Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC KHOA HỌC LỚP 4 ĐẠT KẾT QUẢ CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.51 KB, 19 trang )

KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG,
SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC KHOA HỌC
LỚP 4 ĐẠT KẾT QUẢ CAO
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Ngay từ khi mới biết nhận thức, thế giới xung quanh luôn là điều mà con
người khát khao tìm hiểu. Ở tiểu học các kiến thức về tự nhiên, xã hội và con
người; sự vận động và phát triển và mối quan hệ giữa chúng được trình bày một
cách đơn giản, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh trong môn khoa học.
Việc dạy môn khoa học không chỉ nhằm tích luỹ kiến thức đơn thuần mà còn
nhằm dạy cho học sinh tập làm quen với cách tư duy chặt chẽ mang tính khoa học,
hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết để thích ứng với thực tế cuộc
sống và tiếp tục học tập sau này. Chính vì vậy, khoa học là môn học quan trọng
trong nhà trường.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập của Việt Nam và các nước trong khu vực và
trên thế giới đòi hỏi nền giáo dục nước nhà phải có những đổi mới trong mục tiêu
và nội dung dạy học. Sự đổi mới này đòi hỏi phải có những đổi mới về phương
pháp dạy học. Theo định hướng đó, phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tích tực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp đặc điểm của từng lớp học, môn
học.
+ Môn Khoa học ở các lớp 4 được xây dựng trên cơ sở tiếp những kiến thức
về tự nhiên của các môn tự nhiên và xã hội các lớp 1, 2, 3. Nội dung chương trình
được cấu trúc đồng tâm, mở rộng và nâng cao theo 3 chủ đề (ở lớp 5 còn có chủ đề
môi trường và tài nguyên thiên nhiên):
+ Con người và sức khoẻ.
+ Vật chất và năng lượng.
+ Thực vật và động vật.
- Quan điểm chỉ đạo là tư tưởng tích hợp: Tích hợp các nội dung của khoa
học tự nhiên (vật lý, hoá học, sinh học) và tích hợp các nội dung của khoa học tự
nhiên với khoa học sức khoẻ.


- Nội dung được lựa chọn thiết thực, gần gũi và có ý nghĩa với học sinh; giúp
các học sinh có thể vận dụng những kiến thức khoa học vào cuộc sống hàng ngày.
- Chú trọng hình thành và phát triển các kỹ năng trong học tập khoa học như
quan sát, dự đoán, giải thích các sự vật, hiện tượng tự nhiên đơn giản và kỹ năng
vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống.
- Tăng cường tổ chức hoạt động học tập nhằm tạo điều kiện cho học sinh
phát huy tính tích cực, tự lực tìm tòi phát hiện ra kiến thức và thực hành những
hành vi có lợi cho sức khoẻ cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Với những lý do nêu trên, việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh đang là một đòi hỏi cấp bách cần giải quyết. Vì vậy, tôi đã suy nghĩ,
nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm: “Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích
1
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học khoa học lớp 4 đạt kết quả
cao”
II.Cơ sở Nghiên cứu
1. Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết , học sinh tiểu học là lứa tuổi học tập theo hứng thú và chủ
yếu là cảm tính. Đồng thời lứa tuổi này còn mang các đặc điểm tâm lý hồn
nhiên,ngộ nghĩnh và hiếu động các em thích vui chơi, thích các trò chơi vui nhộn
"Vừa chơi, vừa học" .Mặt khác đối với học sinh tiểu học việc ghi nhớ thì rất nhanh
nhưng để nhớ một nội dung, một vấn đề nào đó thì lại rất khó cho nên các nhà khoa
học đã nhận định rằng lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi "Chóng nhớ, mau
quên". Muốn học sinh nhớ được vấn đề nào đó thì ngoài việc thường xuyên phải
củng cố, ôn tập về nội dung cần nhớ thì việc tạo cho các em cảm giác hứng thú và
say mê với nội dung cần ghi nhớ , chắc chắn rằng các em sẽ dể tiếp thu, dễ nhớ và
nhớ lâu hơn. Đồng thời lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi mang đặc điểm nhận
thức, tư duy trực quan và cụ thể. Các em không những nhận thức tốt các vấn đề
mang tính cụ thể mà còn rất có hứng thú khi khai thác, tìm hiểu các vấn đề mang
tính cụ thể, đồng thời các em cũng rất ưa thích các vấn đề trực quan mang tính bắt
mắt mà các em có thể quan sát một cách dễ dàng.

Các môn học như Khoa học, Lịch sử, Địa lý theo chương trình và sách giáo
khoa thì được tích hợp nhiều kiến thức, nhiều nội dung trong một môn học, một
bài học: Ví dụ : Môn Khoa học được tích hợp các kiến thức như : Vật lý, Sinh học,
Hoá học và một số kiến thức của môn sức khoẻ cũ củng được tích hợp vào môn
học này,môn Lịch sử, Địa lý lại được tích hợp các kiến thức của khoa học xã hội
như : Văn hoc, Địa lý, Lịch sử. Do đó các nội dung kiến thức của các môn học này
mang tính trừu tượng , yêu cầu học sinh phải ghi nhớ. Đồng thời đối với học sinh
lớp 4 là lớp bản lề của hai giai đoạn : Giai đoạn lớp 1,2,3 và giai đoạn lớp 4,5. Mặt
khác , lớp 4 cũng là lớp học bắt đầu của việc tách môn học "Tự nhiên - Xã hội"
thành các môn Khoa học, Lịch sử, Địa lý và cũng là lớp tạo nền tảng cho việc học
tập và tìm hiểu kiến thức các môn học này ở lớp 5 và các lớp trên. Vì vậy việc "Tạo
hứng thú và phát huy tính tích cực , chủ động , sáng tạo" cho học sinh khi học môn
Khoa học ở lớp 4 là hết sức cần thiết.
2.Cơ sở thực tiển
Thực tế trong các nhà trường hiện nay theo thu thập thông tin thì việc dạy học
các môn như : Khoa học, Lịch sử, Địa lý ở các lớp 4,5 là chưa thực sự có hiệu quả.
Như ở trường tôi công tác và cụ thể là lớp tôi chủ nhiệm điều đó là xác thực nhất.
Qua kiểm tra theo dõi hàng ngày và qua khảo sát chất lượng cuối học kỳ I đã phần
nào chứng minh điều đó.
Những thực tế nói trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân nhưng có một nguyên
nhân mà tôi cho là cơ bản nhất là: chúng ta bao gồm tôi và các đồng nghiệp từ
trước đến nay chưa tạo được hứng thú hay nói cách khác là chưa làm sao để cho
các em học sinh thích thú khi học các tiết Khoa hoc, Lịch sử, Địa lý. Do đó các em
2
cũng chưa phát huy được tính tích cực, chủ động , sáng tạo khi học các môn học
này, vì vậy mà kết quả thu được là chưa cao.
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của hai lớp 4A và 4B như sau:
Lớp Si số Xếp loại giỏi Xếp loại Khá Xếp loại TB Xếp loại yếu
Số HS Tỉ lệ
%

Số HS Tỉ lệ
%
Số HS Tỉ lệ
%
Số HS Tỉ lệ
%
4A 33 2 6,06 8 24,24 20 60,61 3 9,09
4B 33 2 6,06 7 21,2 20 60,61 4 12,12
Từ những cơ sở đã nêu trên việc "Tạo hứng thú học tập và phát huy tính tích
cực, chủ động , sáng tạo" của học sinh khi học các môn : Khoa học, Lịch sử, Địa
lý" là hết sức cần thiết và cấp bách. Đồng thời tôi thấy chưa có nhiều tác giả bàn về
vấn đề này nên tôi quyết định chọn đề tài này để có thể góp sức mình cho sự nghiệp
dạy học . Ở đây tôi chủ yếu đề cập đến việc rút kinh nghiệm để có thể giúp học sinh
nhận thức tốt hơn với môn học mang tính trừu tượng hơn đó là môn Khoa học ở lớp
4.
* Đánh giá thực trạng chất lượng học tập môn Khoa học của học sinh đầu năm
học:
Qua một số tiết dạy những ngày đầu năm học, tôi nhận thấy một tồn tại trong
việc học môn Khoa học của học sinh lớp 4B là tính tích cực học tập của các em còn
rất yếu, thể hiện qua một số dấu hiệu sau:
+ Học sinh ít giơ tay phát biểu ý kiến của mình về các vấn đề giáo viên nêu
ra (chỉ có 10% số học sinh cả lớp tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài trong mỗi
tiết học)
+ Nếu được hỏi, học sinh chủ yếu lệ thuộc vào SGK, ít tư duy (95%).
+ Không thắc mắc hay đòi hỏi giáo viên phải giải thích cặn kẽ những vấn đề
mà mình chưa hiểu rõ (95%).
+ Không khí của lớp rất buồn tẻ hoặc ít sôi nổi khi học sinh không thực hiện
được yêu cầu của giáo viên.
+ Học sinh không có thói quen sưu tầm tư liệu phục vụ bài học; nếu có thì số
lượng tranh rất ít, chất lượng sưu tầm chưa đúng yêu cầu bài học.

Từ thực trạng trên, tôi thấy cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong giờ học môn Khoa học.
*Tìm hiểu phương pháp dạy học tích cực để đề ra các biện pháp thực hiện.
Chúng ta đều biết rằng quá trình dạy học gồm hoạt động có quan hệ hữu cơ:
Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Cả hai hoạt động này
đều được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo dục.
Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này
chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực chủ động, tự giác với một
động cơ nhận thức đúng đắn. Luôn luôn phát huy tích cực, chủ động trong hoạt
động học tập của học sinh ở mỗi tiết học, đó chính là dạy học tích cực.
* Những dấu hiệu cơ bản của dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh là:
3
+ Coi trọng việc tổ chức các hoạt động của học sinh.
+ Tạo điều kiện để học sinh tìm tòi, tiếp nhận tri thức.
+ Tạo điều kiện để học sinh chủ động.
+ Chú ý hình thành khả năng tự học của học sinh.
III, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Trong quá trình nghiên cứu tôi kết hợp sử dụng các phương pháp sau :
1. Phương pháp điều tra : Tôi đã điều tra bằng phiếu điều tra để thăm dò tình
hình học tập các môn học : Khoa học, Lịch sử, Địa lý.
2.Tích cực học tập chuyên môn ,đổi mới phương pháp giảng dạy, Trong
giảng dạy môn Khoa học áp dụng tốt “Phương pháp bàn tay nặn bột”
3. Phương pháp trao đổi và lấy ý kiến đồng nghiệp và học sinh : Tôi đã trao
đổi và lấy ý kiến của đồng nghiệp, học sinh ở trường bạn, đồng nghiệp và học sinh
trường mình, lớp mình để thu thập thêm về tình hình học tập các môn học nói trên
của học sinh lớp 4.
4. Phương pháp thực nghiệm
-Tổ chức dạy thực nghiệm ở lớp mình chủ nhiệm để khẳng định kinh nghiệm của
mình là hợp lý và có hiệu quả.

* Ngoài các phương pháp cơ bản trên tôi còn sử dụng một số biện pháp
nghiên cúư bổ trợ như phương pháp quan sát, phương pháp đàm thoại
IV, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để "Tạo hứng thú và phát huy tính tích
cực, chủ động , sáng tao" của học sinh khi học các môn Khoa học ở lớp 4. Để giải
quyết vấn đề này có rất nhiều yếu tố nhưng tôi xin được đưa ra một biện pháp mà
bản thân cho là cơ bản quan trọng và có hiệu quả đã đúc rút được qua quá trình dạy
học của mình đó là việc "Lựa chọn và sử dung các phương pháp dạy học", " lựa
chọn và sử dụng hệ thống câu hỏi " trong quá trình dạy học môn Khoa học ở lớp 4 .
Sở dĩ tôi lựa chọn môn học nói trên là vì môn học này (Khoa học) ở lớp 1,2,3
được tích hợp trong môn "Tự nhiên và xã hội" lên lớp 4 được tách ra thành ba môn
học khác nhau . Đồng thời môn học này có rất nhiều vấn đề mang tính trừu tượng
mà trong quá trình học tập học sinh rất khó nhận thức được nếu các em không có
hứng thú và không phát huy tính tự giác học tập của các em.
A, Một số kinh nghiệm nhỏ khi dạy học môn Khoa học ở lớp 4
I. B iện pháp 1 : Rèn học sinh tự làm các thí nghiệm đơn giản.
* Với những bài “ Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột” cơ bản thực hiện
đúng quy trình 5 bước:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo
viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát
phải ngắn gọn, gần gũi, rễ hiểu với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép
câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu
hỏi nêu vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp không nhất thiết phải có
4
tình huống xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề (Tùy vào từng kiến thức
và từng trường hợp cụ thể).
- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học, cần đảm bảo phù hợp với
yêu cầu của trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm
tòi nghiên cứu của học sinh, nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước khi khám

phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được
dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu
vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu trên thì ý đồ dạy học sủa giáo viên càng dễ thực
hiện thành công.
Ví dụ về tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề (Bài cấu tạo bên trong
của hạt)
- Giáo viên đưa ra một vài hạt đậu (loại hạt lớn cho học sinh rễ quan sát) và
giáo viên đặt câu hỏi: Theo các em trong hạt đậu có gì?
Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh
Làm bộc lộ quan điểm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành
các câu hỏi hay giả thuyết của học sinh là bước quan trọng, đặc trưng của phương
pháp BTNB. Trong bước này giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ,
nhận thức ban đầu của mình về sự vật, hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi
được học kiến thức đó. Khi yêu cầu học sinh trình bày quan niệm ban đầu, giáo
viên có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của học sinh như có thể là bằng
lời nói ( thông qua phát biểu cá nhân, bằng cách viết hay vẽ) để biểu hiện suy nghĩ:
Học sinh, so sánh nhận xét sự giống và khác nhau giữa các nhóm.
GV gạch chân điểm khác nhau.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực
nghiệm
Giáo viên gọi học sinh đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án
thực nghiệm
Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, giáo
viên giúp học sinh đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào
những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học ( hay mô hình
kiến thức ).
Ở từng bước này giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu
khác biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên
quan đến nội dung bài học.
Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải chọn lựa các biểu tượng

ban đầu tiểu biểu trong hàng chục biểu tượng của học sinh một cách nhanh chóng
theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của học sinh nhằm
giúp học sinh đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Việc lựa
chọn các biểu tượng ban đầu không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh đề xuất câu hỏi của
học sinh gặp khó khăn. Giáo viên nên gợi ý, định hướng cho học sinh thấy những
điểm khác biệt giữa những ý kiến liên quan đến kiến thức chuẩn bị học. Giáo viên
tùy tình hình thực tế ý kiến phát biểu, nhận xét của học sinh để quyết định phân
nhóm biểu tượng ban đầu.
5
Sau khi chọn lọc các biểu tượng ban đầu của học sinh để ghi chép (đối với
mô tả bằng lời) hoặc gắn hình vẽ lên bảng hoặc vẽ nhanh lên bảng (đối với hình
vẽ), giáo viên cần khéo léo gợi ý cho học sinh so sánh các điểm giống (đồng thuận
giữa các ý kiến đại diện) hoặc khác nhau (không nhất trí giữa các ý kiến) các biểu
tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau cơ bản đó giáo viên giúp học sinh đề xuất
các câu hỏi. Như vậy việc làm rõ các ý kiến khác nhau giữa các ý kiến ban đầu
trước khi học kiến thức của học sinh là một mấu chốt quan trọng. Các biểu tượng
ban đầu càng khác nhau thì học sinh càng bị kích thích ham muốn tìm tòi chân lí
(kiến thức).
Đề xuất các phương án thực nghiệm nghiên cứu:
Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh đề nghị các
em đề xuất thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó.
Các câu hỏi có thể là: “ Theo các em làm thế nào để chúng ta tìm câu trả lời cho
các câu hỏi nói trên?” ;” Bây giờ các em hãy suy nghĩ để tìm phương án giải quyết
các câu hỏi mà lớp mình đặt ra!”
Tùy theo kiến thức, vấn đề đặt ra trong câu hỏi mà học sinh có thể đề xuất các
phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu. Giáo viên cần ghi chú lên bảng hoặc
nhắc lại để các ý kiến sau không trùng lặp. Các phương án thực nghiệm mà học
sinh đề xuất có thể rất phức tạp và không thể thực hiện được nhưng giáo viên cũng
không nên nhận xét tiêu cực để tránh làm học sinh ngại phát biểu. Nếu ý kiến gây
cười cho cả lớp, giáo viên cần điềm tĩnh giải thích cho cả lớp hiểu cần tôn trọng và

lắng nghe ý kiến phát biểu của người
Nếu ý kiến của học sinh nêu lên có ý đúng nhưng ngôn từ chưa chuẩn xác
hoặc diễn đạt chưa rõ thì giáo viên nên gợi ý và từng bước giúp học sinh hoàn thiện
diễn đạt. Giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh chỉnh sửa rõ ý. Đây là một vấn đề
quan trọng trong việc rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh.
Trường hợp học sinh đưa ra ngay thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu đúng
nhưng vẫn còn nhiều phương án khác khả thi thì giáo viên nên tiếp tục hỏi các học
sinh khác để làm phong phú phương án tìm câu trả lời. Giáo viên có thể nhận xét
trực tiếp yêu cầu các học sinh khác cho ý kiến về phương án mà học sinh trước đó
nêu ra thì tốt hơn. Phương pháp Bàn tay nặn bột khuyến khích học sinh tự đánh giá
ý kiến của nhau hơn là ý kiến của giáo viên nhận xét.
Sau khi học sinh đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, giáo
viên nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương pháp thí nghiệm đã chuẩn
bị sẵn. Trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi –
nghiên cứu thích hợp, giáo viên có thể gợi ý hay đề xuất cụ thể phương án nếu gợi
ý mà học sinh vẫn chưa nghĩ ra.
Lưu ý rằng phương án thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu ở đây được hiểu là
các phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều phương pháp như quan sát, thực hành
– thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu
Giáo viên chốt lại phương án thực nghiệm
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
- Các nhóm tìm tòi nghiên cứu ghi ra phiếu học tập.
6
- HS làm việc theo nhóm đôi thảo luận câu hỏi:
- Đại diện các nhóm gắn phiếu học tập lên bảng
Từ các phương án thực nghiệm tìm tòi – nghiêm cứu mà học sinh nêu ra,
giáo viên khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy
học thích hợp để học sinh tiến hành nghiên cứu. Nếu phải làm thí nghiệm thì ưu
tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến
hành thí nghiệm trên vật thật có thể làm trên mô hình, hoặc cho học sinh quan sát

tranh vẽ. Đối với phương pháp quan sát, giáo viên cho học sinh quan sát vật thật
trước, sau đó mới cho học sinh quan sát tranh vẽ khoa học hay mô hình để phóng to
những đặc điểm không thể quan sát trên vật thật.
Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm
hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó
giáo viên mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt động.
Nếu để sẵn các vật dụng thí nghiệm trên bàn học sinh sẽ nghịch các đồ vật mà
không chú ý các đồ vật khác trong lớp; hoặc học sinh tự ý thực hiện thí nghiệm
trước khi lệnh thực hiện của giáo viên được ban gia; hoặc học sinh sẽ dựa vào đó
để đoán các thí nghiệm cần phải làm (trường hợp này mặc dù học sinh có thể đề
xuất thí nghiệm đúng nhưng ý đồ dạy học của giáo viên không đạt).
Các thí nghiệm được tiến hành lần lượt tương ứng với từng mô đun kiến
thức. Mỗi thí nghiệm được thực hiện xong, giáo viên nên dừng lại để học sinh rút
ra kết luận ( Tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng). Giáo viên lưu ý
học sinh ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí nghiệm ( mô tả
bằng lời vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm
vào vở thực hành. Phần ghi chép này giáo viên để học sinh ghi chép tự do, không
nên gò bó và có khuôn mẫu quy định, nhất là đối với những lớp mới làm quen với
phương pháp BTNB. Đối với các thí nghiệm phức tạp và nếu có điều kiện, giáo
viên nên thiết kế một mẫu sẵn để học sinh điền kết quả thí nghiệm, vật liệu thí
nghiệm. Ví dụ như các thí nghiệm phải ghi số liệu theo thời gian, lặp lại thí nghiệm
ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau
Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên bao quát lớp, quan sát từng nhóm.
Nếu thấy nhóm hoặc học sinh nào làm sai theo yêu cầu thì giáo viên chỉ nhắc nhỏ
trong nhóm đó hoặc nhắc riêng học sinh đó, không nên thông báo lớn tiếng chung
cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến công việc của các
khối học sinh khác.
Giáo viên chú ý yêu cầu học sinh thực hiện độc lập các thí nghiệm trong
trường hợp các thí nghiệm được thực hiện theo từng cá nhân. Nếu thực hiện theo
nhóm để tránh việc học sinh nhìn và làm theo cách của nhau, thụ động trong suy

nghĩ và cũng tiện lợi cho các giáo viên phát hiện các nhóm hay các cá nhân xuất
sắc trong thực hiện thí nghiệm nghiên cứu, đặt biệt là các thí nghiệm được thực
hiện với các dụng cụ, vật liệu thí nghiệm giống nhau nhưng nếu bố trí thí nghiệm
không hợp lý sẽ không thu được kết quả thí nghiệm như ý.
Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức
7
Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần
được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy
nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học.
Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào
vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, giáo viên yêu cầu
một vài ý kiến của học sinh cho kết luận sau khi thực nghiệm (rút ra kiến thức của
bài học). Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh nhìn
lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (quan niệm ban đầu) trước khi học kiến
thức. Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm
tòi - nghiên cứu, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải
do giáo viên nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát hiện những sai lệch
trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi sẽ
giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
Nếu có điều kiện, giáo viên có thể in sẵn tờ rời tóm tắt kiến thức của bài học
để phát cho học sinh dán vào vở thực hành hoặc tập hợp thành một tập riêng để
tránh mất thời gian ghi chép. Đối với các lớp 4, 5 ở tiểu học và trung học cơ sở thì
giáo viên nên tập làm quan cho các em tự ghi chép, chỉ in tờ rời nếu kiến thức phức
tạp và dài.
Ở lớp 4, phần vô cơ được thể hiện qua chủ đề “Vật chất và năng lượng”. Nội
dung này được thể hiện nhiều là qua các thí nghiệm, vì vậy khi giảng dạy, giáo viên
cần đặc biệt quan tâm đến phương pháp bàn tay nặn bột để học sinh được làm thí
nghiệm, từ đó chiếm lĩnh kiến thức.
Phương pháp bàn tay năn bột chủ yếu sử dụng thí nghiệm, nghiên cứu, tìm
tòi đã có tác dụng :

+ Giúp học sinh đi sâu vào tìm hiểu bản chất các sự vật, hiện tượng, sự vật tự
nhiên.
+ Phương pháp bàn tay nặn bột có sử dụng phương pháp thí nghiệm, tìm tòi,
nghiên cứu như “nguồn” dẫn học sinh đi tìm tri thức mới, vì thế các em sẽ hiểu
sâu nhớ lâu.
+Rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng: đặt thí nghiệm , lắp ráp dụng cụ thí
nghiệm, quan sát diễn biến thí nghiệm,
* Ví dụ bài 21: Ba thể của nước.
Áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào hoạt động 1 và 2. (Tìm hiểu hiện
tượng nước từ thể lỏng chuyến sang thể khí và ngược lại; nước từ thể lỏng chuyển
sang thể rắn và ngược lại)
+ Bước 1: GV yêu cầu HS lấy ví dụ về nước ở thể lỏng.
- HS trả lời: nước mưa, nước suối, nước sông, nước ao
- GV: Vậy ngoài thể lỏng, nước còn tồn tại ở những thể nào?
+ Bước 2: GV yêu cầu HS đưa ra những dự đoán của mình về các thể còn lại của
nước.
- HS làm việc theo nhóm 4, nêu những dự đoán của cá nhân, nhóm
trưởng tổng hợp kết quả vào bảng phụ.
- Các nhóm treo dự đoán của nhóm mình lên bảng.
8
- Lần lượt từng nhóm trình bày kết quả của nhóm mình
-Các dự đoán đó là:
1. Nước còn tồn tại ở thể hơi.
2. Nước còn tồn tại ở thể rắn.
3. Nước có thể bay hơi thành hơi nước.
4. Hơi nước đọng lại thành nước ở thể lỏng.
5. Hơi nước có thể đông lại thành thể rắn.
6. Nước ở thể rắn nóng chảy hành nước ở thể lỏng.
- GV cho HS nhận xét phần giống nhau của các nhóm. GV gạch chân
phần khác nhau.

+ Bước 3: GV yêu cầu HS đưa ra những câu hỏi thắc mắc từ những dự đoán của
nhóm mình.
- HS đưa ra câu hỏi thắc mắc.
- GV ghi bảng những thắc mắc:
1. Khi nò thì nuowcs ở thể lỏng chuyển thành thể rắn và ngược lại.
2. Khi nào thì nước ở thể lỏng chuyển thành thể khí và ngược lại.
3. Nước ở ba thể lỏng, rắn, khí có những điểm nào giống và khác nhau.
- GV: Để trả lời cho những thắc mắc này, các em hãy suy nghĩ để tìm
ra phương án giải quyết.
- HS: Ta phải làm thí nghiệm và quan sát tranh.
- Để làm thí nghiệm ta cần có những gì? Quan sát những gì?
- GV chốt lại phương án thực nghiệm là quan sát và thực hành.
+ Bước 4: Các nhóm làm thí nghiệm, quan sát viết kết quả thí nghiệm và kết quả
quan sát vào bảng phụ.
Thí nghiệm / Quan sát hình Kết quả
1. Cho nước nóng vào cốc.
2. Úp đĩa lên cốc.
3.Quan sát hình 4.
4. Quan sát hình 5
- Hơi nước bay lên
- Hơi nước đọng lại thành những giọt
nước
- Nước trong khay đông đặc thành
nước đá.
- Nước đá tan ra thành nước ở thể lỏng.
Các nhóm treo kết quả của nhóm mình .
+ Bước 5: GV: Qua phần làm thí nghiệm và kết luận của các bạn khi cho
nước nóng vào trong cốc thì nước có bay hơi thành hơi nước không? => có.
Úp đĩa vào cốc nước nóng, hơi nước có đọng lại thành giọt nước ở thể lỏng
không? => có.

Quan sát hình 4 thì khay nước ở thể lỏng sau khi cho vào ngăn làm đá nước
ở thể lỏng đã chuyển sang thể nào? => thể rắn.
Khi để khay nước đá ở ngoài tủ lạnh, hiện tượng gì xảy ra? => nước đá tan ra
thành nước ở thể lỏng.
GV: Qua phần làm thí nghiệm em rút ra kết luận gì?
9
HS kết luận: Nước có thể tồn tại ở thể lỏng, thể hơi hoặc thể rắn. Nước ở thể
lỏng bay hơi thành nước ở thể khí, nước ở thể hơi ngưng tụ thành nước ở thể lỏng.
Nước ở thể lỏng đông đặc thành nước ở rắn và nước ở thể rắn nóng chảy thành
nước ở thể lỏng.
GV nhận xét và giới thiệu thêm: Giống như nước ở thể lỏng thì nước ở thể
khí cũng không có hình dạng nhất định. Nước ở thể rắn có hình dạng nhất định.
Thể hơi của nước còn gọi là thể khí.
Học sinh đối chiếu kết quả với dự đoán ban đầu.
GV chốt lại, HS nhắc lại.
GV ghi bảng kết luận: Nước có thể tồn tại ở thể lỏng, thể khí (hơi) và thể rắn.
Nước ở thể lỏng và thể khí hông có hình dạng nhất định. Nước ở thể rắn (nước đá)
có hình dạng nhất định.
2 HS đọc kết luận trên bảng.
* Để dạy học theo phương pháp thí nghiệm thông thường cần tuân theo các
bước sau:
- Xác định mục đích của thí nghiệm:
+ Các thí nghiệm trong chương trình khoa học 4 có thể phân thành 3 loại
chính:
• Loại nghiên cứu mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả.
• Loại nghiên cứu điều kiện (cái này là điều kiện của cái kia hoặc
hiện tượng kia).
• Loại nghiên cứu tính chất của một vật.
- Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm:
+ Liệt kê những dụng cụ thí nghiệm cần có và những điều kiện để tiến hành

thí nghiệm.
+ Vạch kế hoạch cụ thể (làm gì trước, làm gì sau).
• Thực hiện thao tác gì ? Trên vật nào ?
• Quan sát dấu hiệu gì ? Ở đâu ? bằng giác quan nào hoặc phương
tiện nào ?
- Bố trí, lắp ráp và làm thí nghiệm theo các bước đã vạch ra.
Khi làm thí nghiệm, giáo viên cần nắm vững và thực hiện các yêu cầu sau:
+ Học sinh phải chọn ra được một số yếu tố riêng có thể khống chế được để
nghiên cứu hoặc phải tác động lên hiện tượng, sự vật cần nghiên cứu.
+ Học sinh cần phải theo dõi, quan sát các hiện tượng xảy ra trong thí
nghiệm.
+ Học sinh cần biết thiết lập các mối quan hệ (nguyên nhân - kết quả) giải
thích các kết quả thí nghiệm để rút ra kết luận.
+ Các điều kiện và quá trình được kiểm soát là thiết yếu đối với một số thí
nghiệm.
+ Chú ý đảm bảo an toàn cho học sinh khi làm thí nghiệm.
10
- Phân tích kết quả và kết luận: Phần này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
chú ý đến các dấu hiệu bản chất. dạy học sinh cách so sánh, suy luận khái quát để
rút ra kết luận.
* Ví dụ bài 52: Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt.
Hoạt động 2: Chứng minh không khí là vật cách nhiệt.
1. Chuẩn bị:
+ Hai chiếc cốc như nhau.
+ Hai tờ giấy báo.
+ Nước nóng.
+ Nhiệt kế.
2. Cách tiến hành:
Giáo viên cho học sinh đọc cách tiến hành trong SGK để học sinh nắm được
cách làm thí nghiệm như sau:

+ Lấy một tờ giấy báo quấn thật chặt vào cốc thứ nhất.
+ Lấy tờ báo còn lại làm nhăn và quấn lỏng vào cốc thứ hai để có nhiều chỗ
chứa không khí giữa các lớp giấy.
+ Đổ vào hai cốc nước một lượng nước nóng như nhau.
+ Sau một thời gian đo nhiệt độ nước trong hai cốc.
- Nhận xét: Nước trong cốc nào nóng hơn
Giáo viên chỉ làm mẫu cách quấn giấy vào cốc sau đó yêu cầu học sinh tiến
hành thí nghiệm theo nhóm 4.
3. Quan sát thí nghiệm
Học sinh đo và ghi lại nhiệt độ của từng cốc sau mỗi lần đo.
Lần 1: Nước trong cốc được quấn giấy báo nhăn và không buộc chặt có nhiệt
độ cao hơn nước trong cốc được quấn giấy báo thường chặt
Lần 2: Đo cách lần một 5 phút, nước trong cốc được quấn giấy báo nhăn và
chặt vẫn có nhiệt độ cao hơn nước trong cốc được quấn giấy báo thường chặt.
4. Giải thích hiện tượng
Học sinh dựa vào tính chất của không khí để giải thích hiện tượng nước
trong cốc quấn giấy báo nhăn quấn lỏng còn nóng hơn nước trong cốc quấn giấy
báo thường và quấn chặt như sau:
Nước trong cốc quấn giấy báo nhăn quấn lỏng còn nóng hơn vì giữa các lớp
báo quấn lỏng có chứa rất nhiều không khí nên nhiệt độ của nước truyền qua cốc,
lớp giấy báo và truyền ra ngoài môi trường ít hơn, chậm hơn nên nó còn nóng lâu
hơn.
Sau đó học sinh tự rút ra kết luận không khí là vật cách nhiệt.
* Ưu điểm của biên pháp 1 là:
- Học sinh có kỹ năng thao tác thành thạo trong việc thực hiện thí nghiệm
dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Học sinh được trực quan (mắt thấy, tai nghe hoặc cảm nhận qua các giác
quan) hiện tượng kết quả thí nghiệm, chứ không bị áp đặt, chấp nhận kết quả thí
nghiệm một cách gián tiếp thông qua sách giáo khoa.
II, Biện pháp 2: Tăng cường việc học tập theo nhóm.

11
Dạy học theo nhóm là hình thức giảng dạy học sinh vào môi trường học tập
tích cực, trong đó học sinh được tổ chức thành các nhóm một cách thích hợp. Trong
nhóm, học sinh được khuyến khích thảo luận và hướng dẫn làm việc hợp tác với
nhau.
Hoạt động nhóm là một hoạt động học tập tích cực. Cụ thể là:
+ Đem lại cho học sinh cơ hội được sử dụng các kiến thức và kỹ năng mà các
em được lĩnh hội và rèn luyện.
+ Cho phép học sinh diễn đạt những ý tưởng, những khám phá của mình.
+ Mở rộng suy nghĩ và thực hành các kỹ năng tư duy (so sánh, phân tích,
tổng hợp, đánh giá ).
Hoạt động nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kỹ năng làm việc, kỹ
năng giao tiếp, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách
nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm,
các em có thể cùng làm với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm
được trong một thời gian nhất định.
+ Hình thức dạy học theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các mối
quan hệ qua lại trong học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ, tin tưởng
lẫn nhau trong học tập.
+ Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm giúp các em học sinh nhút nhát,
khả năng diễn đạt kém có điều kiện rèn luyện, tập dươc, từ đó tự khẳng định mình
trong sự hấp dẫn của hoạt động nhóm.
+ Khi dạy học nhóm, giáo viên sẽ có dịp tận dụng các kinh nghiệm và sự
sáng tạo của học sinh trong học tập.
* Muốn hoạt động nhóm đạt kết quả tốt cần đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Mỗi thành viên trong nhóm đều biết và hiểu công việc của nhóm, của bản
thân.
+ Mỗi thành viên đều tích cực suy nghĩ và tham gia vào các hoạt động của
nhóm (như phát biểu ý kiến, tranh luận ).
+ Mọi thành viên đều lắng nghe ý kiến của nhau, thoải mái khi phân tích và

nói ra những điều mình suy nghĩ.
+ Toàn nhóm làm việc hợp tác và đồng lòng với quyết định của cả nhóm.
+ Mọi người biết rõ việc cần làm, giúp đỡ lẫn nhau, đều lo lắng tới công việc
chung.
+ Vai trò của nhóm trưởng, thư ký, báo cáo viên được thực hiện luân
phiên.
Chính vì thế giáo viên cần có sự chuẩn bị kỹ càng từ việc tự làm thử thí
nghiệm trước khi lên lớp đến cách tổ chức, giao việc để tránh gây lộn xộn hoặc học
sinh không nắm bắt được yêu cầu kiến thức của tiết học. Muốn vậy, giáo viên cần
chú ý:
+ Mệnh lệnh đưa ra rõ ràng, ngắn gọn (chia nhóm nhỏ, lớn).
+ Giao việc cụ thể cho từng nhóm.
+ Phân công nhiệm vụ cho các em.
Trong nhóm thường có các thành phần:
12
+ Trưởng nhóm: Quản lý chỉ đạo, điều khiển nhóm hoạt động.
+ Thư ký nhóm: Ghi chép lại các kết quả công việc của nhóm sau khi đạt
được sự đồng tình của nhóm.
+ Báo cáo viên: Trình bày trước lớp kết quả công việc của nhóm.
+ Các thành viên khác trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào các
hoạt động của nhóm.
Mỗi nhóm chỉ nên có khoảng từ 2 đến 6 em.
* Ví dụ bài 20: Nước có những tính chất gì ?
Hoạt động 1: Quan sát vật thật
Mục tiêu:
Phát hiện mầu, mùi, vị của nước.
Cách tiến hành:
Bước 1: Tổ chức, hướng dẫn
+ Giáo viên yêu cầu các nhóm đem cốc đựng nước và cốc đựng sữa đã chuẩn
bị ra quan sát và làm theo yêu cầu như đã ghi ở trang 42 sách giáo khoa.

+ Giáo viên chỉ yêu cầu học sinh trao đổi trong nhóm ý 1 và 2 theo yêu cầu
quan sát ở trang 42 SGK.
Bước 2: Làm việc theo nhóm
+ Nhóm trưởng điều khiển các bạn quan sát và lần lượt trả lời câu hỏi;
Cốc nào đựng nước, cốc nào đựng sữa ? (học sinh dễ dàng nhận ra cốc đựng
nước và cốc đựng sữa trên vật thật).
Làm thế nào để bạn biết điều đó ? (đối với câu hỏi này, giáo viên cần đi tới
các nhóm giúp đỡ để học sinh sử dụng các giác quan của mình phát hiện ra cốc nào
đựng nước và cốc nào đựng sữa. cụ thể là:
Nhìn vào 2 cốc: Cốc nước thì trong suốt và có thể nhìn thấy rõ cái thìa để
trong cốc; cốc sữa có mầu trắng đục nên không nhìn rõ cái thìa để trong cốc.
Nếm lần lượt từng cốc: Cốc nước không có vị, cốc sữa có vị ngọt.
Ngửi lần lượt từng cốc: Cốc nước không có mùi, cốc sữa có mùi sữa.
Bước 3: Làm việc cả lớp
+ Giáo viên gọi đại diện cả nhóm lên trình bày những gì học sinh đã phát
hiện ra ở bước 2.
Giáo viên ghi các ý kiến của học sinh lên bảng như sau:
Các giác quan cần sử
dụng để quan sát
Cốc nước Cốc sữa
1. Mắt – nhìn Không có mầu, trong
suốt, nhìn rõ chiếc thìa
Trắng đục, không nhìn rõ
chiếc thìa
2. Lưỡi - nếm Không có vị Có vị ngọt của sữa
3. Mũi - ngửi Không có mùi Có mùi của sữa
+ Giáo viên gọi một số học sinh nói về một số tính chất của nước được phát
hiện trong hoạt động này.
Kết luận: Qua quan sát ta có thể nhận thấy nước trong suốt, không mầu,
không mùi, không vị

* Việc học tập theo nhóm đã đem lại một số kết quả học tập như sau:
13
+ Học sinh tham gia tích cực hơn, tự tin hơn vào bản thân.
+ Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trước tập thể.
Ngoài việc lên kế hoạch và giao việc cho các nhóm, để tổ chức một tiết học
có hiệu quả, giáo viên cần chú ý một số điểm sau:
+ Sắp xếp bàn ghế thuận tiện cho việc học nhóm.
+ Luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ trong gìờ học.
+ Chuẩn bị tốt nội dung thảo luận cho từng nhóm.
III. Biện pháp 3: Sử dụng hiệu quả phương pháp quan sát
- Đối với phương pháp quan sát : Đây là một phương pháp có nhiều ưu điểm
với lứa tuổi học sinh. Sử dụng phương pháp này trong dạy học khoa học sẽ tạo
được không khí học tập trong lớp học rất thoải mái nhưng các em học sinh lại rất
tập trung vào hoạt động tìm hiểu các vấn đề của bài học có trong sự vật được quan
sát.
- Bên cạnh đó sử dụng phương pháp này cần lưu ý một điều về đồ dùng sử
dụng để quan sát theo tôi là tuỳ thuộc vào từng nội dung bài học và nội dung cần
tìm hiểu, khám phá nhưng nếu có thể thì đồ dùng để quan sát tốt nhất là sử dụng vật
thật vì vật thật có tác dụng kích thích trí tò mò của học sinh tiểu học. Nếu không có
điều kiện sử dụng vật thật thì có thể sử dụng tranh, ảnh minh hoạ nhưng tranh, ảnh
phải đảm bảo tính khoa học và phai mang tính thẩm mỹ.
- Để có hiệu quả tốt chúng ta cần sử dụng phối kết hợp phương pháp quan sát
với các phương pháp dạy học khác như : Phương pháp thảo luận nhóm ,Phương
phảp trò chơi học tập, Phương pháp thí nghiệm cùng với hệ thống câu hỏi theo
hướng trắc nghiệm khách quan .
* Ví dụ : khi dạy bài : Bảo vệ bầu không khí trong sạch
Trước hết chúng ta treo các bức tranh ở sách giáo khoa (SGK) vẽ phóng to.
Bước 1 : Hướng dẫn học sinh quan sát và nêu câu hỏi gợi ý tìm hiểu nội dung
các bức tranh .
Câu hỏi : Bức tranh vẽ gì ?

Bước 2 : Thảo luận nhóm
Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ. Phát cho học sinh mỗi nhóm một tập
thẻ có ghi nội dung việc làm ở từng bức tranh vừa được quan sát .
Các nhóm thảo luận để chọn ra những việc nên làm hay không nên làm và giải
thích cho từng lựa chọn của nhóm mình . Giáo viên đi đến từng nhóm để gợi ý cách
giải thích : Tại sao nên làm và không nên làm ?
Bước 3 : Trình bày kết quả làm việc của nhóm mình
Các nhóm cử đại diện nhóm trình bày kết quả và giải thích lựa chọn của nhóm
mình . Nhóm khác nhận xét , bổ sung . Giáo viên chốt kiến thức
Từ việc lựa chọn và giải thích lựa chọn của học sinh ở trên . Giáo viên nêu gợi
ý để học sinh nêu các việc làm để bảo vệ bầu không khí trong sạch .
Học sinh trả lời , Học sinh khác nhận xét và nhắc lại nội dung các việc làm để
bảo vệ bầu không khí trong sạch ở sách giáo khoa.
IV, Biện pháp 4: Tổ chức “Trò chơi học tập”
14
Chơi là một nhu cầu mang tính sinh học của các em. Có thể nói vui chơi cần
thiết và vô cùng quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống của các em.
Tổ chức trò chơi học tập giúp thay đổi hình thức hoạt động trên lớp, làm
không khí lớp học thoải mái, dễ chịu, học sinh tiếp thu kiến thức thoải mái, tích cực
hơn
* Khi tổ chức trò chơi người giáo viên cần phải nắm và thực hiện được các
nguyên tắc sau:
+ Trò chơi phải thể hiện mục đích rõ ràng về kiến thức của bài học, đảm bảo
ôn tập, củng cố, rèn kĩ năng hoặc ứng dụng một đơn vị kiến thức cụ thể.
+ Trò chơi phải đơn giản, dễ làm sao cho bản thân giáo viên và học sinh đều
có thể tự làm được.
+ Hệ thống trò chơi trong các giờ học phải thu hút được nhiều đối tượng học
sinh tham gia.Tránh chỉ thiết kế trò chơi cho học sinh khá giỏi.
+ Có luật chơi.
+ Đảm bảo an toàn cho học sinh khi chơi.

+ Nên tổ chức vào phần củng cố bài học, khi thời gian của tiết học còn
khoảng 5 đến 6 phút.
* Cách tổ chức trò chơi:
+ Giới thiệu và nêu cách chơi: Có thể tiến hành nhiều cách khác nhau nhưng
yêu cầu giáo viên nói ngắn gọn rõ ràng, dễ hiểu, sao cho tất cả học sinh nắm được
cách chơi.
+ Cho học sinh chơi thử (nếu cần).
+ Tiến hành chơi (giáo viên điều khiển trò chơi phải nắm vững tiến trình và
theo dõi chặt chẽ).
+ Đánh giá kết quả chơi: Sau mỗi lần chơi giáo viên nhận xét, đánh giá
đúng thực chất của cuộc chơi. Nêu ưu, nhược điểm của từng cá nhân, tập thể. Xếp
giải nhất, giải nhì công bằng rõ ràng để kích thích những lần chơi tiếp theo.
Kết thúc: Giáo viên hỏi xem học sinh đã học được những gì qua trò chơi
hoặc giáo viên tổng hợp lại những gì cần học được qua trò chơi này. Lưu ý: Đối với
những trò chơi đơn giản, không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các bước trên.
* Ví dụ dạy bài 41 : Âm thanh
Trò chơi : Đoán tên âm thanh
Mục đích: Giúp học sinh khắc sâu kiến thức về những âm thanh trong cuộc
sống phát ra từ đâu và luyện tập các cách khác nhau để làm cho vật phát ra âm
thanh.
Chuẩn bị: Các dụng cụ phát ra âm thanh như: trống, kèn, sỏi theo nhóm.
Cách tiến hành:
+ Giáo viên phổ biến luật chơi:
Chia lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm có thể dùng bất cứ vật gì để tạo ra âm
thanh. Nhóm kia sẽ đoán xem, âm thanh đó do vật nào gây ra và đổi ngược lại. Mỗi
lần đoán đúng tên vật được cộng thêm 5 điểm, đoán sai bị trừ đi 1 điểm.
+ Tổng kết điểm.
+ Tuyên dương nhóm thắng cuộc.
15
*Ví dụ dạy bài 64: Trao đổi chất ở động vật

Trò chơi: Đố bạn con gì ?
Mục đích: Giúp học sinh luyện tập kể tên một số loài động vật và thức ăn của
chúng. Củng cố cách phân loài động vật theo nhóm thức ăn của chúng.
Chuẩn bị: Tranh ảnh động vật đủ các nhóm thức ăn của nó.
Cách tiến hành:
- Giáo viên phổ biến luật chơi:
+ Giáo viên dán vào lưng học sinh một con vật mà không cho học sinh đó
biết, sau đó yêu cầu học sinh quay lưng lại cho các bạn xem con vật của mình.
+ Học sinh chơi có nhiệm vụ đoán xem con vật mình đang mang là con
gì.
+ Học sinh chơi được hỏi các bạn dưới lớp 5 câu về đặc điểm của con
vật.
+ Học sinh dưới lớp chỉ trả lời đúng hoặc sai.
+ Tìm được tên con vật sẽ nhận được một món quà.
- Cho học sinh chơi thử.
Ví dụ: Học sinh đeo con vật là con hổ, hỏi:
+ Con vật này có 4 chân phải không ? - Đúng.
+ Con vật này có sừng phải không ? - Sai.
+ Con vật này ăn thịt các loại động vật khác có phải không ? - Đúng.
+ Đấy là con hổ - Đúng. (cả lớp vỗ tay khen bạn).
- Cho học sinh chơi theo nhóm.
- Cho học sinh xung phong chơi trước lớp.
- Nhận xét, khen ngợi các em đã nhớ những đặc điểm của con vật, thức ăn
của chúng.
V, Biện pháp 5: Khuyến khích học sinh sưu tầm tư liệu phục vụ bài học.
Sách giáo khoa hiện nay đóng vai trò quan trọng trong phần cung cấp kiến
thức cho học sinh. Tuy nhiên, ở một số bài học của phần khoa học, tư liệu sưu tầm
lại đóng vai trò quan trọng và cần thiết trong việc giúp học sinh chủ động, phát
hiện, chiếm lĩnh kiến thức bài học, chứ không phải tiếp nhận kiến thức một cách
thụ động, chấp nhận. Cách làm này rất phù hợp với quá trình nhận thức của học

sinh, gây hứng thú học tập đồng thời bước đầu hình thành phương pháp nghiên cứu
khoa học, chuẩn bị cho các em tiếp tục học lên các lớp trên.
* Ví dụ bài 54: Nhiệt cần cho sự sống.
Học sinh sưu tầm ảnh về các loài động vật. học sinh làm việc theo nhóm với
yêu cầu sau:
- Phân loại tranh ảnh động vật sưu tầm theo sự phân bố của chúng trên trái
đất như sau:
+ Động vật sống ở sứ lạnh, băng tuyết quanh năm.
+ Động vật sống ở vùng ôn đới.
+ Động vật sống ở vùng nhiệt đới.
+ Động vật sống ở vùng sa mạc.
16
- Nhận xét các vùng khí hậu (có nhiều động vật sinh sống hoặc ít động vật
sinh sống).
Trên cơ sở tranh ảnh sưu tầm, học sinh tự rút ra kết luận về vai trò của nhiệt
đối với đời sống động vật.
Để việc sưu tầm tư liệu mang lại hiệu quả cao, tôi áp dụng một số các làm
như sau:
+ Hướng dẫn học sinh phân loại tranh theo yêu cầu của bài học.
+ Sử dụng tư liệu sưu tầm của học sinh các khoá trước.
+ Đánh giá, động viên việc sưu tầm tư liệu của học sinh.
+ Giáo viên thường xuyên bổ sung tư liệu, kiến thức ngoài sách giáo khoa
trong các tiết học.
VI, Biện pháp 6: Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại (màn hình, máy
chiếu, băng hình )
Trang thiết bị dạy học (đặc biệt là những thiết bị dạy học là những phương
tiện tốt nhất để học sinh đón nhận kiến thức mới một cách nhanh chóng. Mục đích
của việc sử dụng trang thiết bị dạy học không chỉ để minh hoạ cho nội dung bai học
mà còn là phương tiện để tổ chức các hoạt động học tập dưới nhiều hình thức. Nhờ
đó, học sinh có điều kiện để tìm tòi, khám phá ra kiến thức mới.

* Ví dụ bài 39: Không khí bị ô nhiễm
Phần 2: Nguyên nhân gây nhiễm bẩn bầu không khí.
Học sinh xem một đoạn băng hình “Hà Nội khổ vì bụi và khói”. Trước khi
xem băng hình, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát băng TLCH sau:
+ Nhận xét bầu không khí ở Hà Nội.
+ Nêu nguyên nhân gây nhiễm bẩn bầu không khí.
+ Liên hệ bầu không khí ở địa phương (xung quanh trường học, nơi em ở )
Trong quá trình xem băng, giáo viên có thể dừng băng ở một số hình ảnh và
yêu cầu học sinh cho ý kiến của mình về bầu không khí thông các hình ảnh đó.
Như vậy, cách sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại, giáo viên đã đưa học
sinh vào các tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh tích cực tư duy để giải quyết
vấn đề đặt ra, cung cấp những thông tin cập nhật và từ đó có ý thức trách nhiệm
bảo vệ bầu không khí.
* Ưu điểm của biện pháp 5 là:
+ Học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động.
+ Phát triển tư duy tích cực và có khả năng vận dụng tri thức vào tình huống
mới.
+ Hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của học sinh.
B. Kết quả đạt được:
Với việc áp dụng thường xuyên các biện pháp trên, việc học môn khoa học
của học sinh lớp 4B đã đạt được một số tiến bộ, tiết học đạt hiệu quả hơn thể hiện
qua một số điểm sau:
+ Học sinh hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến trong các tiết học (tỷ lệ này là
80% so với 10% đầu năm học).
17
+ Nếu được hỏi, học sinh đã biết vận dụng các kiến thức cũ, kết hợp với
những hiểu biết thực tế để trả lời, chứ không hoàn toàn lệ thuộc vào sách giáo khoa.
+ Học sinh hào hứng, tự tin, mạnh dạn trong các tiết học.
+ Đối với các bài cần sưu tầm tư liệu, học sinh đã biết sưu tầm tư liệu đúng
yêu cầu bài học.

Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm của hai lớp 4A và 4B như sau:
Lớp 4A thì dạy học theo phương pháp truyền thống; Lớp 4B tôi phụ trách tôi đã
vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột, phát huy tốt tích tích cực chủ động sáng tạo
của học sinh nên chất lượng khác hẳn với lớp 4A.
Lớp Sĩ số
HS
Xếp loại giỏi Xếp loại Khá Xếp loại TB Xếp loại yếu
Số HS Tỉ lệ
%
Số HS Tỉ lệ
%
Số HS Tỉ lệ
%
Số HS Tỉ lệ
%
4A 33 7 21,2 9 27,27 17 51,52
4B 33 18 54,55 9 27,27 6 18,2
Qua kết quả nêu trên chứng tỏ ràng việc thường xuyên đổi mới phương pháp
dạy học rất quan trọng, nhất là vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột, phát huy tốt
tích tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục trong giai đoạn mới.
V, PHẦN KẾT LUẬN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ Ý KIẾN ĐỀ
XUẤT
1.Kết luận:
Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trên con đường tiến vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bằng cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải có
sự đổ mới về nội dung và phương pháp trong dạy học nói chung và trong bộ môn
khoa học nói riêng.
Từ kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu, tôi rút ra một số kết
luận sau:

Nắm bắt kịp thời, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các văn bản hướng dẫn, chỉ
đạo.
Tạo ra các tình huống có vấn đề trong quá trình dạy học để phát huy tích cực
cho học sinh.
Để thường xuyên thực hiện tiết học có hiệu quả, nên đơn giản hoá việc tổ chức học
tập, triệt để sử dụng tư liệu, đồ dùng sẵn có.
2. Bài học kinh nghiệm:
Qua việc nghiên cứu một số một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh trong giờ học khoa học lớp 4 đạt kết quả” tôi rút ra một
số kinh nghiệm sau:
1. Giáo viên nắm chắc mục tiêu bài học.
18
2. Giáo viên soạn bài chu đáo, áp dụng tốt phương pháp bàn tay nặn bột vào
giảng dạy.
3. Phối hợp hài hòa các phương pháp, song cơ bản giáo viên là người tổ chức,
hướng dẫn để học sinh áp dụng tốt phương pháp thí nghiệm, học sinh tự tìm tòi, tự
nghiên cứu để rồi chiếm lĩnh kiến thức.
4. Giáo viên (GV) cần có sự chuẩn bị chu đáo về đồ dùng học tập để phục vụ
trò chơi, đồ dùng cần đảm bảo tính khoa học, thẩm mĩ, phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ em; giáo viên (GV) cần có sự chuẩn bị về không gian, thời gian, thời
điểm diễn ra trò chơi, không lạm dụng trò chơi biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc
tổ chức quá nhiều trò chơi trong tiết học ; giáo viên (GV) cần chuẩn bị về hình thức
tổ chức, có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời
gian dài cho việc huấn luyện. Giáo viên (GV) cần xác định về số lượng học sinh
(HS) tham gia sao cho đủ cả các đối tượng đều được hoạt động.
5.Tạo không khí học tập, thoải mái, tự nhiên.
6. Tổ chức hình thức thảo luận nhóm phải thực sự, tránh hình thức, phải giành
thời gian nhất định cho hoạt động này.
3.Ý kiến đề xuất:
Để các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số kiến

nghị sau:
+ Tăng cường các chuyên đề thực tập môn khoa học.
+ Bổ sung các thiết bị, đồ dùng dạy học hiện đại (máy chiếu đa năng
projector ). - Tổ chức hội thảo những sáng kiến kinh nghiệm hay có hiệu quả
cho giáo viên (GV) học hỏi rút kinh nghiệm.

19

×