Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Bài soạn D:nguyễn tuân -nghề văn ,nghề chữ.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.59 KB, 29 trang )

Nguyễn Tuân: Nghề văn - nghề chữ
30-12-2010
NGUYỄN THỊ HỒNG HÀ
Trong một bài giảng bồi dưỡng người viết trẻ, Nguyễn Tuân đã bộc bạch
quan niệm về nghề: “Nghề văn là nghề của chữ (1)… Nó là cái nghề dùng chữ
nghĩa mà “sinh sự” [...] [1/tr.715,716]. Theo ông, đánh giá một nhà văn, đúng về
mặt chuyên môn nghề nghiệp mà bàn, thì giá trị của người đó “là những công đức
lập ngôn”, là ở chỗ ông ta “đã mở mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng nói được
tới mức nào, và đã góp phần sáng tạo của mình vào ngôn ngữ Việt Nam như thế
nào” [1/tr.239].
Đọc Nguyễn Tuân, thấy rõ ở ông một ý thức
trách nhiệm
hoàn toàn tự giác và một
tình yêu
sâu đậm hết sức nhạy cảm với những gì liên quan đến ngôn ngữ, đặc biệt là đến tiếng mẹ đẻ.
Nguyễn Tuân không phải là nhà ngôn ngữ học, không phải là người lập thuyết. Ông là nhà thực
hành tài hoa và sáng tạo với một ý thức rất cao về vai trò, trách nhiệm của nhà văn với ngôn ngữ
mẹ đẻ, đúng như ông tự nhận trong mục chuyên môn của bản khai lí lịch ở Hội nhà văn:
Chuyên
viên tiếng Việt
. Trong bài viết này, người viết cố gắng ghi nhận một số thủ pháp tạo từ, dựng câu
của Nguyễn Tuân.
1. TỪ NGỮ
1.1.
Chữ đặt đúng chỗ, mở rộng hiệu năng:
Có những
chữ
(2) rất bình thường, quen
thuộc; nhưng nhà văn đặt nó vào trong một quan hệ mới, lập tức tạo ra một ý vị bất ngờ, và hình
như đã giải phóng những tiềm năng bấy lâu vẫn ngủ im trong con chữ.
Có cảm tưởng như Nguyễn Tuân đã đi vào tận ruột từ, tận đáy nghĩa; tạo điều kiện thích


hợp cho từ ngữ tung hoành, trở thành một chữ đắc địa, bung ra những vẻ đẹp từ trước chưa
thấy, tỏa ra một năng lượng tinh khôi. Như chữ “được” trong cái đầu đề
Được ốm
; như chữ
“sống”, chữ “chết”, chữ “quạnh hiu” trong câu văn sau: “Từ lúc chưa
được
ốm nằm, cứ phải ốm
đứng, chị Nguyễn từng đã hiểu biết đến nhiều thứ
quạnh hiu
đang
sống
trong cái lòng
chết
của
mình.” [II/tr.509].
Những chữ bình thường nhờ đặt đúng chỗ, có một quan hệ bất thường, mà tỏa phát ra hào
quang mới lạ, không hiếm trên những trang tùy bút Nguyễn Tuân: “Chỉ có tôi đang
nói chuyện
với
một mớ tóc mây. Chỉ có hai ngón tay Chị Hoài đang
nói chuyện
với những sợi chỉ tơ thâm một mớ
tóc xõa. […] Thế rồi trong giữa
cái hiu quạnh tay đôi
ấy khe khẽ nổi lên cái giọng kể chuyện Nhị
Độ Mai” [II/tr.657].
1.2. Có những chữ do Nguyễn Tuân
tự đặt ra bằng cách kết ghép hay thêm bớt một
cách mới mẻ, bất ngờ
, để diễn tả một nội hàm hoặc phong phú hơn, hoặc sắc bén, gây ấn

tượng mạnh hơn. “Tuổi
măng trứng
”, “cái phẩm chất
thơ ngộ
”, “cái buổi
thơ nhiên
”… là những sự
kết ghép như thế. Chữ
sông mỏi
tả con sông Hương của một thời xa cũ: “Sáu nhịp cầu Tràng Tiền
rạng dần lên như ba cặp lông mày trắng thần lãng mạn nào đang soi vào mặt
sông mỏi

[IV/tr.777].
Nó đã lột tả tài tình đến thế, không chỉ dòng sông đọa lạc, mà cả cái không khí rời rã ám
ảnh trong lòng cũng như ngoài đời cái xã hội thuộc địa cuối mùa hồi đó. Hình dung cái học vị tú
tài của Tú Xương, Nguyễn Tuân viết: nó “
me mé ghe ghé
bể hoạn mà lại chưa đủ tiêu chuẩn bằng
cấp để vào quan chế.” [4/tr.261]. Chữ
“me mé ghe ghé”
đã diễn tả được cả vị trí éo le mấp mé
trên bậc thang xã hội, lẫn tâm trạng bực thân giận đời của ông Tú. Nó là sáng tạo độc đáo của
Nguyễn Tuân - độc đáo cả từ vị lẫn ngữ âm.
Cùng một thủ pháp kết ghép mới lạ như trên, bằng nhiều dạng khác nhau, nhưng đều thể
hiện được cái “nhỡn quan riêng” độc đáo của tác giả: “Tôi
cắm
một điếu thuốc […]
vào mồm
thằng giặc […] Tôi bật diêm

châm vào mặt
nó” [IV/tr.696]; “Tôi rước tôi bước ra đường”
[II/tr.311].
1.3. Nguyễn Tuân còn cách gây ấn tượng mới lạ, mạnh mẽ cho chữ bằng cách
chuyển
hoá từ loại
(danh từ hóa, động từ hóa tính từ, hay ngược lại…). Thái độ miệt thị đến mức ghê
tởm những kẻ sùng bái, nô lệ đồng tiền của nhà văn đã đọng lại trong một tính từ tôn lên thành
danh từ: “
Cái thối inh
của xã hội tiền” [V/tr.607]. Cảm giác bao quát về một cái chợ nhếch nhác
bẩn thỉu ở ngoại ô cũng được nhà văn tả bằng hai tính từ gộp lại được danh từ hóa như vậy: một
cô đồ tể “đội mẹt thịt… góp với
cái nhầy nhờn
của buổi chợ sớm tại cửa ô.” [I/tr.233].
Cũng một sự chuyển hóa tương tự, nhưng bạo tay hơn, Nguyễn Tuân bỏ luôn cả chữ “cái”,
để ấn tượng thêm đột xuất, trong một kết hợp từ mà ngoài Nguyễn Tuân có lẽ chưa ai trong văn
xuôi dám “tây” đến vậy: “Cuộc sống đầy những
bất thình lình nguy nga
chưa có phụ người ta bao
giờ, nếu người ta biết tận tụy xê dịch và tìm lẽ sống của mình trong cái thú làm người giang hồ.”
[I/tr.821].
Ở một chỗ khác, Nguyễn Tuân động từ hóa một tính từ để lột tả một không khí quạnh quẽ,
một quang cảnh hết cả sinh khí: “Nhà hát đã
lạnh
tiếng cười, tiếng đàn,
lạnh
cả đến một cái tàn
đèn dầu lạc.” [5/tr.401]; hoặc để thể hiện không chỉ màu sắc tĩnh tại mà cả triển vọng đang diễn
biến theo chiều hướng tươi đẹp của một con sông, một vùng đất, một tâm trạng: “Hỡi những bạn

đò người Thái […] từ nay Sông Đà càng ngày càng
xanh ve
mãi lên một niềm hoài vọng!”
[IV/tr.464].
1.4. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, ngôn ngữ được xếp đặt, kết hợp hết sức linh hoạt, táo
bạo, đôi khi dụng ý chệch chuẩn để lạ hóa ngôn từ, nhằm đạt những hiệu quả chữ nghĩa mới mẻ.
Một trong những thủ pháp ngôn từ đó, là nhà văn đã tạo nên những kết hợp mới vẫn dựa trên
nghĩa gốc của từ, nhưng trong quan hệ ngang với từ khác cùng câu, đã nảy sinh một sắc thái ý
nghĩa mới cho một đối tượng, một trường hợp, một lĩnh vực nào đó. Với thủ pháp
chuyển hóa
từ nghĩa
ấy, nhà văn đã làm nổi bật lên cái nhìn hết sức độc đáo đối với gia đình của một lãng
tử, bằng một chữ “quàn” mà trước Nguyễn Tuân chắc hẳn không ai dám dùng như thế. “Tôi vẫn
nhớ đến cái tiểu gia đình tôi
quàn
tạm ở một cái tỉnh nhỏ miền trong nọ.” [II/tr.656]. Nguyễn
Tuân có hàng loạt những từ được dùng đắc địa trong ngữ cảnh đã chuyển hóa nghĩa như thế:
- “Có những đêm mưa to gió lớn làm
nhòe
những tiếng trống phủ cầm canh” [I/tr.513].
- “Gian nào cũng
tô hô
ra mặt phố” [III/tr.240].
- “Cái giọng hát […]
rót cong
được câu văn chầu vào tai người gần mình” [II/tr.242].
1.5. Nguyễn Tuân đặc biệt ưa dùng lối
điệp dồn cộng hưởng
. Thủ pháp này làm ý nghĩa,
cảm xúc dồn dập tăng cấp; vừa khắc sâu tô đậm, vừa mở rộng trường cảm nhận cho người đọc.

Có khi nhà văn đưa hàng loạt từ để diễn tả nhiều khía cạnh sắc thái bổ sung cho nhau của
cùng một tính chất, một hoàn cảnh:
- “Một thứ hạnh phúc
chói thắm chín lành
.” [IV/tr.215].
- “Những tiếng cười
khê, nặc, dâm, ngấy
.” [I/tr.257].
- “Sức sáng
gắt gỏng, lọc lõi

dữ dội
của Hồng Kông.” [I/tr.248].
Có khi ông tách một từ thành hai mảnh, kèm theo tiếng điệp nhấn vào, làm cho ngữ điệu
thành da diết hơn, khiến từ vị thêm hẳn sức nặng:
- “Có một nhà văn đi rất
dữ
và viết cũng rất
tợn
” [V/tr.970].
- “Lắm hôm đang nuốt dở miếng cơm là cứ sặc
khốn
sặc
khổ
lên...”.
Có khi ông để liền nhau tới ba bốn cụm từ vừa gần nghĩa nhau, vừa có số âm tiết như
nhau, để sức cộng hưởng càng tăng thêm cường độ - cả bằng từ vựng, cả bằng âm điệu:
- “Và giời Mèo, ánh sáng
trong vô cùng, sáng vô ngần, lọc vô tận
.” [V/tr.21].

- “Quanh chị Dậu, quanh cái thẻ sưu thuế người, cả một hệ thống thiên la địa võng
bóc lột
sự sống, ăn hiếp sự sống, bức tử sự sống
.” [V/tr.733].
Có khi điệp cộng hưởng cùng một chữ, để ấn tượng thật đậm nét, tập trung:
- “
Thầu
cứt,
thầu
cơm,
thầu
rượu,
thầu
tất, cái gì có người gọi một cái là xin
thầu
ngay.”
[1/tr.591].
1.6. Không ít trường hợp, nhà văn dùng hình thức xâu chuỗi (thường được hình thức hóa
bằng những gạch nối) nhiều khái niệm liên quan hữu cơ với nhau thành một
chữ gộp
, để thể hiện
một khái niệm đặc thù nào đó:
- “Cái kiểu
thơ - mìn - nổ - chậm
của B.Bretch” [V/tr.634].
- “Bà
Tương - Phố - giọt - lê - thu
” [II/tr.259].
- “Chị Dậu hai lần bị cưỡng dâm ở mấy cái
tư - thất - công - đường - nhà - thổ

” [V/tr.741].
1.7. Nguyễn Tuân đã trực tiếp phát ngôn nhiều lời chữ mang
khẩu khí dân dã
tự nhiên
thoải mái - ở những chỗ cần đến cái giọng ấy, nó giúp hóa giải cho cả tác giả lẫn độc giả: “A men!
Giời ôi là giời
! Sống làm sao được đây! [...] Nổi lên một mồi lửa cho nó
cháy vèo mẹ nó đi
cái thứ
làng An nam ngột ngạt đó.” [V/tr.733]. Hoặc giọng cởi mở thân tình: “Chỗ nào cũng

tới. Lắm
lúc ăn mặc thực sang, lắm lúc như
con mẹ ngộ
.” [I/tr.725]. Lại có khi thật nhẹ nhõm, sống động:
“Giã như cái chú gần đây thì còn gì là chả là giò nữa. Đâu lại có cái kiểu nện chày chủng chẳng
tiếng đực tiếng cái tiếng mẹ tiếng con
như thế.” (3)
1.8. Nguyễn Tuân còn tài hoa trong việc gây không khí, dựng bối cảnh, “phục chế” lại sắc
thái phong vị một thời, một lĩnh vực đặc thù, bằng những
từ cổ, từ nghề
đương thời.
Một tờ
“phiến trát”
ở kia, hay mấy chữ
“chén quan hà”
ở đây; những động từ xưa cũ trong
những câu: “Quan
giấc
đã dậy” [I/tr.725] hay “Em

ăn mày
được ít chữ của thầy” [II/tr.750]; “Cụ
Kép
đãi
đứa cháu ngây thơ một nụ cười rất độ lượng.” [I/tr.198] hay “mời đi về quê
phúc
lại cho
một ngôi mộ.” [I/tr.198] khác nào những mảnh gốm di chỉ, dựng lại cho ta không chỉ lời ăn tiếng
nói, mà cả lề thói sinh hoạt, lễ giáo giao tiếp của một thời quá vãng. Lối đo đếm ước lượng thời
gian trong câu thoại “
Chừng vàng mặt giời
thì võng Cậu Lãnh tôi sẽ có người cáng tới đây."
[III/tr.88] in dấu tư duy của một xã hội nông nghiệp thô sơ.
Đọc
Chùa Đàn
, ta biết đến tên của những động tác đánh đàn như “
vê, lẩy, chụp, vuốt,
nhấn
; những tiếng
thoảng
, tiếng
xòe
”. Đọc
Chiếc va li mới
, ta làm quen với tiếng dân nghề sông
nước:
“sóng gối róc”
, rồi
“sóng vã tai”
, buồm

chạy cánh tiên
hay
chạy cánh xếp
... Rồi
“lồng củi”
,
“giạc lửa”
(luồng đi của sức nóng hơi lửa),
“bầu”
(lòng lò nung);
“tắm đôi hoa tai”
(trong nghề kim
hoàn); những từ quân sự:
mai phục, vu hồi, thanh viện, trùng vi…
1.9. Nguyễn Tuân hay dùng
giải ngữ
để thuyết minh cho rõ những khía cạnh, tình huống,
đặc trưng của đối tượng mình nói đến. Vế giải ngữ có khi dài hơn cả vế chính (“chính” theo quan
hệ cú pháp), thậm chí tràn sang hẳn cả một câu khác.
Dấu ấn của Nguyễn Tuân ở giải ngữ, so với giải ngữ của hầu hết người viết khác - thường
chỉ đóng vai trò phụ, như một chú thích kèm thêm - là ở chỗ nó thường có sức nặng đáng kể, nếu
không là nặng nhất, trong ý nghĩa của câu văn. Chính ở những giải ngữ này, Nguyễn Tuân thường
bộc lộ những

cách nhìn riêng, những suy ngẫm đặc sắc của mình.
Khi Đại chiến II bắt đầu bén lửa vào Đông Dương, và Hà Nội đã “phòng thủ thụ động” với
Những ngọn đèn xanh
, Nguyễn Tuân thực sự băn khoăn, tự hỏi một cách nghiêm chỉnh: “Người ta
-
thứ nhất khi người ta là tâm hồn Việt Nam của năm 1939

- chẳng nhẽ chỉ biết có văn chương?
và làm văn thôi?” [II/tr.433].
Và ở một tùy bút khác: “Tôi tương tư con sông Hương -
một con sông không có sóng,
nhưng hay chuyên chở những ngọn sóng của lòng người lỡ chơi trên mặt nước nó
.” [I/tr.250], rõ
ràng ở đây, thông báo quan trọng và ý vị đậm đà nhất của câu văn không phải ở cụm chủ vị đi
trước, mà ở vế giải ngữ đi sau.
Vào chặng đường sáng tác sau này, khi nói đến kẻ thù, với cảm thức dân tộc nhạy sắc và
tầm văn hóa uyên bác, Nguyễn Tuân còn sử dụng giải ngữ như một ngón đòn lợi hại, bằng một
dạng giải ngữ hiếm có, tràn bờ ranh cú pháp thông thường, sang hẳn một câu khác: trước mặt
mỗi thằng (4), trên nền nhà hỏi cung, lòi ra đôi dép trắng Thái Lan -
Thái Lan, cái nơi đã cho
không lực Hoa Kỳ mượn đất dựng sáu chục căn cứ để bay sang đánh Việt Nam. Thái Lan, cái xứ
xa bị Mỹ ăn hiếp, mà các nhà báo Pháp vẫn gọi mỉa là “cái bang thứ năm mươi mốt của Hoa Kỳ”
hoặc là chiếc hàng không mẫu hạm trên cạn của hạm đội VII.”
[IV/tr.663].
Với bản lĩnh dày công tích lũy khổ luyện, Nguyễn Tuân đã nâng bậc, đổi ngôi cho giải ngữ
từ địa vị một thành phần phụ thuộc trong cú pháp quy phạm, lên thành một nét trữ tình man
mác, một vế chính luận sắc bén trong câu văn.
1.10. Nguyễn Tuân còn đặc biệt hay dùng
định ngữ
(5) và rất sở trường lấy nó để diễn tả
vô cùng biến hóa, tinh tế về đủ mọi cảnh trạng, tình huống, tính chất, sắc độ... của sự vật khách
quan cũng như của tâm tư chủ quan.
Ông có cách riêng để gọi một loại màu rất khó gọi tên: “Gió, rêu, mưa suốt năm đem lại
cho tường gạch cái màu
uyển chuyển của thời gian
” [IV/tr.526]. Với định ngữ, Nguyễn Tuân còn
thể hiện được những sắc thái, ý nghĩa bất ngờ nhất: “Một cái ngã tư

đông đặc căm thù

[IV/tr.661]; “Ông Tú riêng giữa làng thơ ngồi hẳn một chiếu điều hoa
nửa cạp hiện thực nửa cạp
trữ tình
” [V/tr.850].
Định ngữ trong lời văn Nguyễn Tuân dẫn ta tới những biên độ phiêu lưu tài hoa nhất của
thưởng thức sắc màu: “Cái màu
vàng giãy nảy
" của chuối Ngự chợ Rồng [V/tr.766]; “Một màu
nắng tháng ba
Đường thi “yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu
”. [IV/tr.453]. Định ngữ Nguyễn
Tuân có khi lồng ghép đến mấy tầng lên nhau: “Trang sách
ẩm mực in
run run trong tay tác giả
nó [...] đang rung lên cái hơi thở
cuối cùng của một nhà văn sung sức, của một quả trái đang
nung mật mà lại đã nẫu cuống."
[1/tr.381].
2. CÂU
Trong thế mạnh ngôn từ của Nguyễn Tuân, phải đặc biệt chú ý đến câu văn của ông. Khác
với
từ
là đơn vị của tiếng nói;
câu
là đơn vị của lời nói - ăn nên đọi, nói nên lời - gắn liền với tầm
vóc văn hóa, đặc điểm nhân cách của người phát ngôn. Câu văn Nguyễn Tuân thể hiện rõ nét
con
người văn hóa, bản lĩnh nghệ thuật

của ông. Có một số người nhấn mạnh đến lời văn cầu kì, kênh
kiệu, miên man như vào mê trận của ông.
Thật ra, câu văn Nguyễn Tuân không chỉ có thế, cũng không phải phần lớn là thế. Và ngay
những câu phức hợp, nhiều vế đó cũng thường có lí do nghệ thuật của nó; hơn nữa, không phải
cứ khúc mắc, khó hiểu là kém giá trị đi.
Sau đây là một số dạng câu thường gặp trên các trang tùy bút Nguyễn Tuân:
2.1. CÂU DÂN DÃ
1. “Thuốc phiện làm cho Đinh lạnh như tiền và còn làm cho Đinh dài hẳn người ra nữa. Hun
đốt mãi thì còn gì mà chả!” [8/tr.144].
2. “Vào các thư viện bảo tàng khắp các nước mà tìm lấy. Khối”. [2/tr.5].
3. “Nhất nhẽ là phải làm thứ ma đói, anh cũng đành lòng.” [8/tr.104].
4. “Còm cọm mãi.” [II/tr.641].
5. “Tâm lại dám xưng chị! Và lại dám gọi những người ở đây là người Hời! Láo đến thế thì
thôi.” [I/tr.378].
Những câu trên trước hết đúng là lối nói “đặc Việt Nam”, rất kiệm lời mà vẫn rõ tình thái
phát ngôn. Có nhiều câu tưởng chừng nghe được cả ngữ điệu. Có khi như một lời chia sẻ thân
tình. Nhà văn đã không nệ những quy phạm hàn lâm, để cho ngôn từ sống động mà tung cánh.
Có câu nôm na suồng sã như lời buột miệng tự nhiên, nhưng vẫn là lời văn, không thể thêm bớt
hoặc thay thế một chữ.
2.2. Câu có phong vị cổ kính, giao hòa cũ mới.
Đây vẫn là những câu ta thường nói, thường nghe hiện nay, nhưng nó xen vào ít nhiều chữ
nghĩa hay lối diễn đạt cổ. Có khi ngay trong một câu, một chữ rất xưa cũ (“giấc hương quan”) lại
hòa hợp với những chữ in rõ dấu nỗi khủng hoảng “tân thời”: “Hồn quê lại giục khách tha hương
nhớ tử phần. [...] Giấc hương quan làm cho người ta khổ sở oằn oại đến thế là cùng.” [I/tr.280].
Có trường hợp, chỉ trong một đoạn văn, ta gặp cả mấy dạng câu - đối xứng cổ kính (câu a),
khẩu ngữ dân gian (câu b), cấu trúc hiện đại (câu c): “
[a]
Đã một đĩa ớt xanh, lại một đĩa ớt đỏ.
[b]
Trông vui mắt lạ.

[c]
Nếu dùng bữa cơm này làm mẫu để vẽ một bức họa tĩnh vật thì cái giá
trị bài trí của mâm cơm thực là hoàn toàn.” [I/tr.711].
Có những câu tuy “bình” mang dáng cũ, nhưng “rượu” hoàn toàn mới: “Nàng định nói
chuyện đứng đắn mà Bạch thì cứ ỡm ờ. Hai người chia tay. Hòa tưng tức trong người. Bạch dửng
dưng trên nét mặt.” [I/tr.999].
Câu văn không chỉ đối xứng về từ loại của chữ mà còn ngân lên nhạc trong thanh điệu, tiết
tấu, âm vận của lời: “Thuyền tôi trôi qua Cầu Bầu, thuyền tôi qua Quán Bóng, thuyền tôi trôi
xuống cống Đồng Quan.” [III/tr.239].
Lại có chùm câu vừa khoác áo truyền thống với cả nếp tà đối xứng (“Dưới cái màn trời triền
miên”/ “Trên cái chiếu đất dằng dặc”), lẫn khuy khuyết cổ xưa “rừng tị nạn”, “mùi côi cút”, “chùm
tóc mới vừa tơ”…); vừa có lối diễn đạt rất mới - gần như “trực dịch văn Tây” (“dằng dặc mùi côi
cút”, “cái rêu nhầy nhờn của ngày đau khổ và lẩn lút”); tất cả hòa quyện vào nhau không thể tách
bạch, thành một lời văn đặc sắc riêng của Nguyễn Tuân: Dưới cái màn trời triền miên những kinh
động ngờ sợ, ánh sáng tối và ẩm ướt của rừng tị nạn đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm một
chùm tóc mới vừa tơ mà đã nhuộm màu tang. Trên cái chiếu đất dằng dặc mùi côi cút, một cặp
chân có khóa bạc vòng vàng đang in đôi gót đỏ như son lên cái rêu nhầy nhờn của ngày đau khổ
và lẩn lút.” [I/tr.536,537].
2.3. Câu hiện đại.
Dọc theo trang văn Nguyễn Tuân, ta còn thường gặp những câu rất mới, theo lôgic giàu lí
tính của phương Tây, có lối cắt câu nhiều khi bất ngờ với tư duy truyền thống, nhưng rõ ràng có
sự sắc sảo riêng, gây ấn tượng mạnh mẽ cho bạn đọc – ngay cả với bạn đọc bây giờ, chứ không
chỉ với bạn đọc cách đây hơn nửa thế kỉ.
Những câu văn hiện đại sắc nhọn, hoặc nhiều tầng lớp vế chính vế phụ ấy chung sống hài
hòa với những câu giàu nhạc tính của ngôn từ truyền thống, tạo nên một vẻ đa dạng, một cái
duyên hoạt bát riêng cho tùy bút Nguyễn Tuân:
- “Con người ấy xưa nay là sự thiểu não hiện thành hình người” [8/tr.103].
- “Tôi lên cầu thang rất chậm, đầu còn bận những sung sướng.” [II/tr.802].
- “Người ta ghi lại những cái lổng chổng đổ vỡ gây nên bởi một người đàn bà, bởi những
người đàn bà, bởi tất cả đàn bà.” [II/tr.647].

Lại có những câu quá tây, mặc dù không phải vụng về, mà rõ ràng có dụng ý của tác giả;
nhưng đối với lỗ tai trung bình của công chúng Việt Nam ngay những năm hai ngàn này, nó cũng
khó nghe lọt: “Tôi nhận thấy keo bẩn mấy hào chỉ trong lúc này là một lỗi lớn.
Đối với phong
nhã!
” [I/tr.255].
Thế nhưng, hơn hai chục năm sau, khi bình truyện Tắt đèn, cũng là một vế trạng ngữ bắt
đầu bằng giới từ “với”, đem tách ra, tôn lên thành câu như thế, do Nguyễn Tuân đã “thuần hóa”
được nó, ta lại thấy sắc sảo, gây được ấn tượng: “Một cuộc sinh li (giống như tử biệt) bên một cái
rá khoai nghèo và khói cứ loãng dần trên củ khoai nguội.
Với bao nhiêu câu lục vấn của trẻ
.”
[1/tr.440].
Cùng loại câu nhiều vế nhiều tầng ấy, cần ghi nhận thêm câu Nguyễn Tuân tả cơn bão lũ
nội tâm của tấn “thảm kịch trường thiên” cuộc đời một phụ nữ. Mặc dù tác giả viết hoa chữ “chị”
sau dấu cảm - có thể theo một thói quen quy ước chính tả nào đó - nhưng xét cả về diễn tiến
mạch văn, lẫn cái đà ngữ điệu, đây chỉ có thể là
một câu
(6).
Câu văn dài hơi, gồm cả một giải
ngữ trùm lớp đồng thời một so sánh chứa chất nỗi niềm ấy, càng nổi bật sức nặng, dư âm của
nó, nhờ câu sau ngắn gọn, khẳng định chắc nịch thêm. Tác giả Tóc chị Hoài
đã kết hợp thật đẹp
cả “hoành” lẫn “tung” để lột tả cho kì được sự phong phú, phức tạp của đối tượng.
Đây chính là kiểu câu đặc trưng nhất của cú pháp Nguyễn Tuân: “Chị Hoài là một cái thảm
kịch trường thiên, là một nguồn sống bồng bột tắc lối thoát, là một dòng nước lũ tháng bảy và
ghê khiếp thay! Chị lại nín lặng tự đem cái thân mình ra làm con đê - một con đê dài dằng dặc
chạy song song bên con sông ì ầm vỗ vô khối con sóng tình cảm phiền phức, một con đê đắp
bằng những năm tháng âm thầm của một tuổi hoa niên thiếu ánh sáng, thiếu khí lành - để giữ
vững dòng nước nguồn tâm đừng tràn lan ra. Dòng nước lũ ấy mạnh lắm.” [II/tr.650].

Loại câu dài hơi, dồn nén nhiều ý tình, khía cạnh của đối tượng miêu tả ấy,
không chỉ đặc
trưng cho cú pháp, mà cho cả bút pháp Nguyễn Tuân
, một bút pháp cực tả, viết cái gì cũng hay đi
đến thấu đáo mọi khía cạnh, ngóc ngách của nó.
2.4. Câu cấu trúc cộng hưởng.
Nguyễn Tuân còn một cách dựng câu dồn nén khác, không phải bằng số nhiều của các vế
trong một câu; mà bằng loạt câu liên hoàn, cùng dạng cấu trúc, cùng xoáy vào một chủ điểm -
chỉ là chữ in mực đen giấy trắng, mà cho ta như nhìn thấy được cả cử chỉ, vẻ mặt khi phát ngôn;
mà cho ta nghe rõ được cả giọng chì chiết, xót xa:
- “Nghe mà thấy đài quá! Nghe mà thấy sang quá!” [V/tr.360].
- “Sao mà chán đến thế! Sao mà lợm giọng đến thế” [nt/tr.552].
- “Còn đâu cái thời đậm đà của lũ lượt mặt to tai tía đóng cọc xì gà vào mồm, để lại sau
chiếc xe cao su giờ [...] một luồng thơm say của rượu mùi. Còn đâu cái thời tưng bừng của áo
gấm guốc kinh găng trắng nhảy tàu điện và tóc thề và áo cào cào thướt tha bên những thông cù
đương ra lộc. Còn đâu cái thuở cánh pháo ào rụng như đào gió trên ngàn xác đỏ chôn đứng cổ
chân người bộ hành đi tìm xuân trên lề đường. Xa lắm rồi.” [II/tr.821,822].
2.5. Câu đặc biệt.
Đó là những câu chỉ có một vế, một thành phần, nhằm nêu bật lên một ấn tượng độc lập,
rõ nét; một cảm nhận sâu thấm; một dư âm kỉ niệm sâu xa:
- “Về thủ đô chứ? Tám năm. Lại về.” [III/tr.738].
- “Thói quen. Thói quen hằng ngày. Những thói quen hằng ngày tầm thường của một cuộc
sống tầm thường.” [2/tr.39].
- “Cho đến bây giờ” (câu này đồng thời cũng là cả một đoạn) [II/tr.673].
Đây cũng là một kiểu câu hiện đại. Thực chất đó là những lời độc thoại nội tâm, trong tư
thế nhìn ngẫm lại chính mình, thể hiện nhu cầu tự ý thức rất cao trong con người trí thức của thế
kỉ XX này.
2.6. Câu thơ văn xuôi.
Khi mới vào nghề, Nguyễn Tuân có làm thơ. Thơ ông không có gì mới mẻ, và chắc vì thế,
cây bút thích làm một “Đà giang độc bắc lưu” này đã sớm rời bỏ thi đàn. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân

từng thẩm thơ rất tinh tế. Và trên nhiều trang viết Nguyễn Tuân, có những đoạn văn xuôi đầy thi
vị. Xin dẫn ra vài ví dụ:
- “Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”
[IV/tr.452].
- “Và thời gian của đồng hồ thủy tiên đêm Tết xa như không ngớt thánh thót vương
hương.” [IV/tr.587].
- “Sê-khốp là cái sáo diều vĩ đại, trên đôi cánh âm vang tiếng nói của hiện thực và nhịp thơ
của lãng mạn.” [V/tr.544].
Ngoại trừ một số (rất ít) câu quá Tây khó lọt tai người Việt, những câu lan man rườm rậm,
tật lặp chữ - những “của”, “là”… mà Thạch Lam đã nhắc đến từ bài viết về
Vang bóng một thời
(1940) - làm nặng nề câu cú; phải thừa nhận Nguyễn Tuân đã sáng tạo được những câu văn xuôi
thật uyển chuyển.
Xét về cấu trúc, câu văn Nguyễn Tuân rất đa dạng, không bị gò bó bởi những qui phạm hàn
lâm. Nhà văn cốt diễn tả sao cho lột được thần thái của đối tượng hay của cảm nhận cá nhân,
bằng cách nói riêng, tự mình tìm tòi, khai phá lấy. Ông sở trường nhất loại
câu thể hiện các diễn
biến ngóc ngách của nội tâm (Một chuyến đi, Tóc chị Hoài...)
, loại
câu cảm nhận bình phẩm độc
đáo về văn chương, thế sự (Thời và thơ Tú Xương, Tình rừng...)
và loại
câu đặc tả đầy ấn tượng
về cảnh vật (Người lái đò sông Đà, Cốm...).
***
Đi dọc hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân, nhận thấy rất rõ sự vận động phát triển về
ngôn từ. Ở vài tác phẩm đầu tay của ông, câu văn hơi văn còn phảng phất cổ và sáo (với những
từ mòn và lối văn biền ngẫu). Liền sau đó diện mạo ngôn từ Nguyễn Tuân biến đổi, ông nhanh
chóng định hình phong cách và khẳng định phong độ của mình.

Có sự song hành thú vị giữa
tỉnh táo

mê đắm
trong văn Nguyễn Tuân. Một mặt, câu chữ
Nguyễn Tuân thể hiện rõ sự dụng công, có lúc đến độ cầu kì lộ liễu như là kĩ xảo; mặt khác lại là
chất thơ có khả năng cuốn hút đến ngẩn ngơ. Bên cạnh những câu tầng tầng lớp lớp như muốn
tận cùng kì lí
với sự đời; lại có những câu mê đắm trong trẻo thanh tao như đang
nhập cảm, hòa
tan
cùng cảnh sắc.
Đọc Nguyễn Tuân, có những lúc vừa bị lôi cuốn đến như mê hoặc bởi sức hút không cưỡng
nổi của một ngòi bút điêu luyện, lại vừa cảm thấy đôi chút hoài nghi như một lực đẩy khó cắt
nghĩa. Rõ ràng là phục tài, nhưng cứ có gì nhoi nhói trong cảm thức, trong tiếp nhận: hình như
bậc thầy chữ này dụng công lộ quá, “nghề” quá; đôi khi tỉnh quá, lí trí quá, làm dáng rõ quá.
Phải chăng, tâm lí phương Đông chưa thoải mái được với những cá tính nhọn sắc, đầy lí
tính như thế, và quan niệm truyền thống cũng chưa quen coi văn chương là một nghề, mà như
một thiên chức, như một “ơn riêng”, một tiếng lòng tự nhiên không cưỡng nổi?
Bản lĩnh và niềm đam mê tài hoa đối với ngôn từ ấy cũng là sự thể hiện, đồng thời là sự
thực hiện
khát vọng tự do
- tự do thể hiện chính mình, tự do là mình, có cái riêng của mình... Bởi
vì khó có gì có thể tự do hơn ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ nghệ thuật.
Nguyễn Tuân không dừng lại ở chỗ chỉ là người hát rong suốt đời ngợi ca sự huyền diệu
không cùng của tiếng Việt. Nếu ta ngẫm nghiệm kĩ miếng “nắng ròn tan” trên bãi sông Đà, “cái
hồn nhiên trắng nõn” của mảnh tường quê hương với nước vôi ăn Tết, những đoạn văn chứa chất
nỗi đời trong
Tóc chị Hoài
, những câu văn co duỗi hết sức uyển chuyển đa dạng... có thể nhặt ra

vô số qua các thiên tùy bút từ
Một chuyến đi
trước kia đến những trang kí chống Mỹ sau này -
những câu văn có nhạc điệu trữ tình giàu chất thơ của phương Đông truyền thống, lại cũng có cái
lôgic sắc sảo trập trùng sự kiện của phương Tây hiện đại; ta sẽ thấy Nguyễn Tuân đã mở rộng bờ
cõi ngôn từ văn chương làm giàu thêm cho lời ăn tiếng nói dân tộc như thế nào.
Cái giọng “đặc Việt Nam” ấy, thật ra đã được hiện đại hóa, nảy nở thêm nhiều sức diễn tả
mới với những câu văn xuôi “có một không hai” mà Phan Ngọc đã đem sánh với câu thơ Nguyễn
Du, câu đối Nguyễn Khuyến (7).
Với Nguyễn Tuân, ngôn từ không chỉ là chất liệu, phương tiện, mà còn là đối tượng của văn
chương, là chính văn chương; và nhà văn đã có ý thức lạ hóa nó, để tạo được dấu ấn độc đáo cho
mình và hấp dẫn độc giả. Ý thức này ở Nguyễn Tuân có gì đó gợi nhớ đến hình bóng của những
người theo trường phái chủ nghĩa hình thức Nga thế kỉ XIX. Con đường ngôn từ mà Nguyễn Tuân
khai phá có lẽ chỉ dành cho ông. Trên độc đạo ấy ông là khách độc hành. Nhưng rõ ràng, ở đây,
Nguyễn Tuân đã để lại tấm gương lớn về lao động sáng tạo và dũng khí mở đường.
Nguyễn Tuân - người lữ hành không mỏi của tiếng Việt - hồn Việt (*)
07-07-2010
GS MAI QUỐC LIÊN
Ngày 5/7/2010 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức
trọng thể Lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Nguyễn Tuân. Đến dự có Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết, GS Phùng Hữu Phú - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ
tịch Hội đồng Lý luận phê bình Văn học Trung ương và nhiều vị lãnh đạo Đảng,
Nhà nước. Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh, đã đọc diễn văn
khai mạc, nhiệt liệt biểu dương sự nghiệp văn học đồ sộ, tâm huyết đối với đất
nước và nhân dân của nhà văn Nguyễn Tuân. Các GS Phùng Hữu Phú, Phong Lê,
nhà văn trẻ Võ Thị Xuân Hà đã đọc tham luận. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu
tham luận của GS Mai Quốc Liên - GĐ Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học, Tổng
biên tập Tạp chí Hồn Việt.
Trong những ngày Hà Nội đánh Mỹ, ta có thể nhìn thấy Nguyễn Tuân mặc một bộ đồ lụa
nâu, thong thả giở tờ báo tiếng Pháp trên một chiếc nắp hầm trú ẩn cá nhân ở bái bia Cổ Tân

trước Nhà Hát Lớn. Rồi những ngày B52, Cụ đội lên đầu cái mũ sắt phòng không, ở lại Hà Nội làm
“phóng viên chiến trường”.
“Tôi thấy tôi đúng. Mình là người viết văn, nhà văn Việt Nam. Trong
khi Thủ đô – trái tim của cả nước lâm nguy mà bỏ Hà Nội mình đi, thì còn viết cái gì, mình còn ra
gì nữa ông?”
Và những trang viết say nồng, phức điệu, giàu màu sắc, giàu ý tưởng… của Cụ trong Hà
Nội ta đánh Mỹ giỏi lại vang lên, tiếp nối những trang tùy bút đã viết trong kháng chiến chống
Pháp:
Đường vui, Tình chiến dịch, Tùy bút kháng chiến…
Nguyễn Tuân có cốt cách của một nhà văn – một nhà báo chiến trường như E.Hemingway,
Erengbourg. Ông coi trọng văn từ báo, từ những vật liệu hàng ngày, từ công việc viết sử hàng
ngày của người làm báo.
Và như vậy, Nguyễn Tuân đã đi, miệt mài suốt đời như một lữ khách không mỏi dâng hiến
hết mình cho dân tộc và thế kỷ, với những kiệt tác văn chương còn mãi:
Vang bóng một thời,
Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi,
các bài tùy bút, tiểu luận đặc sắc về Tú Xương, Sêkhov,
Dostoievski, Nguyễn Du, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng… viết với nhãn lực, bút pháp một nhà văn bậc
thầy và một nhà khảo cứu đam mê sự sống và tư liệu.
Nguyễn Tuân là kiểu nhà văn vừa truyền thống dân tộc ở độ sâu sắc sung mãn nhất của
một người Việt, người Hà Nội – Trường An có thể có, vừa là nhà văn hóa am tường, say mê văn
hóa phương Đông, phương Tây… Nhiều nhà văn nước ngoài, như nhà thơ Nga nổi tiếng E.
Evtushenko gọi ông là “nhà văn cổ điển Việt Nam”. Đúng như vậy, văn chương của ông đã thành
một di sản cổ điển ngay từ lúc ông còn sống.
Quang cảnh Lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Nguyễn Tuân
tại Nhà Hát Lớn Hà Nội.
Nhân vật chính trong các tác phẩm Nguyễn Tuân từ đầu đến cuối là
Nguyễn
. Là con một
ông Tú tài Hán học cuối cùng, Nguyễn Tuân sống và hiểu rõ những tập tục “quí phái” của những

nhà Nho phong kiến như uống trà, viết chữ, thả thơ, ả đào… Tiếng vọng của một quá khứ văn
hóa đến từ những câu chuyện đó. Nó đem lại một niềm luyến tiếc khôn nguôi cho những tâm hồn
còn nặng nợ với văn hóa ta, đối lập với cái nhố nhăng, bát nháo của văn hóa thực dân đang du
nhập ồ ạt. Đó là sự níu kéo mỏng manh, một “tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa” như một
nhận định của một nhà văn hóa Cách mạng về văn chương lãng mạn 30 - 45.
Vang bóng một thời
còn là một tình điệu, một phong cách văn chương, một chiều sâu nội tâm ít có, uẩn áo… của một
chàng trai mới ngoài 30 tuổi.
Day dứt vì “thiếu quê hương”, Nguyễn muốn làm một lãng tử lãng du, nhưng những chuyến
đi sẽ đem lại gì ngoài sự chán nản sâu sắc hơn, sự bất mãn và bất lực trước cuộc đời và trước
chính mình. Nguyễn chưa kịp trở thành một “con người phản kháng”, “con người vô luân”…,
nhưng cái mầm của các thứ chủ nghĩa cá nhân hiện đại ấy của phương Tây đã thấp thoáng trên
trang sách. Rồi Nguyễn đi vào “tàn đèn dầu lạc”, vào “hát ả đào”, một chút “Liêu Trai” ma quái
mê sảng như trong “Chùa Đàn”. Cách mạng Tháng Tám đã đến cuốn bay tất cả những bế tắc đó,
và Nguyễn đi kháng chiến.
Cuộc đổi đời say mê tận tụy dâng hiến ấy, nhờ vào làn sóng của thời đại, nhờ vào lòng yêu
nước yêu dân tộc đã ăn sâu bén rễ từ trước ở một con người thanh niên trí thức thuộc địa, đã
đem đến cho Nguyễn một chân trời mênh mông, phong phú của sáng tạo văn học, từ chân trời
Việt Bắc – Cà Mau đến chân trời Lêningrat, Bắc Âu, Trung Hoa…
Người ta nói Nguyễn Tuân có phần “lập dị”, khinh bạc. Không, có lẽ Nguyễn Tuân là người
muốn yêu, muốn tận hưởng tình yêu cuộc sống, tình yêu cái Đẹp, tình yêu tiếng Việt trong cái tận
cùng của nó, và ông không thỏa mãn, coi thường những kẻ nửa vời… Cái Đẹp đối với ông là tất
cả, cái Đẹp ngàn năm, cái Đẹp mới mẻ, cái Đẹp của ngày mới Cách mạng, cái Đẹp của cuộc chiến
đấu kiên trì anh hùng vô song, cái Đẹp của những đời thường ở cả hai miền Nam Bắc. Trong văn
của ông đã đạt tới đích của Tư tưởng, của Sự thật, của Nghệ thuật.
Có điều là Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân.
Ông không thấy cần thiết mình phải biến thành người khác, hòa giọng đồng ca “thổi sáo ở
lẫn giữa ba trăm người” như người xưa nói. Ông bao giờ cũng trăn trở, tìm tòi, tỉ mỉ, nghĩ lớn
đồng thời nghĩ tinh tế… trên từng dòng, từng chữ để diễn đạt mình cho hết. Ông đã vắt cạn tài
năng này, tâm huyết cho từng trang văn, không bao giờ dám không gắng sức.

Ông là một trong những người lao động văn chương cần mẫn nhất thế kỉ, một “chuyên viên
tiếng Việt”, một bậc thầy, và có thể nói một vị “pháp sư” về tiếng Việt. Cái thứ tiếng in hồn dân
tộc, hồn người, hồn thời đại mà ông là một kẻ tình chung - sáng tạo:
“… Tôi lặng cúi xuống mặt
trang giấy trắng tinh đang om sòm những tiếng mời chào kia mà nói bật lên lời biết ơn đối với đất
nước, ông bà tổ tiên. Thấy chịu ơn rất nhiều đối với quê hương ông bà đã truyền cho tôi thứ tiếng
nói đậm đà tôi hằng nói từ những ngày mới chào đời. Trong hương hỏa âm thanh từ điệu ấy,
thấy như hiển hiện lên không biết bao nhiêu mồ hôi và máu huyết của đời ông bà khai rừng, mở
cõi, giữ nước chống giặc, tiến lên đến đâu là xây dựng ngôn ngữ tới đó. Nay mỗi lần đụng đến cái
di sản nhiệm mầu ấy, thấy bổi hổi bồi hồi như vấn vương một cái gì thiệt là thiêng liêng vô giá mà
tất cả trữ kim, trữ ngân của tất cả ngân hàng thế gian cũng không sao đánh đổi được”
Nguyễn Tuân và tiếng Việt, Nguyễn Tuân và phong cách văn chương tiếng Việt của ông là
một điểm nổi bật nhất khi ta đọc ông. Câu văn Nguyễn Tuân, trang văn Nguyễn Tuân trùng điệp,
phức điệu và phức cú, diễn tả những quan hệ phức tạp của cuộc đời và tâm trạng cá nhân,
điểm
nhìn

cách nhìn
của chính tác giả. Một nhà ngữ học, theo phương pháp thao tác, cho rằng văn
chương Việt Nam có ba loại câu văn độc đáo: câu thơ Kiều, câu đối Nguyễn Khuyến và câu văn
Nguyễn Tuân.
Tuy thế, về bản chất văn Nguyễn Tuân vẫn là cách nói năng của người Việt, người Việt Hà
Nội với tất cả cái đậm đà duyên dáng của nó trong giọng điệu, trong từ ngữ. Các lớp từ bình dân,
thông tục chen lẫn giữa các từ “bác học”, “Hán học”, các từ hằng ngày báo chí nhặt lên từ cuộc
sống lao động, chiến đấu của nhân dân hòa vào những từ sách vở, trí thức, chọn lọc…Trang văn
là một hòa điệu của âm thanh, trước hết là của tiếng nói, giọng nói. Nó không trôi đi bình lặng,
êm ả mà như đối thoại với nhau, tranh luận nhau, đa thanh, phức điệu.

×