụ: Khi dạy <i>Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành</i>
<i>lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. </i>Giáo viên có thể đưa tư liệu đó là một
đoạn vi deo Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc <i>Tun ngơn Độc lập</i> tại quảng trường Ba
Đình – Hà Nội (Sử dụng máy chiếu) và đặt câu hỏi kết nối vào bài học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Học sinh có thể nhận biết đó là sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc <i>Tun</i>
<i>ngơn Độc lập</i> tại quảng trường Ba Đình tuyên bố trước quốc dân và thế giới nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Từ đó giáo viên có thể kết nối giới thiệu bài
học.


<i>2.2.2. Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng lịch sử</i>
<i>trong bài học</i>


Câu hỏi giáo viên đưa ra phải vừa sức, phù hợp với đối tượng và nội dung
của bài. Câu hỏi cần theo mức độ từ dễ đến khó để có thể phân loại được từng đối
tượng học sinh


Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi,
những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời
bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi
soạn bài, phải có dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời như thế nào? Đáp án
ra sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật. Những
câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lịng ham hiểu
biết, trí thơng minh, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là giúp học sinh yếu, kém tích
cực hoạt động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản cho các em qua hệ thống
câu hỏi, từ đó các em có hứng thú học tập và xây dựng bài hơn.


Thông thường trong quá trình giảng dạy chúng ta thường đặt ra nhiều loại
câu hỏi, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử, chúng ta có một
số loại câu hỏi hay gặp như sau:



<i>- Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà chúng ta</i>
<i>thường hỏi về nguyên nhân, bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện</i>
<i>tượng lịch sử và thường áp dụng cho đối tượng học sinh yếu kém.</i>


Ví dụ: Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa
Nam Kì và Binh biến Đơ Lương (Bài 21: Việt Nam trong những năm 1939-1945).


Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất kì
một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất
định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư duy của
lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh.


-<i> Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện, hiện tượng</i>
<i>lịch sử như diễn biến của các cuộc khởi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng.</i>


Ví dụ 1: Trình bày q trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian
ở Pháp (Bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm
1919-1925)


Ví dụ 2: Hãy trình bày diễn biến của chiến dịch Biên giới Thu - đông 1950
(Bài 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp 1950-1953).


Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại địi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự
kiện địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu
hỏi thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa
các sự kiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>hỏi này thường dùng cho học sinh khá, giỏi khi thảo luận để bổ trợ kiến thức cho</i>


<i>các đối tượng yếu, kém.</i>


Ví dụ: Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
lại ở vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”? (Bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây
dựng chính quyền dân chủ nhân dân 1945-1946).


Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó địi hỏi các em phải
biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện tượng
lịch sử. Học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên cần kiên
trì đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của mình.


Câu hỏi gợi mở: Sau khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp phải
những khó khăn trên các lĩnh vực như thế nào?


Như vậy, đối với câu hỏi trên học sinh có thể dễ nhận diện những khó khăn
của nước ta trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…


<i>- Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa</i>
<i>lịch sử của sự kiện. Với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng học sinh yếu</i>
<i>kém để các em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các em</i>
<i>hoạt động liên tục trong quá trình học tập. </i>


Ví dụ: Trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của Cách mạng
tháng Tám năm 1945 (Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).


Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào sách giáo khoa để trả lời
bằng ngơn ngữ của mình chứ không lặp lại sách giáo khoa.


-<i> Loại câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này với sự</i>


<i>kiện, hiện tượng lịch sử khác mà các em đã học. Đây là loại câu hỏi khá khó đối</i>
<i>với học sinh. Ưu điểm của loại câu hỏi này là vừa giúp học sinh củng cố ôn tập lại</i>
<i>kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới và áp dụng khi hoạt động thảo luận</i>
<i>nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng giải quyết vấn đề. </i>


<i>(Đối với loại câu hỏi này giáo viên nên dùng kĩ thuật thảo luận nhóm)</i>


Ví dụ: Khi dạy Bài <i>29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước</i>
<i>(1965-1973)</i>. Giáo viên dùng câu hỏi: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và
“Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở Miền Nam có điểm gì giống và khác nhau?
Tóm lại các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn
chỉnh, giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân,
diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một q trình lịch sử. Những
câu hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ cho các
em biết được các sự kiện đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó khơng chỉ địi hỏi
học sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu sắc bản
chất của sự kiện lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Đồ dùng trực quan nếu sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều
giác quan, tạo điều kiện giúp học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý
quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu khơng sử dụng tốt, đúng mức và
lạm dụng thì sẽ dễ làm học sinh bị phân tán sự chú ý, khó tiếp thu nội dung bài
học. Đồ dùng trực quan có nhiều loại nhưng mỗi loại lại có cách sử dụng riêng


<i>2.4.1. Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa</i>


Hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phần đồ dùng trực quan
trong quá trình dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy
trừu tượng. Thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh học sinh được rèn luyện kĩ năng
diễn đạt, lựa chọn ngôn ngữ, từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh, giáo


viên rèn cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách
khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra
những kết luận lịch sử:


Ví dụ: Khi dạy <i>Bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài</i>
<i>(1919-1925)</i>, giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đang phát biểu ý kiến tại Đại hội Tua (tháng 12/1920). Sau khi tường thuật, giáo
viên cho học sinh cảm nhận được việc Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa
Mác – Lê nin để truyền bá vào Việt Nam từ đó có tình cảm tự hào về con người
Nguyễn Ái Quốc


Như vậy, việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể
hiện trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng vừa phát huy được năng lực tư duy,
kích thích trí tưởng tượng phong phú và tạo hứng thú học tập cho các em.


<i>2.4.2. Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa</i>


Trong quá trình dạy học việc cho học sinh quan sát chân dung của các nhân
vật lịch sử là rất quan trọng, giúp cho học sinh nhận biết chân dung thật của nhân
vật lịch sử, qua đó có cái nhìn thiết thực, tỏ lịng kính trọng, mến phục tài năng,
phẩm chất tốt đẹp của các vị anh hùng dân tộc và có thể học tập theo.


Ví dụ: Khi dạy <i>Bài 18: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời</i> khi dạy đến <i>Mục II.</i>
<i>Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930</i>, giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh
đồng chí Trần Phú, sau đó cho học sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết của mình về
nhân vật lịch sử này. Giáo viên kể cho các em nghe về tiểu sử, quá trình hoạt động
cách mạng và khí tiết của người cộng sản Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của
Đảng ta


<i>2.4.3. Sử dụng bản đồ, lược đồ trong dạy học </i>



Bản đồ, lược đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong
dạy học Lịch sử. Trên bản đồ, lược đồ các sự kiện luôn được thể hiện một không
gian, thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định. Đối với mơn Lịch sử
việc quan sát bản đồ, lược đồ là không thể thiếu được. Do đó trong giờ giảng bài
giáo viên phải sử dụng bản đồ, lược đồ (nếu nội dung bài có yêu cầu) thơng qua đó
giúp cho học sinh tái tạo lại diễn biến lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

đề này: Điện Biên Phủ có núi bao bọc, hiểm trở, là vị trí chiến lược có sự kiểm
sốt cả chiến trường Lào và Bắc Bộ.


<b> H1. LƯỢC ĐỒ CỨ ĐIỂM ĐIỆN BIÊN PHỦ H2. LƯỢC ĐỒ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ</b>


Thơng qua quan, đọc kí hiệu, nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ,
lược đồ góp phần phát triển khả năng quan sát, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ
năng đọc bản đồ, lược đồ, củng cố thêm kiến thức về Địa lí. Trong q trình sử
dụng bản đồ, lược đồ giáo viên cần phải giới thiệu cụ thể cho học sinh các kí hiệu
ghi trên đó đồng thời tập cho các em quan sát, đọc và tìm hiểu nội dung lịch sử
được thể hiện.


<i>2.4.4. Khai thác, sử dụng các đoạn phim tư liệu về các sự kiện lịch sử</i>


Phim tư liệu được xây dựng dựa trên những hình ảnh có thật hoặc những
biến cố của sự kiện, nhân vật lịch sử xảy ra tại thời điểm nhất định trong quá khứ.
Phim tư liệu là đồ dùng trực quan quan trọng và sinh động thu hút được sự chú ý,
tập trung quan sát của học sinh, kích thích hứng thú học tập của các em. Đây còn
là phương tiện thuận lợi cung cấp tư liệu, sự kiện trực quan có hệ thống, lơgic chặt
chẽ, có khả năng làm sống lại sự kiện, hiện tượng lịch sử trong quá khứ.


Các đoạn phim tư liệu chủ yếu được sử dụng để minh họa cho nội dung bài


học, giúp cho quá trình truyền thụ kiến thức đến với học sinh trở nên sinh động và
hiệu quả hơn


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

máy bay B52 cuối năm 1972 của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” để
giúp học sinh tái hiện lại sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc ta, từ đó giáo dục
các em lịng biết ơn cơng lao của thế hệ đi trước, ý thức bảo vệ, phát huy thành
quả của dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.


<i><b>2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học</b></i>


Đây là một phương pháp dạy học hiện đại giúp học sinh tiếp thu bài học
một cách hiệu quả hơn. Việc thiết kế và sử dụng giáo án Power Point đã trở nên
quen thuộc đối với giáo viên. Sử dụng máy chiếu và các phần mềm dạy học chính
là việc giúp giáo viên tổ chức và học sinh thực hiện các hoạt động học tập theo
hướng: học sinh tích cực, chủ động xây dựng kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ
xảo vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tuy nhiên trong q trình dạy học, giáo viên
khơng nên lạm dụng máy chiếu hoặc thay đổi hình thức “chép bảng” mà phải là
cơng cụ thực sự giúp học sinh tìm tịi và vận dụng kiến thức, chỉ sử dụng phương
tiện trình chiếu và phần mềm dạy học phù hợp với nội dung, hình thức và phương
pháp cụ thể của mỗi bài, mỗi tiết.


<i><b>2.5. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh</b></i>


Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự
hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt
động thực tiễn trong nhà trường hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức
của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân cách, các
năng lực và tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của
cá nhân.



Hoạt động trải nghiệm sáng tạo tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích
cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân học sinh. Nó có khả năng huy
động sự tham gia tích cực của học sinh vào tất cả các khâu của quá trình hoạt
động: từ thiết kế hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động
phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân; tạo cơ hội cho các em
được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được đánh giá và lựa chọn ý
tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự đánh giá và đánh
giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm mình và của bạn bè… Từ đó hình
thành và phát triển cho các em những giá trị sống và các năng lực cần thiết.


Ví dụ: Trước khi dạy phần Lịch sử địa phương: Bài 4 – Tiết 2: Thái Nguyên
<i>trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ (1945-1975), xây</i>
<i>dựng và bảo vệ tổ quốc (từ 1975 đến nay), giáo viên có thể đề xuất với Ban Giám</i>
hiệu nhà trường, phối hợp với tổ chức Đội trong nhà trường tổ chức cho học sinh
tham quan học tập khu di tích lịch sử ATK – Định Hóa. Đến nơi đây, học sinh sẽ
trực tiếp quan sát, tìm hiểu về những địa danh lịch sử mà Bộ Chính trị, Bác Hồ
từng họp và làm việc như đồi Khau Tý, lán Tỉn Keo, nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Đèo De – Phú Đình và những địa danh khác. Từ đó giáo dục cho các
em lịng tự hào dân tộc, tình cảm yêu quý, biết ơn lãnh tụ và ý thức giữ gìn, phát
huy giá trị văn hóa của quê hương mình và của đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT KHÓ KHĂN </b>
<b>SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM</b>


NGOẠI XÂM,


NỘI PHẢN CHÍNH TRỊQUÂN SỰ, TÀI CHÍNH VĂN HĨA


TRƯỚ
C 6/3


ĐÁNH
PHÁP,
HỊA
TƯỞN
G
SAU
6/3
HỊA
PHÁP,
ĐUỔI
TƯỞN
G
VẠCH
TRẦN
ÂM
MƯU
TRỪNG
TRỊ
THEO
PHÁP
LUẬT


TỔNG TUYỂN CỬ
BẦU QUỐC HỘI,


THÀNH LẬP
CHÍNH PHỦ HỢP


PHÁP



QUN GĨP;
TĂNG GIA SẢN


XUẤT


QUYÊN GÓP,
CỦA DÂN;
PHÁT HÀNH


TIỀN


MỞ LỚP BÌNH
DÂN


HỌC VỤ,
PHÁT TRIỂN


GIÁO DỤC
KINH TẾ


Ví dụ: <i>Khi dạy Bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền</i>
<i>dân chủ nhân dân (1945-1946),</i> giáo viên có thể sử dụng sơ đồ sau để khái quát lại
nội dung của bài học.


<i><b>2.7. Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học</b></i>


Dạy học liên môn trong môn Lịch sử là hình thức liên kết
những kiến thức giao thoa với mơn Lịch sử như Ngữ văn, Địa lí,
Tin học, Âm nhạc, Giáo dục công dân kết hợp giáo dục quốc



<b>TÌNH HÌNH NƯỚC TA SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM</b>


<b>KHĨ KHĂN</b> <b>THUẬN LỢI</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

phịng. Rèn luyện kĩ năng sống, giáo dục bảo vệ di sản văn hóa
địa phương để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng kiến
thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải
quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử.


Trong chương trình phổ thơng, giáo viên có thể sử dụng
phương pháp tích hợp trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm tăng
hứng thú học tập cho học sinh.


Ví dụ: <i>Khi dạy Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành</i>
<i>lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa,</i> giáo viên có thể tích hợp kiến thức với các
mơn học:


Mơn Địa lí: Giới thiệu về địa danh Tân Trào – Sơn Dương – Tuyên Quang
Môn Âm nhạc: Cho học nghe giai điệu bài hát <i>Tiến quân ca</i> của nhạc sĩ Văn
Cao


Môn Ngữ văn: giúp học sinh hiểu “Tuyên ngôn Độc lập” là áng văn lập
quốc vĩ đại, là văn kiện có giá trị cao về tư tưởng, lí luận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh


Mơn Giáo dục cơng dân và giáo dục quốc phòng: giáo dục học sinh lòng
biết ơn thế hệ đi trước, ý thức giữ vững chủ quyền và nền độc lập của dân tộc.


<i><b>2.8. Phương pháp đóng vai và kể chuyện về các nhân vật lịch sử</b></i>



<i>2.8.1.Đóng vai các nhân vật lịch sử: </i>


Học sinh THCS ở độ tuổi thiếu niên, các em rất hiếu động, thích thú khi
được vui chơi. Nếu giáo viên biết cách tổ chức các trị chơi thì có thể biến một số
nội dung thành “học mà chơi, chơi mà học”, làm được điều này sẽ giúp các em
yêu lịch sử hơn, hứng thú học tập hơn, có một số cách tổ chức trị chơi trong dạy
học lịch sử như sau:


Có rất nhiều câu chuyện lịch sử viết về các nhân vật lịch sử liên quan đến
các sự kiện lịch sử lớn của dân tộc, liên quan đến nội dung bài học. Để giúp giờ
học sinh động hơn, giáo viên có thể cho học sinh sưu tầm, chuẩn bị trước để khi
thực hiện đạt hiệu quả cao nhất.


Ví dụ: Khi dạy Bài 23: <i>Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành</i>
<i>lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa</i>, giáo viên có thể dành khoảng thời gian từ
5 đến 7 phút cho học sinh tham gia đóng vai nhân vật lịch sử. Cho học sinh sắm
vai Bác Hồ, các vị tướng Chính phủ Lâm thời, nhân dân, đồng bào Việt Nam diễn
tả lại khơng khí của buổi lễ Bác Hồ đọc <i>Tun ngơn Độc lập ngày 2-9-1945.</i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

- Một tốp 10-15 học sinh đứng quay mặt lên bục giảng, hướng về phía các
bạn ở trên đóng làm nhân dân vui sướng, phấn khởi trong ngày độc lập của đất
nước.


Sau khi tổ chức cho học sinh đóng vai nhân vật lịch sử xong, giáo viên đặt
câu hỏi: <i>Em có suy nghĩ như thế nào về sự kiện lịch sử này?</i> Trên cơ sở học sinh
trả lời, giáo viên khẳng định đây là sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc ta, đó là
sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới của
dân tộc – kỉ nguyên độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội…


Qua phần đóng vai trên, học sinh sẽ nhập tâm, hứng thú với bài học hơn và


ghi nhớ, khắc sâu kiến thức của bài học đồng thời rèn cho các em kĩ năng diễn
xuất, chủ động, tích cực khi tham gia hoạt động học tập.


<i>2.8.2.</i> <i>Kể chuyện về các nhân vật lịch sử: </i>


Khi các bài học có liên quan đến diễn biến của một cuộc khởi nghĩa, một
cuộc kháng chiến hay một chiến dịch, giáo viên có thể sử dụng lược đồ, xem một
đoạn phim tư liệu, quan sát tranh ảnh kết hợp kể những câu chuyện có liên quan
đến sự kiện đang trình bày. Điều này có tác dụng giúp học sinh nhớ tốt hơn diễn
biến sau đó giáo viên đặt câu hỏi để học sinh nêu lên suy nghĩ, rút ra bài học cho
bản thân hoặc giáo viên cũng có thể cho học sinh kể chuyện khi đã giao nhiệm vụ
cho các em chuẩn bị trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i> Anh hùng Tô Vĩnh Diện Anh hùng Phan Đình Giót</i>
<i> lấy thân mình chèn pháo lấy thân mình lấp lỗ châu mai</i>


Qua đó học sinh sẽ thấy được những chiến công và sự hi sinh quên mình vì
độc lập dân tộc của các anh đồng thời giúp các em tỏ lòng biết ơn thế hệ đi trước,
từ đó xác định động cơ học tập, rèn luyện góp phần xây dựng đất nước.


<b>V. Những thơng tin cần được bảo mật </b>


VI. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến


Giáo viên cần phải thường xuyên nghiên cứu, tự học, tự bồi dưỡng để nâng
cao trình độ chun mơn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học: lực chọn các
hình thức, nội dung và biện pháp tổ chức dạy học phù hợp, hiệu quả


Nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng đội tuyển học
sinh giỏi đảm bảo tính kế cận và bền vững.



Tham mưu với nhà trường tổ chức các chuyên đề, các buổi sinh hoạt
chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá.


<b>VII. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng</b>
<b>sáng kiến theo ý kiến của tác giả</b>


<i>Đối với giáo viên:</i> Qua quá trình thử nghiệm sáng kiến, giáo viên được phát
huy mọi khả năng của mình trong q trình dạy học, kiến thức bộ mơn được củng
cố và nâng cao, giáo viên rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân.


<i> Đối với học sinh:</i> Các em được mở mang kiến thức, phát triển tư duy, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo niềm say mê hứng thú học tập bộ mơn,
khơng khí học tập sơi nổi, các em u thích mơn học hơn và đạt được kết quả khá
cao trong học tập.


So sánh kết quả khảo sát đầu năm học và kết quả học kỳ I của năm học
2019 – 2020


1. Kết quả khảo sát đầu năm học 2019 – 2020


Lớp


Tổng
số
học
sinh


Chất lượng bộ môn



Giỏi % Khá % Trung


bình


% Yếu % Kém %


9B 39 3 7,7 7 18,0 24 61,5 5 12,8 0


9C 40 4 10 9 22,5 21 52,5 6 15,0 0


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Lớp


Tổng
số
học
sinh


Chất lượng bộ mơn


Giỏi % Khá % Trung


bình


% Yếu % Kém %


9B 39 6 15,4 12 30,7 20 51,3 1 2,6 0


9C 40 7 17,5 14 35,0 19 47,5 0 0


3. Kết quả học sinh giỏi 5 năm:



STT Năm học Số lượng giải


cấp Thị xã


Số lượng giải
cấp Tỉnh


1 2015 - 2016 02 01


2 2016 - 2017 01 01


3 2017 - 2018 01 01


4 2018 - 2019 01 0


5 2019 - 2020 02


<b>VIII. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp</b>
<b>dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng</b>
<b>kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử</b>


<b>IX. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng</b>
<b>sáng kiến lần đầu</b>


<b>Số</b>
<b>TT</b>
<b>Họ và</b>
<b>tên </b>
<b>Ngày</b>


<b>tháng</b>
<b>năm sinh</b>
<b>Nơi cơng</b>
<b>tác </b>
<b>Chức</b>
<b>danh</b>
<b>Trình độ</b>
<b>chun</b>
<b>mơn</b>


<b>Nội dung công</b>
<b>việc hỗ trợ</b>
1 Nguyễn
Hữu
Hân
19/12/1980 Trường
THCS Bắc
Sơn
Giáo
viên


Đại học Giảng dạy
Lịch sử 9B,C


2 Nguyễn
Thị
Thu
Trang
01/8/1987
Trường


THCS Bắc
Sơn
Giáo
viên


Đại học Hỗ trợ điều tra
khảo sát kết quả


học tập của
học sinh
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16></div>

<!--links-->

×