Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài tập nhóm môn Luật tố tụng dân sự Việt nam (9 điểm) Đề bài: “Đương sự và việc xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.99 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Khác với việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khơng có tranh chấp
nhưng có u cầu Tịa án cơng nhận một sự kiện pháp lý, vụ án dân sự theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự là những việc phát sinh tại Tòa án do các đương
sự khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích
cơng cộng, lợi ích nhà nước hay quyền, lợi ích hợp pháp của người khác đang bị
tranh chấp. Theo đó, vai trị của đương sự trong vụ án dân sự là vơ cùng quan
trọng với mục đích để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc để hỗ trợ
cho hoạt động tố tụng được diễn ra thuận lợi và việc giải quyết vụ án được diễn ra
đúng đắn. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của đương sự trong vụ án dân sự
như trên, nhóm em lựa chọn tìm hiểu, phân tích và trình bày đề tài số 09: “Đương
sự và việc xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự”.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về đương sự trong vụ án dân sự
1. Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự
Đương sự là một trong những chủ thể không thể thiếu trong q trình giải
quyết vụ án dân sự. Theo khía cạnh pháp lý, hiện nay có một số quan niệm khác
nhau về đương sự. Có quan niệm cho rằng đương sự là “người đưa ra hoặc chống
lại người đưa ra việc kiện” 1, hay quan niệm khác lại định nghĩa “đương sự là
người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một khiếu nại hoặc một vụ án” 2,
… Có thể thấy hầu hết các nhà luật học đều có một nhận định chung về đương sự
là những người tham gia vào quá trình giải quyết vụ án dân sự vì có quyền, nghĩa
vụ được giải quyết trong vụ án dân sự, theo đó, căn cứ vào khoản 1, Điều 68 Bộ
luật tố tụng Dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015), khái niệm đương sự trong vụ án
dân sự chính thức được quy định như sau: “Đương sự trong vụ án dân sự là cá
nhân, cơ quan tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan”.
2. Năng lực chủ thể của đương sự trong tố tụng dân sự
1 Bryan A. Garner, Black’s Law Dictionary, 2014 (Dịch).
2 Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Từ điển luật học, 2005, NXB. Từ điển Bách khoa – NXB. Tư pháp.


1


2.1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1, Điều 69 BLTTDS 2015: “Năng lực pháp
luật tố tụng dân sự là khả năng có quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp
luật quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng như
nhau trong việc u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.” Như
vậy, năng lực pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) của đương sự là cá nhân, cơ quan,
tổ chức là khả năng được pháp luật TTDS quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức
đó có các quyền và nghĩa vụ TTDS, theo đó, khả năng có quyền và nghĩa vụ
TTDS của đương sự lại có tính độc lập tương đối so với khả năng có quyền và
nghĩa vụ của năng lực pháp luật dân sự.
Tuy nhiên cần lưu ý, đối với cơ quan, tổ chức thì năng lực pháp luật TTDS
của cơ quan, tổ chức xuất hiện khi cơ quan, tổ chức đó được thành lập và mất đi
khi cơ quan, tổ chức đó khơng cịn tồn tại. Đối với tổ chức nước ngồi thì năng lực
pháp luật TTDS được xác định theo pháp luật của nước cơ quan, tổ chức đó được
thành lập, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác. Đối với tổ chức
quốc tế thì năng lực pháp luật TTDS được xác định trên cơ sở Điều ước Quốc tế là
căn cứ để thành lập tổ chức đó, quy chế hoạt động của tổ chức Quốc tế hoặc điều
ước Quốc tế đã được ký kết với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
2.2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự
Căn cứ theo quy định tại Khoản 2, Điều 69 BLTTDS 2015: “Năng lực hành
vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.” Như vậy, khác với
năng lực pháp luật TTDS, năng lực hành vi TTDS của đương sự là khả năng bằng
hành vi của chính mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS, theo đó, từng chủ
thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức lại được xác định năng lực hành vi TTDS khác
nhau, cụ thể:
2.2.1. Năng lực hành vi TTDS của đương sự là cá nhân

Năng lực hành vi của đương sự là cá nhân được quy định chi tiết tại Điều 69
BLTTDS 2015, theo đó đương sự là cá nhân là người từ đủ mười tám tuổi trở lên
thì có đầy đủ năng lực hành vi TTDS. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi
2


dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi
TTDS của họ được xác định theo quyết định của Tòa án. 3
Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ TTDS, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những
người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện 4, cũng giống
như đối với đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi
dân sự, tuy nhiên pháp luật quy định hai loại đương sự này khơng có năng lực
hành vi TTDS.
Đương sự là người từ đủ mười lăm tuối đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham
gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của
mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao
động hoặc quan hệ dân sự đó 5. Quy định này xuất phát từ quy định trong Bộ luật
lao động và Bộ luật dân sự hiện hành.
2.2.2. Năng lực hành vi TTDS của đương sự là cơ quan
Đương sự là cơ quan bao gồm các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân
dân. Cơ quan tham gia TTDS thông qua người đại diện hợp pháp. Thông thường,
một cơ quan gồm nhiều bộ phận thực hiện các chức năng riêng, do đó nếu những
bộ phận này khơng có quyền độc lập về tài sản, hoặc khơng có quyền tham gia các
quan hệ dân sự với tư cách độc lập, thì bộ phận đó khơng thể tham gia tố tụng với
tư cách đương sự. Ví dụ: Báo Pháp luật Việt Nam của Bộ Tư pháp là một đơn vị
trực thuộc Bộ Tư pháp, nhưng đơn vị này có thẩm quyền ký hợp đồng lao động
với phóng viên, có quyền độc lập tham gia các giao dịch dân sự trên cơ sở tài
chính độc lập, và họ có tồn quyền tham gia tố tụng với tư cách là đương sự.
2.2.3. Năng lực hành vi TTDS của đương sự là tổ chức

Đương sự là tổ chức bao gồm tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Tổ chức
tham gia tố tụng dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo

3 Khoản 3, Điều 69, BLTTDS 2015.
4 Khoản 5, Điều 69, BLTTDS 2015.
5 Khoản 6, Điều 69, BLTTDS 2015.

3


ủy quyền. Tổ chức là pháp nhân hoặc không phải là pháp nhân và có thể tham gia
TTDS với tư cách là đương sự.
Trường hợp tổ chức có nhiều bộ phận thì chỉ những bộ phận độc lập về tài
chính mới có tư cách đương sự. Ví dụ: Tổng cơng ty có văn phịng, có phịng kế
tốn tài vụ, … hoặc văn phịng, phịng kế tốn tài vụ, … của các công ty thành
viên không thể tham gia tố tụng với tư cách đương sự, nhưng các công ty thành
viên, nếu đủ điều kiện là pháp nhân thì được tham gia TTDS với tư cách đương sự.
II. Xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự
1. Căn cứ xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự
Trong một vụ án dân sự, việc xác định tư cách của đương sự là việc làm cần
được tiến hành trước tiên, đòi hỏi sự cụ thể, rõ ràng và chính xác, nhằm giúp cho
việc giải quyết vụ án được dễ dàng, thuận lợi và đúng đắn. Để xác định được tư
cách của đương sự, cần dựa vào các căn cứ khác nhau và áp dụng các căn cứ đó
với từng vụ án cụ thể một cách phù hợp và linh hoạt, cụ thể bao gồm:
Thứ nhất, xác định tư cách của đương sự trên cơ sở xác định chủ thể có
quyền khởi kiện, bị khởi kiện hoặc có quyền yêu cầu, liên quan đến giải quyết yêu
cầu. Đây là căn cứ đầu tiên và dễ áp dụng nhất để có thể xác định một cách đúng
đắn tư cách pháp lý của các đương sự khi bắt đầu tham gia vào một vụ án dân sự.
Một đương sự tham gia tố tụng với tư cách pháp lý nào đều phụ thuộc vào các sự

kiện cụ thể, bao gồm việc họ khởi kiện hay bị kiện, có đề nghị hay được đề nghị
Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng với mục đích giải quyết các yêu cầu của họ.
Thứ hai, xác định tư cách của đương sự căn cứ vào sự liên quan về quyền,
nghĩa vụ và vào thời điểm tham gia tố tụng của đương sự đó. Khi tham gia tố tụng,
mỗi đương sự đều có quyền và nghĩa vụ của mình, quyền và nghĩa vụ này được
pháp luật tố tụng dân sự quy định một cách cụ thể. Tuy nhiên, ngoài những quy
định chung về quyền và nghĩa vụ của một đương sự thì với mỗi tư cách pháp lý
khác nhau, các đương sự còn có thêm những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Căn cứ
vào những quyền và nghĩa vụ đó, có thể xác định được cụ thể đương sự tham gia
tố tụng với tư cách pháp lý nào.

4


Thứ ba, các căn cứ khác. Ngoài hai căn cứ trên, để xác định một cách chính
xác tư cách tố tụng của đương sự thì cịn có thể dựa vào nhiều căn cứ khác như
thời điểm tham gia tố tụng để phân biệt đương sự là nguyên đơn hay người có
quyền, nghĩa vụ liên quan; tính độc lập của đương sự để xác định đâu là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập...
2. Xác định tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án dân sự
2.1. Tư cách tố tụng của nguyên đơn
Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 68 BLTTDS 2015: “Nguyên đơn
trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do
Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.”
Như vậy, nguyên đơn trong vụ án dân sự xác định trong ba trường hợp: Là
người mà tự mình khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình; là người được người khác khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mình; là người khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích chung, lợi
ích cộng đồng. Ba trường hợp trên đã xác định quyền khởi kiện là một trong
những căn cứ để xác định đương sự có là nguyên đơn hay không, tuy nhiên, không
phải mọi trường hợp nguyên đơn đều là người khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, việc xác định tư cách pháp lý của
nguyên đơn trong vụ án dân sự còn phụ thuộc vào các điều kiện khác, cụ thể như
sau:
- Nguyên đơn phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện năng lực chủ thể TTDS,
trường hợp chủ thể từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi, hoặc mất năng lực
chủ thể TTDS, việc tham gia quan hệ TTDS phải do người đại diện hợp pháp của
họ thực hiện.
- Nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện theo đúng nội dung luật định.

5


- Điều kiện về thời điểm khởi kiện trong trường hợp cả hai bên chủ thể của
một quan hệ pháp luật nội dung trong tranh chấp cùng khởi kiện để u cầu Tịa án
giải quyết, theo đó, Tịa án thụ lý đơn khởi kiện của bên nào trước thì bên đó được
xác định là ngun đơn.
Ngồi ra, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có thể trở
thành nguyên đơn trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện
hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai trong xét xử sơ thẩm mà vẫn vắng mặt
khơng có lý do chính đáng, khơng đề nghị xét xử vắng mặt, và trong vụ án đó có
bị đơn yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập,
và phải đáp ứng một trong các điều kiện sau:
- Bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố, theo đó, Tịa án
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, bị đơn trở thành nguyên đơn, nguyên đơn
trở thành bị đơn (theo điểm b Khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015);

- Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu độc lập, theo đó, Tịa án ra quyết
định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản
tố của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn (theo
điểm c Khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015).
Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn được quy định tại Điều 71 BLTTDS
2015.
2.2. Tư cách tố tụng của bị đơn
Căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 68 BLTTDS: “Bị đơn trong vụ án
dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”.
Từ quy định trên có thể xác định tư cách một chủ thể là bị đơn trong vụ án
dân sự phải căn cứ vào những điều kiện sau:
- Chủ thể bị nguyên đơn khởi kiện theo quy định của BLTTDS thông qua
đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện phải thỏa mãn những nội dung được pháp luật tố
tụng dân sự quy định. Bên cạnh đó, chủ thể phải có năng lực hành vi và năng lực
6


pháp luật tố tụng dân sự. Nếu không thỏa mãn điều kiện về chủ thế trên thì người
đại diện hợp pháp của bị đơn là người thay mặt họ để thực hiện những quyền và
nghĩa vụ tố tụng.
- Trong trường hợp cả hai bên chủ thể của một quan hệ pháp luật nội dung
trong tranh chấp cùng khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết quan hệ nội dung
tranh chấp đó, thì căn cứ vào thời điểm khởi kiện, bên mà Tòa án thụ lý đơn khởi
kiện sau bên kia được xác định là bị đơn.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thì nguyên đơn, hoặc
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có thể trở thành bị đơn trong những
trường hợp quy định tại điểm b, điểm c Khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015 như đã

nêu trên.
Quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định cụ thể tại Điều 72 BLTTDS
2015.
2.3. Tư cách tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Căn cứ theo quy định tại Khoản 4 Điều 68: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng
việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ
được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận
đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.”
Việc tham gia tố tụng của những người này hoặc do họ chủ động, hoặc theo
yêu cầu của đương sự khác hay theo yêu cầu của tòa án. Việc họ tham gia tố tụng
trong vụ án dân sự là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự.
Việc xác định tư cách của một chủ thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có thể dựa vào những căn cứ sau:
- Về thời điểm tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
tham gia vào vụ án dân sự khi đã phát sinh tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn.
- Kết quả giải quyết tranh chấp giữa ngun đơn và bị đơn của Tịa án có
thể ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

7


- Họ có thể bảo vệ lợi ích của mình bằng cách đưa ra yêu cầu độc lập hoặc
không đưa ra yêu cầu độc lập, đứng về phía nguyên đơn hoặc đứng về phía bị đơn
để chống lại đương sự phía bên kia. Chính từ căn cứ này, người có quyền và nghĩa
vụ liên quan cũng được chia làm hai loại: người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng độc lập (với nguyên đơn và bị đơn); và người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập.
Quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quy

định tại Điều 73 BLTTDS 2015.
3. Ý nghĩa của việc xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự
Việc xác định đúng tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án dân sự có ý
nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án. Trước hết, bởi mỗi loại
đương sự có tư cách tố tụng riêng và tương ứng theo đó là các quyền, nghĩa vụ mà
BLTTDS 2015 đã quy định cụ thể cho họ, nên việc xác định đúng tư cách tố tụng
của đương sự sẽ góp phần đảm bảo việc thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của
mỗi đương sự. Trường hợp xác định sai tư cách tố tụng của đương sự hoặc đưa
thiếu đương sự liên quan vào tham gia tố tụng trong vụ án dân sự sẽ làm ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của họ, làm họ không có điều kiện thực
hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời làm sai lệch bản chất của vụ
án và đây được coi là một vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
III. Những điểm mới về đương sự trong vụ án dân sự quy định tại Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi,
bổ sung năm 2011):
1. Về quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự
So với các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong BLTTDS 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015 đã bổ sung một số quyền và
nghĩa vụ như sau:
- Tơn trọng Tịa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tịa; nghĩa vụ phải
có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tịa án trong
q trình Tịa án giải quyết vụ việc;

8


- Nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí tố tụng
khác theo quy định của pháp luật;
- Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ nơi cư trú, trụ sở của mình; trong q
trình Tịa án giải quyết vụ việc nếu có thay đổi địa chỉ nơi cư trú, trụ sở thì phải

thơng báo kịp thời cho đương sự khác và Tòa án;
- Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự
mình khơng thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình
tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng
cứ đó; đề nghị Tịa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định
việc định giá tài sản;
- Nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản
sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ chứng cứ giữ bí mật theo quy định
BLTTDS 2015; trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi
kiện, tài liệu, chứng cứ thì họ có quyền u cầu Tịa án hỗ trợ;
- Quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác
xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ giữ bí mật theo quy định
BLTTDS năm 2015;
- Quyền đề nghị Tịa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc;
- Quyền tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và
pháp luật áp dụng;
Việc bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự như trên đã
góp phần tháo gỡ những vướng mắc của BLTTDS 2004 khi chưa quy định đầy đủ
về nghĩa vụ của đương sự gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
xử lý những tình huống cụ thể làm cho vụ án bị kéo dài. Đồng thời, sự bổ sung
này cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc tranh tụng trong quá trình tranh
tụng, cụ thể thể hiện qua quyền thu thập chứng cứ, quyền được biết những chứng
cứ do các đương sự khác giao nộp hoặc do Tịa án thu thập...
Ngồi ra, nhằm đảm bảo quyền lợi của đương sự được bảo vệ một cách tốt
nhất, BLTTDS 2015 cũng đã mở rộng đối tượng tham gia làm người bảo vệ quyền
9


và lợi ích hợp pháp của đương sự có thêm người đại diện của tổ chức đại diện tập

thể lao động trong vụ việc lao động; BLTTDS 2015 còn thay đổi thủ tục được
công nhận là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự từ cấp giấy
chứng nhận thành đăng ký, giúp cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thực hiện quyền của mình dễ dàng hơn, nhưng vẫn đảm bảo tính hợp
pháp, chặt chẽ với điều kiện phải tuân thủ các quy định về việc xuất trình các giấy
tờ phù hợp với từng loại người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
2. Về quyền và nghĩa vụ cụ thể của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan
Nhằm bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, BLTTDS 2015 đã bổ sung một số quy định đối với từng đối tượng chủ
thể này như sau:
- Quyền của nguyên đơn được bổ sung thêm quyền “chấp nhận hoặc bác bỏ
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập”.
- Quyền của bị đơn được bổ sung thêm các quyền sau: quyền chấp nhận hoặc
bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập; quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa
vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của
nguyên đơn; quyền đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đối với
u cầu độc lập thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn; trường hợp yêu cầu
phản tố hoặc u cầu độc lập khơng được Tịa án chấp nhận để giải quyết trong
cùng vụ án thì bị đơn có quyền khởi kiện vụ án khác.
- Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được bổ sung
thêm quyền, nghĩa vụ như nguyên đơn trong trường hơp người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải
quyết vụ án. Trường hợp yêu cầu độc lập khơng được Tịa án chấp nhận để giải

10



quyết trong cùng vụ án thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi
kiện vụ án khác.
KẾT LUẬN
Sau q trình tìm hiểu, phân tích, nhóm em nhận thấy việc xác định tư cách
của đương sự trong vụ án dân sự muốn chính xác phải được căn cứ vào các điều
kiện khác nhau mà pháp luật quy định, và phải dựa trên các quyền, nghĩa vụ của
đương sự trong vụ án dân sự cũng như đặc trưng cụ thể của từng loại đương sự.
Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã sửa đổi, bổ sung và khắc phục nhiều vướng
mắc về đương sự trong vụ án dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan,
những người tiến hành tố tụng thực hiện giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, chặt
chẽ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam,
NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2017;
2. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011);
3. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
4. Bộ luật Dân sự năm 2015;
5. Bộ luật Lao động năm 2012;
6. Khoá luận tốt nghiệp, Lê Thị Phượng - Người hướng dẫn: ThS. Trần
Phương Thảo, Đương sự trong tố tụng dân sự, Hà Nội tháng 4/2010;
7. ThS. Nguyễn Việt Cường – Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao , Đương
sự trong vụ án dân sự;
8. Bryan A. Garner, Black’s Law Dictionary, 2014, tr.230;
9. Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Từ điển luật học, NXB. Từ điển
Bách khoa – NXB. Tư pháp, 2005;
10. ICC Law firm, 09/01/2017, Đương sự trong vụ án dân sự và xác định tư
cách tố tụng của đương sự < />
11




×