Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cách mạng công nghiệp 4.0 và những thách thức đặt ra với phương thức đào tạo trực tuyến ở bậc đại học tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.55 KB, 10 trang )

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA
VỚI PHƯƠNG THỨC ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN Ở BẬC ĐẠI HỌC
TẠI VIỆT NAM
TS. Nguyễn Thị Hoàn
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Tóm tắt
Nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng cơng nghiệp mới, có thể thay
đổi hồn tồn cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau: Cuộc cách mạng
công nghiệp (CMCN) lần thứ tư - Cách mạng công nghiệp 4.0 kết hợp các công nghệ
lại với nhau diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm: Cơng nghệ sinh học, Kỹ thuật số và
Vật lý. Tốc độ đột phá của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện “không có tiền lệ lịch
sử”. Tuy nhiên cũng như mọi cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư này có thể đưa đến tình trạng bất bình đẳng lớn hơn,
đặc biệt là nguy cơ phá vỡ thị trường lao động. Trong bối cảnh đó, phương thức đào
tạo trực tuyến trong giáo dục đại học ở Việt Nam có cơ hội để hợp tác và học hỏi
nhưng cũng đang đứng trước nhiều thách thức. Các trường đại học cần phải tìm
cách đổi mới chính mình, nói cách khác cần phải làm một cuộc cách mạng để tồn tại
và phát triển. Đó là nội dung chính của bài viết này.
Từ khóa: cách mạng cơng nghiệp 4.0, đào tạo trực tuyến, giáo dục đại học,
thách thức
1. Khái niệm Công nghiệp 4.0
Khái niệm Công nghiệp 4.0 hay nhà máy thông minh lần đầu tiên được đưa ra tại
Hội chợ cơng nghiệp Hannover tại Cộng hịa Liên bang Đức vào năm 2011. Năm
2013, cụm từ “Công nghiệp 4.0” (Industrie 4.0) xuất phát từ một báo cáo của Chính
phủ Đức nhằm nói tới chiến lược cơng nghệ cao, điện tốn hóa ngành sản xuất mà
không cần sự tham gia của con người. Cơng nghiệp 4.0 nhằm thơng minh hóa q trình
sản xuất và quản lý trong ngành công nghiệp chế tạo. Sự ra đời của Công nghiệp 4.0
tại Đức đã thúc đẩy các nước tiên tiến khác như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ thúc
đẩy phát triển các chương trình tương tự nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh của mình.
Tháng 1/2016, một định nghĩa mới, mở rộng hơn khái niệm Công nghiệp 4.0 khái niệm Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư được GS. Klaus


Schwab, người Đức, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra và đó cũng là chủ đề
chính của diễn đàn kinh tế thế giới Davos năm 2016. Ông cho rằng nhân loại đang
đứng trước một cuộc cách mạng cơng nghiệp mới, có thể thay đổi hoàn toàn cách chúng
ta sống, làm việc và quan hệ với nhau. Quy mô, phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển
155


đổi này khơng giống như bất kỳ điều gì mà lồi người đã từng trải qua. Nhìn lại lịch sử,
lồi người đã chứng kiến 3 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn: i) Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất (từ 1784) xảy ra khi loài người phát minh động cơ hơi nước,
tác động trực tiếp đến các ngành nghề như dệt may, chế tạo cơ khí, giao thơng vận tải.
Động cơ hơi nước được đưa vào ôtô, tàu hỏa, tàu thủy, mở ra một kỷ nguyên mới trong
lịch sử nhân loại; ii) Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (từ 1870) đến khi loài
người phát minh ra động cơ điện, mang lại cuộc sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần
so với động cơ hơi nước; iii) Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (từ 1969) xuất
hiện khi con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, kết nối thế giới liên lạc được với
nhau. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet… là những công nghệ hiện nay
chúng ta được thụ hưởng từ cuộc cách mạng này; iv) Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang diễn ra từ những năm 2000 gọi là cuộc cách mạng số mà yếu tố cốt lõi của
Kỹ thuật số là thông qua các công nghệ như Internet vạn vật kết nối - Internet of Things
(IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), dữ liệu lớn (Big
Data), mạng xã hội, điện tốn đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)... để
chuyển hóa tồn bộ thế giới thực thành thế giới số.
Nếu như cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và
hơi nước để cơ giới hóa sản xuất, cách mạng lần thứ hai diễn ra nhờ ứng dụng điện
năng để sản xuất hàng loạt, cách mạng lần thứ ba sử dụng điện tử và cơng nghệ thơng
tin để tự động hóa sản xuất thì cách mạng cơng nghiệp thứ tư đang nảy nở từ cuộc
cách mạng lần ba diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Cơng nghệ sinh học, Kỹ thuật số
và Vật lý. Nó kết hợp các cơng nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ
thuật số và sinh học. Theo Klaus Schwab, tốc độ đột phá của cách mạng cơng nghiệp

4.0 hiện "khơng có tiền lệ lịch sử". Khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp
trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ khơng phải là tốc độ tuyến
tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành cơng nghiệp ở mọi quốc gia. Chiều
rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ
thống sản xuất, quản lý và quản trị.
Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, cách mạng công nghiệp 4.0 tập trung vào
nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược,
chế biến thực phẩm, bảo vệ mơi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu.
Trên lĩnh vực vật lý, Công nghiệp 4.0 là xu hướng của tự động hóa và trao đổi
dữ liệu trong công nghệ sản xuất, không chỉ là về các máy móc, hệ thống thơng minh
và được kết nối, mà cịn có làn sóng của những đột phá xa hơn trong các lĩnh vực
khác nhau từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, robot thế hệ mới, máy in 3D,
xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…), từ các năng lượng tái tạo tới tính
tốn lượng tử.
156


Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các “nhà máy thông
minh” hay “nhà máy số”. Trong các nhà máy thông minh này, các hệ thống vật lý
khơng gian ảo sẽ giám sát các q trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới
vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con
người theo thời gian thực, và với IOS thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá
trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này. Cụm từ “cách mạng công nghiệp” hàm
chứa sự thay đổi lớn lao, không chỉ biến đổi kinh tế mà cả văn hóa, xã hội một cách
tồn diện. Các cơng nghệ mới từ cách mạng công nghiệp lần thứ tư được phát triển
với tốc độ vượt bậc, với những đột phá để phục vụ con người được hiện thực hóa như
xe tự lái, các ứng dụng của trí tuệ nhân tạo... Tuy nhiên cũng như mọi cuộc cách
mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư này có thể đưa
đến tình trạng bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là nguy cơ phá vỡ thị trường lao động.
Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con

người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất
nghiệp. Năm 2015, McDonald công bố sẽ xây dựng thêm 25.000 nhà hàng hoạt động
hầu như bằng robot; thay vì từ 10 đến 20 nhân viên cho một nhà hàng thì nay chỉ cịn
2 - 3 người để quản lý. Tháng 11/2015, Ngân hàng Anh Quốc đưa ra một dự báo sẽ
có khoảng 95 triệu lao động phổ thơng bị mất việc trong vòng 10 – 20 năm tới tại
riêng Mỹ và Anh, tương đương 50% lực lượng lao động tại hai nước này. Tháng
5/2016, Foxconn (Đài Loan) cũng tuyên bố sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay
bằng robot (1). Các tin tức như 90% công nhân một số nhà máy mỹ nghệ ở Bình
Dương mất việc làm, hay Nike quay trở lại sản xuất giày tại Mỹ với các nhà máy
toàn robot, cho thấy mối đe dọa cũng bắt đầu lan đến 300 ngàn công nhân của Nike
tại Việt Nam, và hàng triệu công nhân khác (2).
Công nghệ không chỉ đe dọa các công việc tay chân. Tháng 3/2017, ngân hàng
lớn nhất của Mỹ JP Morgan Chase, ra mắt phần mềm AI có khả năng hồn thành
hàng trăm ngàn giờ công việc của các luật sư, chuyên viên tín dụng chỉ trong vài
giây. Theo nhiều nghiên cứu, từ 38 - 47% số lượng việc làm hiện nay có thể mất đi
do AI trong vịng 20 năm tới, như luật sư cấp thấp, chuyên viên tín dụng, nhân viên
bán lẻ, lái xe, lễ tân, bảo vệ, công nhân… (3). Điều này có nghĩa là hàng trăm triệu
người sẽ cần được đào tạo lại mỗi năm để trang bị những kỹ năng mới, trong đó có
hàng triệu người Việt Nam.
Trong lĩnh vực dệt may, trước đây các nước có ngành dệt may phát triển như
Mỹ, Anh vì thiếu lao động nên đã dịch chuyển thuê nhân công sang Trung Quốc, Ấn
Độ, Việt Nam - nơi có lực lượng lao động thủ công giá rẻ dồi dào. Nhưng với công
nghệ robot trong cuộc cách mạng lần thứ tư này, nhiều nhà máy dệt may trước đây
đặt ở Việt Nam có thể quay ngược lại đặt ở Mỹ, bởi họ đã bắt đầu sử dụng rất nhiều
157


robot. Báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cung cấp số liệu đáng lo ngại
khi mà hơn 2/3 trong số 9,2 triệu lao động ngành dệt may và da giày tại Đông Nam Á
đang bị đe dọa bởi sự bùng nổ nhanh chóng của ứng dụng khoa học công nghệ trong

ngành này. Cụ thể, khoảng 86% lao động của Việt Nam, 88% lao động của
Campuchia và 64% lao động Indonesia trong ngành may mặc, da giày sẽ chịu ảnh
hưởng nặng nề từ làn sóng tự động hóa, cơng nghiệp hóa trong ngành.
Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, giải trí, robot cũng đã hiện diện ở những
vị trí cơng việc vốn được cho rằng khơng thể thay thế con người như lễ tân khách
sạn, cơ quan, nhà hàng, trung tâm call center... Khi có khách đến robot có thể tự động
nhận dạng, ghi nhớ để chào hỏi, nhớ được sở thích, trả lời các nhu cầu của khách
hàng bằng giọng nói hồn tồn như con người. Nhờ cơng nghệ AI, người máy làm
việc càng thơng minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, trong khi khả năng đó ở
con người càng già càng yếu đi. Ưu điểm làm việc 24/24, khơng cần trả lương, đóng
thuế, bảo hiểm… của robot cũng đang đe dọa đến sự tương quan trong việc sử dụng
lao động là người thật hay người máy.
Trong lĩnh vực giao thông, thế hệ xe khơng người lái sẽ phát triển nhờ đảm bảo
an tồn cao gấp nhiều lần vì khơng có tình trạng say rượu bia, vượt đèn đỏ, phóng
nhanh vượt ẩu. Trong lĩnh vực y tế, cỗ máy IBM Watson có biệt danh “Bác sỹ biết
tuốt” có thể lướt duyệt cùng lúc hàng triệu hồ sơ bệnh án để cung cấp cho các bác sĩ
những lựa chọn điều trị dựa trên bằng chứng chỉ trong vòng vài giây nhờ khả năng
tổng hợp dữ liệu khổng lồ và tốc độ xử lý mạnh mẽ. “Bác sĩ biết tuốt” này còn cho
phép con người tra thơng tin về tình hình sức khỏe của mình. Các bác sĩ chỉ cần nhập
dữ liệu người bệnh để được phân tích, so sánh với kho dữ liệu khổng lồ có sẵn và
đưa ra gợi ý hướng điều trị chính xác. Đầu năm nay, một số bệnh viện tại thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội đã thực hiện ca mổ với sự hỗ trợ của robot. Với bốn cánh
tay, đầu camera thơng minh, góc phẫu thuật rộng 540 độ, hình ảnh 3D, robot có thể
phẫu thuật ở những vị trí khó, hỗ trợ các bác sĩ tiến hành ca mổ với sự xâm lấn tối
thiểu và độ chính xác, hiệu quả cao hơn, an toàn hơn, giúp bệnh nhân ít mất máu, ít
đau, giảm nguy cơ tai biến và mau hồi phục.
Lĩnh vực nơng nghiệp cũng khơng cịn là nông nghiệp thuần túy. Công nghệ
IOT với hàng loạt hệ thống cảm biến và đầu đo (sensor) có thể giúp tưới cây, bón
phân đúng thời điểm và khoa học với lượng cần thiết vừa đủ cho cây, giúp tiết kiệm
chi phí so với phương thức truyền thống hiện nay. Khi đó, nơng dân - nhóm người

vốn bấp bênh nhất về cơng việc - sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Trong lĩnh vực giáo dục, công nghệ thực tế ảo sẽ thay đổi cách dạy và học.
Sinh viên có thể đeo kính VR và có cảm giác như đang ngồi trong lớp nghe bài
158


giảng, hay nhập vai để chứng kiến những trận đánh giả lập, ngắm nhìn di tích, mang
lại cảm xúc và sự ghi nhớ sâu sắc, giúp bài học thấm thía hơn. Hoặc khi đào tạo nghề
phi công, học viên đeo kính và thấy phía trước là cabin và học lái máy bay như thật
để thực hành đến khi nhuần nhuyễn rồi mới lái, giảm thiểu rủi ro. Trong tương lai, số
lượng giáo viên ảo có thể nhiều hơn giáo viên thực rất nhiều.
Rõ ràng, cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến cơ hội và cũng đầy thách
thức với nhân loại. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã đặt ra vấn đề này theo
các giai đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu tiên sẽ là thách thức với những lao động văn
phịng, trí thức, lao động kỹ thuật. Giai đoạn tiếp theo sẽ là lao động giá rẻ, có thể sẽ
chậm hơn. Với sự chuyển động của cuộc cách mạng này, trong khoảng 15 năm tới
thế giới sẽ có diện mạo mới, địi hỏi các doanh nghiệp thay đổi.
Những bất ổn về kinh tế nảy sinh từ cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến
những bất ổn về đời sống. Hệ lụy của nó sẽ là những bất ổn về chính trị. Nếu chính
phủ các nước khơng hiểu rõ và chuẩn bị đầy đủ cho làn sóng Cơng nghiệp 4.0, nguy
cơ xảy ra bất ổn trên tồn cầu là hồn tồn có thể.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, thách thức lại càng lớn hơn
khi các điều kiện về hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực chưa sẵn sàng để thích
ứng và tận dụng cơ hội mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến. Mới đây
Cisco dự báo lưu lượng dữ liệu toàn cầu năm 2021 sẽ tăng 7 lần so với năm 2016.
Các ứng dụng thực tế ảo, thực tại ảo tăng cường có tiềm năng ứng dụng cao và sử
dụng rất nhiều dữ liệu. Điều này cho thấy hạ tầng viễn thông băng rộng tiên tiến, đặc
biệt là hạ tầng di động băng rộng rộng khắp là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển
của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư, những yếu tố mà các nước như Việt

Nam đã và đang tự coi là có ưu thế như lực lượng lao động thủ cơng trẻ, dồi dào sẽ
khơng cịn là thế mạnh thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Trong tương lai, người dân
có thể mất việc làm bởi những lĩnh vực mà cơng nghệ robot có thể tác động tới trải
dài từ dệt may, dịch vụ, giải trí cho đến y tế, giao thơng, giáo dục...
Bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt con
người vào nhiều nguy hiểm về tài chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân nếu không
được bảo vệ một cách an tồn sẽ dẫn đến những hệ luỵ khơn lường.
2. Bài tốn thích nghi của giáo dục đại học ở Việt Nam trước xu thế mới
Sự phát triển quá nhanh của công nghệ, đã dẫn đến nhiều điều thay đổi trong
q trình giáo dục: ghi chú khơng cịn là phương pháp chủ đạo trong việc học, đọc
sách cũng không cịn nhận được nhiều quan tâm. Việc có mặt tại lớp học khơng cịn
159


là lựa chọn duy nhất của sinh viên. Tất cả mọi người, khơng chỉ sinh viên, đều có
nhiều nguồn thơng tin, dễ bị nhiễu thông tin; những điều sinh viên ngày nay học thực
sự không tồn tại mãi trong quá trình làm việc sau này của họ. Thậm chí những kiến
thức học ở trường khơng thực sự hữu ích cho con đường sự nghiệp của sinh viên…
Sự thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ trong cuộc cách mạng cơng nghiệp lần
thứ tư đặt ra những yêu cầu mới cho năng lực nhân sự, không chỉ đe dọa việc làm của
công nhân trình độ thấp mà ngay cả những người có bằng cấp (cao đẳng, đại học trở lên)
cũng có thể bị ảnh hưởng, từ đó địi hỏi các trường đại học phải thay đổi chương trình
đào tạo đem lại cho người học những kỹ năng và kiến thức cơ bản lẫn tư duy sáng tạo,
khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi liên tục để tránh
nguy cơ bị đào thải. Giảng viên không dạy cho người học cái mình đang có, mà phải
hướng tới dạy người học sáng tạo ra cái mới. Học tập để cạnh tranh chứ không phải để
lấy bằng. Mục tiêu đào tạo của đại học không phải để tạo ra những người lao động làm
công việc robot sẽ làm mà phải đạt tới trình độ con người làm ra được robot.
Bên cạnh đó, tiến bộ cơng nghệ thơng tin cũng làm xuất hiện những loại hình
đào tạo mới. Hệ thống đào tạo trực tuyến, đào tạo online là những loại hình đào tạo

thách thức các phương thức đào tạo truyền thống. Nếu giáo dục truyền thống dạy
cách đọc, cách viết, thì giáo dục ngày nay cần dạy các kỹ năng truy cập Internet, kỹ
năng tìm kiếm thơng tin trên mạng, đây cũng là những kỹ năng sống còn của người
học khi trưởng thành và vào đời. Giảng viên chuyển từ việc truyền thụ kiến thức
sang hướng dẫn sinh viên tiếp cận đúng thơng tin cần tìm và biết loại bỏ những thơng
tin xấu, khơng liên quan trên Internet. Hình thức đào tạo trực tuyến MOOC (Massive
Open Online Course) ngày càng trở nên thịnh hành hơn. Trước đây người ta học ở
trường, về nhà làm bài tập. Giờ thì ngược lại, kiến thức mà thầy giáo giảng được sinh
viên học ở nhà qua trực tuyến, và đến lớp chỉ để tương tác với thầy giáo, để hỏi
những gì họ chưa rõ. Cơ sở đào tạo với những chương trình học được cập nhật hay
hợp tác sâu rộng với giới công nghệ trong đào tạo và nghiên cứu có ưu thế trong việc
thu hút người học. Ví dụ, Đại học trực tuyến FUNiX của FPT là trường đại học
khơng có giảng đường, khơng có giảng viên đích thực mà sử dụng 500 mentor – là
các chuyên gia công nghệ hàng đầu ln hỗ trợ sinh viên trong q trình học tập.
Q trình học đều được thực hiện trực tuyến, nơi thầy trị giao tiếp mà khơng cần tới
lớp. FUNiX có thể xây dựng chương trình đào tạo cập nhật nhanh nhất mảng kiến
thức này cho học viên. Mơ hình Đại học trực tuyến ngày càng lớn mạnh theo thờì
gian và phát triển song hành với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang thu hút số
lượng lớn học sinh tốt nghiệp phổ thông.

160


Hình thức đào tạo trực tuyến đang đặt ra thách thức và buộc đại học truyền
thống thay đổi. Ở Việt Nam, đại học trực tuyến chưa phát triển nhưng trên thế giới đã
rất phổ biến. Nếu trước đây học trực tuyến cịn gây băn khoăn về chất lượng, thì hiện
nay một số trường tốp đầu của Mỹ như Berkeley, New York University,
Northwestern, Rice đã tự tin đưa ra các chương trình thạc sỹ 100% online. Theo
nghiên cứu năm 2015 của Online Learning Consortium, 71% lãnh đạo các trường đại
học ở Mỹ cho rằng hình thức học online đem lại chất lượng ngang bằng hoặc tốt hơn

học truyền thống. Cứ ba sinh viên đại học ở Mỹ, có một người đang học ít nhất một
mơn hồn tồn online (4).
Đào tạo trực tuyến giúp đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhanh hơn. Sau cơn
sốt ngân hàng, năm 2013, một phần ba sinh viên ở Việt Nam theo học khối tài chính
ngân hàng. Kết quả là sau 4 - 5 năm học, hàng ngàn sinh viên ra trường đối mặt với
một ngành ngân hàng đang khủng hoảng, và chật vật tìm việc làm. Ở Mỹ, đơn vị đào
tạo trực tuyến Udacity tiên phong 1 cách làm khác: đảm bảo 100% việc làm. Họ gặp
gỡ trực tiếp Google, Facebook, Oracle để tìm hiểu nhu cầu về nhân lực trong tương
lai. Chỉ trong vài tháng, họ ra mắt các khóa học trực tuyến với các chuyên gia của
các doanh nghiệp đó tham gia xây dựng. Sau khóa học kéo dài 6 - 9 tháng, tất cả các
học viên tốt nghiệp được đảm bảo 100% việc làm tại chính các doanh nghiệp đó (5).
Pluralsight có 4.000 khóa học kỹ năng online. Họ ký hợp đồng với các doanh
nghiệp, cung cấp tồn bộ các khóa học đó cho tồn thể nhân viên. Một nhân viên
được sếp u cầu trình bày kế hoạch tài chính cho dự án mới trong tuần tới, đòi hỏi
nhân viên biết cách phân tích một vài chỉ số. Anh ta lên Pluralsight, tìm kiếm mơn
học về phân tích đầu tư dự án, lướt nhanh qua những phần cần thiết nhất, và hoàn
thành báo cáo đúng hạn.
Để giải quyết các vấn đề do công nghệ gây ra không thể xây thêm hàng ngàn
trường đại học, hàng vạn trung tâm đào tạo chỉ trong vài năm. Các trường đại học
trên thế giới cũng không thể ra mắt thêm hàng chục ngàn khóa học để đáp ứng hàng
ngàn việc làm mới toanh xuất hiện trong các lĩnh vực như lập trình, quảng cáo trực
tuyến, phân tích dữ liệu, thiết kế 3D… mà tìm đến cơng nghệ. Hai tổ chức Coursera
và EdX hợp tác với hơn 200 trường đại học tốp đầu thế giới, đưa hàng ngàn khóa học
của các giáo sư lên mạng dưới dạng khóa học trực tuyến và đã có hơn 30 triệu người
trên thế giới đăng ký học. Udemy, Pluralsight, Skillshare cung cấp hơn 60 000 khóa
học online từ kỹ năng văn phịng, lập trình đến yoga và ni dạy con. Đa số các khóa
học của các giảng viên Stanford, Harvard trên Coursera, EdX đều miễn phí, học viên
chỉ phải trả tiền khi thi lấy chứng chỉ.

161



Các công nghệ mới đang hứa hẹn nhiều giải pháp đột phá, quá trình đào tạo
được rút ngắn và hiệu quả gấp nhiều lần so với học qua sách vở hay trên máy tính:
các Kỹ sư của Boeing đeo kính Google Glass trong khi lắp ráp, sửa chữa phụ tùng có
thể nhìn thấy các hướng dẫn bằng hình 3D ngay trước mắt; phần mềm AI phân tích
nét mặt của người học online qua camera máy tính, có thể nhận biết họ đang hứng
thú, chán nản hay không hiểu bài qua đó có thể tua nhanh, chậm hay thay đổi nội
dung của bài giảng. Thiết bị Emotiv của các nhà sáng lập người Việt có thể nhận biết độ
hứng thú của người học trực tiếp thơng qua sóng não. Các loại găng tay 3D hay thiết bị
nhận dạng động tác cơ thể Microsoft Kinect cho phép các học viên một lớp học bán
hàng bắt tay, chào hỏi, giao tiếp với khách hàng trong một thế giới 3D sinh động. Các
khách hàng đó có thể do học viên khác, hoặc do AI điều khiển. Got It! - ứng dụng của
một nhà sáng lập người Việt khác, có thể chụp ảnh, nhận dạng một bài tốn phương
trình, và đưa ra hướng dẫn giải từng bước chỉ trong tích tắc. Trong một giờ học tiếng
Anh “dã ngoại” của Topica Native, giáo viên Mỹ cầm camera 360 độ đứng trước cửa
Nhà Trắng, truyền hình trực tiếp bài phát biểu của tổng thống Trump. Học viên ở Hà Nội
đeo kính 360, thảo luận trực tiếp với giáo viên, bắt chuyện với những người đi ngang
qua, cảm giác như đang có mặt tại đó… Tất cả tạo ra một bức tranh giáo dục đào tạo
sinh động mà các phương thức giáo dục truyền thống chắc chắn sẽ khơng thể đáp ứng.
Tuy nhiên, đào tạo trực tuyến cịn nhiều vấn đề phải giải quyết. Cứ 100 người đăng ký
các khóa học trực tuyến, chỉ có dưới năm người hồn thành. Phần lớn bỏ dở vì thiếu
động lực học, bài giảng video thuần túy kém sinh động, thiếu tương tác.
Theo số liệu của Cục Đào tạo nước ngoài, chi phí trung bình cho một năm học
ở Mỹ khoảng trên 35 ngàn USD và để con mình có được bằng cử nhân, phụ huynh
phải chuẩn bị khoảng 150 ngàn USD. Cho dù tốn kém như vậy nhưng vì ngày càng
nhiều phụ huynh thiếu niềm tin vào nền giáo dục đại học trong nước nên sẵn sàng
bằng mọi giá cho con du học. Điều đó dẫn tới việc sinh viên ra nước ngoài học ngày
càng nhiều. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, có 130.000 sinh viên Việt Nam du học,
trong đó có 21.000 sinh viên đang theo học tại các trường đại học của Hoa Kỳ là một

trong những nguyên nhân làm cho nguồn tuyển sinh vào các trường đại học Việt
Nam ngày càng eo hẹp (6). Trong bối cảnh đó, các trường đại học cần phải tìm cách
đổi mới chính mình.
Những thách thức trên đặt ra yêu cầu các trường đại học phải đẩy mạnh nghiên
cứu, một mặt phát triển các công nghệ mới đáp ứng yêu cầu Công nghiệp 4.0, một
mặt tự thay đổi để phù hợp với nền công nghiệp mới. Giáo dục đại học phải thay đổi
về chất. Trường đại học theo mơ hình mới phải là sự kết hợp của 2 phương thức đào
tạo trực tuyến và truyền thống.PGS.TS. Trần Anh Tuấn, phó vụ trưởng Vụ Giáo dục
ĐH (Bộ GD-ĐT), cho rằng trước sự tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 tới
162


hệ thống giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã khuyến khích các trường triển khai đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm hướng tới một nền giáo dục hiện
đại, hội nhập quốc tế.
Giáo dục đại học ngày nay trong thế giới kết nối IoT đã khác trước. Người tốt
nghiệp đại học ở Việt Nam không nhất thiết phải xin việc ở Việt Nam mà có thể và
có khả năng làm việc ở các nước khác. Người có việc làm sau khi tốt nghiệp đại học
không phải là người hàng ngày đến công sở cố định điểm danh làm mà có thể làm
việc qua Internet. Ở Việt Nam nhưng vẫn có thể làm việc cho một doanh nghiệp ở
Mỹ trong xã hội kết nối. Do đó việc đào tạo ở bậc đại học khơng chỉ cho sinh viên
Việt Nam mà là cho sinh viên toàn cầu.
Để thay đổi kịp với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, các trường phải
chú trọng đổi mới mô hình, chương trình đào tạo và phương thức tuyển sinh. Cần
đẩy mạnh kênh truyền thông để sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh chủ động nắm
bắt cơ hội, lựa chọn chương trình học phù hợp vị trí đào tạo, nghiên cứu khoa học
hoặc theo công việc tại các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế.
Bên cạnh đó, các trường phải đầu tư thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị, thường
xuyên nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin như đường truyền, tính an tồn và bảo
mật của phần mềm, dữ liệu để sinh viên có điều kiện học tập, nghiên cứu tốt hơn.

Song song với việc nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới mơ hình nhà trường là giải
pháp rất cần thiết. Cần chuyển đổi mạnh mẽ sang mơ hình đào tạo “những gì thị
trường sẽ cần”. Theo mơ hình này, việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với
doanh nghiệp là yêu cầu được đặt ra. Đồng thời, quá trình đẩy mạnh hình thành các
cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp là cần thiết để chia các nguồn lực chung.
Các trường cần phải thử nghiệm những công nghệ mới trong đào tạo trực tuyến,
phương pháp tiếp cận việc dạy học để tìm ra những điểm hạn chế và cải thiện; theo dõi,
quan sát thái độ học tập của sinh viên, trả lời phản hồi khi cần thiết, cung cấp kỹ năng
phù hợp, hình thức học tập mới, thời gian và địa điểm học tập không bị ràng buộc cho
người học các ứng dụng giúp nâng cao khả năng sử dụng tiếng Anh cho sinh viên...
Nếu nói cơng nghệ thơng tin hay kỷ ngun số là một cuộc cách mạng, có lẽ
đúng nhất với lĩnh vực giáo dục đại học. Sự xuất hiện của mạng xã hội cùng những
tương tác mà nó tạo ra khiến cho việc học tập nói chung và giáo dục đại học nói
riêng vượt qua sự giới hạn về khơng gian, thời gian. Trong bối cảnh thế giới thay đổi
thành thế giới số, nếu chúng ta vẫn giữ cách làm cũ thì sẽ phải đối diện với nguy cơ
trì trệ, phá sản, đóng cửa khơng xa. Làm sao tiếp tục tồn tại và phát triển, biến thách
thức thành cơ hội, có lẽ cần lắm một cuộc cách mạng trong giáo dục nhất là các mơ
hình đào tạo trực tuyến hiện nay.
163


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học sẽ phải thay đổi vì cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0, theo
truy cập 18:41 15/05/2017
2. (2), (3), (4), (5). Phạm Minh Tuấn, Giáo dục đào tạo 4.0, theo
(Bài báo được phát hành trên tờ
Forbes Việt Nam, tháng 9/2017)
3. Ngô Tứ Thành, Đại học trực tuyến - mối đe dọa lớn nhất đối với đại học truyền
thống, theo />
164




×