Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Khóa luận Trung cấp Chính trị - Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh Trung tâm GDNN - GDTX huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.53 KB, 34 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng sự nghiệp giáo dục - sự nghiệp
“trồng người”, Người rất quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Vì vậy, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong lễ khai giảng của năm
học đầu tiên, Người đã viết thư gửi các em học sinh bày tỏ mong muốn và đặt niềm
tin của mình vào thế hệ trẻ, Người viết: “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” 1.
Và theo Người, một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục, của các nhà
trường là phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức cho người học, nhất là thế hệ trẻ.
Giáo dục đạo đức là mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
công tác giáo dục trong nhà trường. Người thường xuyên đề cập và yêu cầu các lực
lượng giáo dục, các trường học cần phải chú trọng giáo dục đạo đức cho học sinh.
Theo Bác, đức phải được đặt lên hàng đầu: “Đức phải có trước tài", đức là “gốc”,
Người đã nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức
cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu khơng có đạo đức cách mạng thì có
tài cũng vơ dụng” 2...
Giai đoạn hiện nay, trước sự bùng nổ thông tin, cách mạng công nghiệp 4.0
diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, lĩnh vực giáo dục cũng
chịu tác động lớn về nhiều khía cạnh, địi hỏi toàn xã hội cần quan tâm hơn đến giáo
dục, nhất là giáo dục đạo đức. Chúng ta thấy rằng, có nhiều học sinh chăm ngoan,
học giỏi, đạt thành tích cao trong học tập, nghe lời cha mẹ, thầy cô; song cũng còn
nhiều em mải chơi, lười học, làm trái lời cha mẹ, sa vào những tệ nạn xã hội... Vì
vậy, giáo dục đạo đức cần phải được chú trọng. Đây là nhiệm vụ vừa mang tính
trước mắt, vừa mang tính lâu dài của nền giáo dục nước nhà.
Đến nay, dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa hơn 50 năm, nhưng những tư
tưởng của Người về công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường vẫn còn nguyên giá
trị. Thiết nghĩ, các thầy giáo, cô giáo, các nhà trường, các lực lượng giáo dục và toàn
xã hội cần quan tâm, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức cho thế hệ trẻ vào cơng tác giáo dục, góp phần giáo dục thế hệ trẻ thành
những con người tốt, những nhân tài, những cơng dân tốt cho đất nước, góp phần


thực hiện thành cơng mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.

A. MỞ ĐẦU
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.33.
Hồ Chí Minh, Sđd., t.11, tr.329.

1


1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, giáo dục - đào tạo ngày càng được nhân loại coi
trọng đặc biệt, giáo dục là thành tố cơ bản của một nền văn hố, có vị trí quan
trọng trong chiến lược phát triển của một cộng đồng xã hội. Trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta khẳng định: giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu
tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, vấn đề giáo dục toàn
diện cho con người càng trở lên cấp thiết, đặc biệt là vấn đề giáo dục đạo đức.
Hiện nay, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) diễn ra mạnh mẽ,
với sự bùng nổ thông tin, tác động nhanh chóng và tồn diện đến mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội. Đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ trong các trường học,
CMCN 4.0 có tác động đến nhiều khía cạnh, từ việc giảng dạy, học tập đến nội
dung, phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động giáo dục, mối quan hệ giữa người
dạy và người học... Nhất là đối với học sinh trung học phổ thông, sự tác động càng
rõ rệt hơn, các em dễ tiếp cận những thông tin mới từ môi trường mạng internet, từ
các thơng tin tích cực, có lợi, đến những thông tin xấu, bẩn, tác động tiêu cực đến

đạo đức và sự hình thành nhân cách của học sinh.
Nhìn một cách toàn diện, giai đoạn hiện nay, việc dạy và học được tồn xã
hội đặc biệt quan tâm. Có rất nhiều lý do được chỉ ra, như: điều kiện kinh tế, đời
sống được nâng cao, xã hội ổn định, kinh tế phát triển, tri thức khoa học công nghệ
gia tăng nhanh chóng,... cũng bởi giáo dục tác động tới mỗi gia đình, mỗi cá nhân
trong xã hội. Tuy nhiên, có một thực tế khơng thể phủ nhận là chúng ta mới chỉ làm
được phần dạy học kiến thức, hay đơn giản là “dạy chữ”; quá trình giáo dục hay
“dạy người” chưa được quan tâm đúng mức. Khiếm khuyết trong q trình giáo dục
làm người học khơng hiểu đúng và sâu các chuẩn mực xã hội, thể hiện qua hành vi
ứng xử, lối sống của một bộ phận thế hệ trẻ hiện nay còn lệch chuẩn, thực dụng,...
chưa thực sự phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Có tài mà khơng có đức là người
vơ dụng”. Luật Giáo dục 2005 xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thơng là giúp
cho học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ
năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân...”
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới sự nghiệp
chăm sóc và phát huy yếu tố con người. Điều đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc
những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người - chủ thể của mọi
sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của mọi quốc
gia. Xây dựng và phát triển con người có trí tuệ cao, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực, đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó, giáo dục - đào tạo có vai trị quyết định.
2


Trong văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng 2 khoá VIII đã
đánh giá thực trạng: “Đặc biệt đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh
viên có tình trạng suy thối về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực
dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai bản thân và đất nước”.

Trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng đã nêu “chưa chú trọng
đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc”.
Qua thực tế làm công tác giảng dạy tại Trung tâm GDNN- GDTX Huyện
N , là cơ sở giáo dục – đào tạo với chức năng dạy nghề, giáo dục thường xuyên,
hướng nghiệp và giới thiệu việc làm; với đối tượng người học chủ yếu là độ tuổi
học sinh trung học phổ thơng (THPT); tình trạng học sinh xuống cấp về đạo đức,
lối sống, phai nhạt lí tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, lệch chuẩn, tình trạng
bạo lực học đường gia tăng... là những vấn đề nhức nhối, đang được toàn xã hội rất
quan tâm. Tuy nhiên việc giáo dục đạo đức, lí tưởng cho học sinh cũng chưa thực
sự được quan tâm. Nhà trường vẫn chủ yếu quan tâm đến các thành tích về tỉ lệ
học lực, số học sinh đạt giải học sinh giỏi các cấp, số học sinh đỗ đại học, cao
đẳng... Đây cũng là tình trạng phổ biến ở các cơ sở giáo dục hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề trên đây, với mong muốn góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực trạng,
giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh Trung tâm GDNN
- GDTX Huyện N ”.
2. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đối chiếu với thực tế từ đó đề xuất một số giải
pháp, biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh Trung tâm
GDNN- GDTX Huyện N , huyện Huyện N , tỉnh Bắc Giang để đáp ứng tạo ra con người
mới phù hợp với yêu cầu của ngành, của xã hội, của đất nước trong giai đoạn mới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu về đạo đức của học sinh Trung tâm GDNN- GDTX Huyện N ,
huyện Huyện N , tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng việc giáo dục đạo đức học sinh ở trung
tâm và đề xuất những giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong giai
đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu các tài liệu chính thống, chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; văn kiện Đại hội Đảng các cấp, Luật
Giáo dục, các quy định của nhà nước, ngành giáo dục, của trường... tham khảo một
số tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
3


- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Căn cứ vào tình hình trung tâm và thực
tiễn kinh nghiệm của bản thân trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh để
thực hiện.
- Các phương pháp hỗ trợ khác: Thống kê, bảng biểu, so sánh, phân tích,...
5. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận được chia thành 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục đạo đạo đức học sinh trong
trường THPT
Chương 2: Thực trạng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh Trung tâm
GDNN- GDTX Huyện N trong giai đoạn hiện nay
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh Trung
tâm GDNN- GDTX Huyện N trong giai đoạn hiện nay.

4


B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH
TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số vấn đề cơ bản của giáo dục đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức, giáo dục đạo đức
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm đạo đức. Tuy nhiên có thể hiểu
khái niệm này dưới 2 góc độ.

Góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái xã hội đặc biệt được phản ánh dưới
dạng nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con
người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với xã hội,
giữa con người với nhau và với chính bản thân mình.
Góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những sản phẩm, nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ
trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ
với người khác và với chính bản thân mình.
Giáo dục đạo đức: là một bộ phận quan trọng của quá trình giáo dục. Giáo
dục đạo đức hướng vào việc hình thành những phẩm chất mà từ chúng, xác định
giá trị khách quan của con người. Nó có tác dụng điều chỉnh, định hướng thái độ,
hành vi của con người.
1.1.2.Vị trí giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học
sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học
sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ của cá nhân với xã
hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của cá
nhân với chính mình. Trong tất cả các mặt giáo dục, đạo đức giữ một vị trí hết sức
quan trọng. Bác Hồ đã dạy: “Trong giáo dục khơng những phải có tri thức phổ
thơng mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài khơng có đức,
tham ơ hủ hố có hại cho nước. Có đức khơng có tài như ơng bụt ngời trong chùa,
khơng giúp ích gì được ai” (trích Bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên
các trại hè cấp I, ngày 12 tháng 6 nǎm 1956). Giáo dục đạo đức cịn có ý nghĩa lâu
dài, được thực hiện thường xuyên và trong mọi tình huống chứ khơng phải chỉ
được thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những địi hỏi cấp bách.
Trong nhà trường THPT, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc
biệt coi trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục tồn diện sẽ
được nâng lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác. Để
thực hiện những yêu cầu về nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường
THPT thì cần quan tâm đến:

5


- Vai trò của tập thể sư phạm giữ một vị trí quan trọng có tính quyết định,
trong đó vai trò của Hiệu trưởng, người quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch
giáo dục của nhà trường là quan trọng nhất.
- Vai trò của cấu trúc và nội dung chương trình mơn giáo dục cơng dân cũng
góp phần không nhỏ đối với công tác này.
1.1.2. Mục tiêu giáo dục đạo đức
Chuyển hóa những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những
phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học sinh, hình thành ở học sinh thái độ đúng
đắn trong giao tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của xã hội, thói quen
chấp hành các quy định của pháp luật.
1.1.3. Chức năng giáo dục đạo đức
Làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, sống và làm việc theo
pháp luật, sống có kỷ cương, nề nếp, có văn hóa trong các mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, với xã hội và giữa con người với nhau.
1.1.4. Đặc điểm giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức địi hỏi khơng chỉ dừng lại ở việc truyền thụ khái niệm tri
thức đạo đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình
cảm, niềm tin, hành động thực tế của học sinh. Quá trình dạy học chủ yếu được
tiến hành bằng các giờ học trên lớp; cịn q trình giáo dục đạo đức khơng chỉ bó
hẹp trong giờ lên lớp mà nó được thể hiện thơng qua tất cả các hoạt động có thể có
trong nhà trường.
Đối với học sinh THPT, kết quả của công tác giáo dục đạo đức vẫn còn phụ
thuộc rất lớn vào nhân cách người thầy, gương đạo đức của người thầy sẽ tác động
quan trọng vào việc học tập, rèn luyện của các em.
Để giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả, yếu tố tập thể giữ vai trị hết
sức quan trọng. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chỉ đạt kết quả tốt khi

nócó sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo dục: nhà trường, gia đình và xã
hội. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh đòi hỏi người thầy phải nắm vững các đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, nắm vững cá tính, hồn cảnh sống cụ thể
của từng em để định ra sự tác động thích hợp.
Giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài, phức tạp, địi hỏi phải cơng phu,
kiên trì, liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần.
1.1.5. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT
1.1.5.1. Mục đích, nội dung và nhiệm vụ của công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh ở trường THPT
Mục đích: Giúp học sinh nhận thức được các chuẩn mực đạo đức của xã
hội, rèn luyện kỹ năng, hành vi theo các chuẩn mực đó và hình thành thái độ, ý
thức trong học sinh về đạo đức.
6


Nội dung: Lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, u hồ bình, có tinh thần
cộng đồng và quốc tế, có tinh thần lao động sáng tạo, có thái độ xây dựng và bảo
vệ mơi trường...
Nhiệm vụ: Để hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh, công tác giáo
dục đạo đức nói chung và giảng dạy các mơn giáo dục nói riêng trong nhà trường
phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, hình thành cho học sinh ý thức các hành vi ứng xử của bản thân phải
phù hợp với lợi ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các
chuẩn mực đạo đức được quy định.
Hai là, biến kiến thức đạo đức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để
đảm bảo các hành vi cá nhân được thực hiện.
Ba là, bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm
chất ý chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu đạo đức.
Bốn là, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức để trở thành bản tính tự nhiên
của mỗi cá nhân và duy trì lâu bền thói quen này.

Năm là, giáo dục văn hóa ứng xử đúng mực thể hiện sự tơn trọng và quý
trọng lẫn nhau của con người.
1.1.5.2. Những nguyên tắc giáo dục đạo đức cho học sinh
* Giáo dục học sinh trong thực tiễn sinh động của xã hội
Nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường phải gắn liền với đời sống thực tiễn của
xã hội, của cả nước và địa phương, phải nhạy bén với tình hình chuyển biến của
địa phương và của cả nước, đưa những thực tiễn đó vào những giờ lên lớp, vào
những hoạt động của nhà trường để giáo dục các em học sinh. Ví dụ như chủ
trương của toàn ngành là đổi mới phương pháp dạy học với mục đích phát huy tính
chủ động, sáng tạo, tích cực của cả thầy và trị trong q trình dạy và học nhằm
đem lại kết quả giáo dục cao nhất. Vậy mỗi trường ngay từ đầu năm học phải xây
dựng kế hoạch cụ thể và triển khai thực hiện đem lại hiệu quả cao nhất.
* Giáo dục theo nguyên tắc tập thể
Nguyên tắc này thể hiện ở cả 3 nội dung: Dìu dắt học sinh trong tập thể để
giáo dục; giáo dục bằng sức mạnh tập thể; giáo dục học sinh tinh thần vì tập thể.
Trong một tập thể lớp, tập thể chi đồn có tổ chức tốt, có sự đồn kết nhất
trí thì sức mạnh của dư luận tích cực sẽ góp phần rất lớn vào việc giáo dục đạo đức
cho học sinh. Những phẩm chất tốt đẹp như tinh thần tập thể, tính tổ chức kỷ luật,
tình đồng chí và tình bạn, tinh thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, tính khiêm tốn học
hỏi mọi người bao giờ cũng do giáo dục tập thể hình thành. Để thực hiện tốt
nguyên tắc này, đòi hỏi nhà trường THPT phải tổ chức tốt các tập thể lớp, tập thể
chi đoàn…

7


Nhà trường phải cùng với đoàn làm tốt phong trào xây dựng các chi đoàn
mạnh trong trường học. Bên cạnh đó cần phát huy vai trị tự quản của tập thể và tự
rèn luyện của học sinh, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục để các
em tự thể hiện, tự đánh giá và điều chỉnh trong rèn luyện đạo đức. GVCN phải

chọn ra được ban cán sự có năng lực, uy tín, có sức thuyết phục, có năng lực tổ
chức, điều khiển hoạt động tập thể. Vận động học sinh thực hiện tốt tinh thần phê
và tự phê bình để giúp bạn cùng tiến bộ. Phát động học sinh tồn trường tự giác bỏ
phiếu kín phát giác những học sinh có hành vi vi phạm đạo đức nhưng chưa được
phát hiện. Thực hiện đánh giá xếp loại theo đúng các tiêu chuẩn đã quy định công
khai, công bằng trước tập thể học sinh hàng tuần, hàng tháng, học kỳ và năm học.
* Giáo dục bằng cách thuyết phục và phát huy mạnh mẽ tính tự giác
của học sinh
Phải giáo dục đạo đức bằng cách thuyết phục và phát huy tính tự giác của
học sinh, chứ khơng phải bằng sự cưỡng ép, mệnh lệnh, dọa nạt, biến học sinh
thành những đứa trẻ thụ động, sợ sệt, rụt rè. Có một số giáo viên chủ nhiệm lớp
trong giờ sinh hoạt lớp, khơng biết nói gì với học sinh, khơng biết làm gì cho hết
giờ,… ngoại trừ việc răn đe, xử phạt những học sinh vi phạm nội quy. Chính
những giáo viên này đã tự tạo ra khoảng cách vơ hình với học sinh của mình. Vậy
thì làm sao tìm ra được biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng giáo dục? Nếu
không quan tâm đến các em, không chia sẻ tâm tư các em thì bản thân người giáo
viên sẽ dẫn đến sự dửng dưng, vô cảm - biểu hiện thái độ này không được tồn tại
trong môi trường sư phạm thì chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh mới được
nâng cao. Nguyên tắc này đòi hỏi người thầy phải kiên trì, nhẫn nại, phải có tình
thương đối với học sinh một cách sâu sắc, khơng thể làm qua loa làm cho xong
việc. Mọi đòi hỏi đối với học sinh phải giải thích cặn kẽ, tỉ mỉ cho các em hiểu, để
các em tự giác thực hiện. Ví dụ như khi giáo viên chủ nhiệm giao một nhiệm vụ,
một hoạt động hay buộc các em phải tuân thủ theo một quy định riêng nào đó trong
khi các em chưa hiểu, chưa thông dẫn tới không muốn làm thì tất nhiên kết quả sẽ
khơng cao. Vậy người thầy trong mọi hoàn cảnh, mọi vấn đề phải đặt mình vào vị
trí của các em, để hiểu các em từ đó mọi quyết định hay kế hoạch của thầy đều
xuất phát từ tâm tư nguyện vọng, lợi ích của học sinh thì các em sẽ tự giác, tự
nguyện làm vì thương thầy, kính thầy và vì sự đi lên của cá nhân và tập thể lớp.
Khi học sinh có sai phạm thầy không nên chỉ biết dùng uy quyền để doạ nạt, quát
mắng các em mà phải biết cảm thông, chia sẻ, vừa là thầy nhưng phải vừa là người

bạn để cùng các em vượt qua lúc khó khăn, chán nản. Người thầy phải dùng tình
yêu thương và trách nhiệm của mình để cảm hóa và giúp các em thay đổi theo
hướng tích cực. Khi các em đã nhận ra được những sai lầm của mình và được thầy
thường xuyên quan tâm, nhắc nhở chắc chắn các em sẽ tự giác sửa đổi để khơng
phụ tấm lịng của thầy. Do vậy người thầy muốn giáo dục học trò của mình nên
người thì khơng thể thiếu được chữ “tâm”.
8


* Giáo dục đạo đức cho học sinh phải lấy việc phát huy ưu điểm là
chính, trên cơ sở đó mà khắc phục khuyết điểm
Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT là thích được khen, thích được thầy,
bạn bè, cha mẹ biết đến những mặt tốt, những ưu điểm, những thành tích của mình.
Nếu giáo dục đạo đức q nhấn mạnh về khuyết điểm của học sinh, luôn nêu cái
xấu, những cái chưa tốt trong đạo đức của các em thì sẽ dễ đẩy các em vào tình
trạng tiêu cực, chán nản, thiếu tự tin, thiếu sức vươn lên. Giáo viên bao giờ được
để bụng những lỗi lầm của học sinh, đừng vội nhìn thấy hiện tượng mà đánh giá
học sinh của mình chưa tốt mà hãy cố phát hiện những ưu điểm ẩn sâu trong mỗi
học sinh - đó là một trong những yếu tố góp phần vào thành công trong việc giáo
dục những học sinh cá biệt. Có thể chính các em cũng khơng biết mình có những
ưu điểm đó mà người thầy phải giúp học sinh của mình nhận ra, khích lệ các em
phát triển. Điều này sẽ giúp các em phát huy được điểm mạnh của mình, góp phần
vào xây dựng tập thể vững mạnh mà cịn hình thành ở các em phẩm chất tự tin,
kiên định trước tập thể, khẳng định được khả năng của mình. Với học sinh cá biệt,
thường là các em học rất yếu vì hổng kiến thức, vì ham chơi hơn ham học, vì bị
bạn bè xấu lơi kéo,… Trước khó khăn đó, phải chịu khó, kiên trì nhắc nhở, dỗ dành
các em, phân tích chí tình chí lí, đưa ra mọi tình huống nếu các em khơng theo kịp
bạn bè. Thậm chí đơi lúc phải “khích” các em, chạm vào lịng tự trọng vốn có của
tuổi mới lớn để các em thay đổi hành vi, thái độ theo chiều hướng tích cực. Vậy
địi hỏi người thầy phải hết sức trân trọng những mặt tốt, những thành tích của học

sinh dù chỉ là những thành tích nhỏ, dùng những gương tốt của học sinh trong
trường và những tấm gương người tốt việc tốt khác để giáo dục các em.
* Phải tôn trọng nhân cách học sinh, đồng thời đề ra yêu cầu ngày càng
cao đối với học sinh
Muốn xây dựng nhân cách cho học sinh người thầy cần phải tôn trọng nhân
cách các em. Tôn trọng học sinh, thể hiện lòng tin đối với học sinh là một yếu tố
tinh thần có sức mạnh động viên học sinh khơng ngừng vươn lên rèn luyện hành vi
đạo đức. Khi các em mắc phải sai lầm không nên la mắng, nhục mạ trước mọi
người đặc biệt trước tập thể lớp làm như thế các em sẽ bị tổn thương, tự ti, mặc
cảm và làm cho khoảng cách giữa thầy và trò ngày một xa hơn và hiệu quả giáo
dục sẽ không cao. Trong thực tế đã xảy ra những câu chuyện rất đau lịng xuất phát
từ thầy khơng tơn trọng nhân cách của học sinh. Do đó mỗi thầy cơ giáo phải lấy
đó làm bài học kinh nghiệm để đừng bao giờ phải xảy ra những điều đáng tiếc như
thế, vì ở lứa tuổi các em rất dễ bị tổn thương nếu người thầy khơng khéo léo trong
cư xử, trong lời nói. Khi học sinh tiến bộ về đạo đức cần kịp thời có yêu cầu cao
hơn để thúc đẩy các em vươn lên cao hơn nữa. Trong công tác giáo dục đòi hỏi
người thầy phải yêu thương học sinh nhưng phải nghiêm với chúng, nếu chỉ
thương mà không nghiêm học sinh sẽ nhờn và ngược lại thì các em sẽ sinh ra sợ

9


sệt, rụt rè, khơng dám bộc lộ tâm tư tình cảm, do đó người thầy khơng thể uốn nắn
tư tưởng, xây dựng tình cảm đúng đắn cho học sinh được.
* Giáo dục đạo đức phải phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh THPT
và đặc điểm hoàn cảnh cá nhân học sinh
Ngày nay, với quan điểm dạy học hướng vào người học, thì việc phải hiểu
đối tượng mà người thầy đang tác động vào học sinh, là điều vô cùng cần thiết,
không chỉ cho công việc dạy học, mà cho cả công tác giáo dục. Trong một vài năm
gần đây, do tác động của nhiều yếu tố, vấn đề quan hệ thầy - trị khơng được tn

thủ. Cơng tác giáo dục đạo đức cần phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học
sinh THPT là quá độ, phức tạp và nhiều mâu thuẩn để từ đó hình thức, biện pháp
thích hợp. Cần phải chú ý đến cá tính, giới tính của các em. Đối với từng em, học
sinh nữ, học sinh nam cần có những phương pháp giáo dục thích hợp, khơng nên
đối xử sư phạm đồng loạt với mọi học sinh. Muốn vậy người thầy phải sâu sát học
sinh, nắm chắc từng em, hiểu rõ cá tính để có những biện pháp giáo dục phù hợp.
Những đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng ở lứa tuổi học sinh THPT cho thấy,
lứa tuổi này, đúng như nhận định của nhiều nhà nghiên cứu trước đây, là lứa tuổi
khó dạy, đặc biệt với học sinh nam. Nhưng cũng như các khuyến cáo đã đưa ra, các
em sẽ phát triển bình thường hay khơng trong tương lai phụ thuộc vào chính sự
quan tâm và cách giáo dục của người lớn. Vấn đề chỉ thực sự được giải quyết kết
hợp từ nhiều phía: nhà trường, gia đình, xã hội. Với tư cách là nơi giáo dục (theo
nghĩa rộng) chính thống cho các em - nhà trường, mà cụ thể là các thầy cô giáo cần
biết về sự phát triển của học sinh, vận dụng chúng trong giao tiếp, trong giải quyết
các vấn đề liên quan đến các sản phẩm giáo dục của mình. Có như vậy, quan hệ
thầy - trị mới trở thành nền tảng vững chắc, để từ có những phương pháp giáo dục
phù hợp. Bên cạnh đó thì để công tác giáo dục đạo đức đạt kết quả cao thì người
thầy phải quan tâm đến hồn cảnh của mỗi em và từ đó sẽ kết hợp các lực lượng
giáo dục khác trong nhà trường tạo điều kiện để các em có thể yên tâm mà học tập
và rèn luyện tốt.
* Trong công tác giáo dục đạo đức, người thầy cần phải có nhân cách
mẫu mực
Kết quả cơng tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT phụ thuộc rất
lớn vào nhân cách của thầy cô giáo. Lời dạy của thầy cô dù hay đến đâu, phương
pháp sư phạm dù khéo léo đến đâu cũng không thay thế được những ảnh hưởng trực
tiếp của nhân cách người thầy với học sinh. Lúc sinh thời Bác Hồ đã có lời dạy
chúng ta về rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân… Giáo viên phải chú ý
cả tài, cả đức, tài là văn hóa chun mơn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức
thì giáo viên phải có đức… Cho nên thầy giáo, cơ giáo phải gương mẫu, nhất là đối
với trẻ con. Và C.Mác cũng đã có quan niệm: “Bản thân nhà giáo dục cũng cần

phải được giáo dục”. Trong mọi giai đoạn lịch sử, người thầy bao giờ cũng được xã
hội tôn vinh và kính trọng. Nghề giáo được coi là một trong những nghề cao quý
10


nhất trong những nghề cao quý. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nhiệm vụ thầy
giáo rất vẻ vang, vì nếu khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục… Khơng có giáo
dục thì nói gì đến kinh tế, văn hóa”. Bác xem việc dạy học là một nghề đào luyện
những thế hệ con người xây dựng xã hội. Tuy sự cống hiến của thầy giáo là rất thầm
lặng nhưng nếu trở thành một người thầy giáo tốt là điều vơ cùng hữu ích và rất mực
vẻ vang. Vì thế, Người dạy: Người thầy giáo tốt là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi
không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo
tốt là những anh hùng vơ danh. Ngồi ra, Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ, người làm thầy
giáo phải luôn là tấm gương không ngừng học tập để nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ; phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để làm tấm gương sáng
cho học trò noi theo, để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới trên mọi phương diện.
1.2. Một số quan điểm về đạo đức
1.2.1. Một số quan điểm chung về đạo đức
Đạo đức là vấn đề được các nhà tư tưởng và triết học đề cập đến từ lâu, được
xã hội mọi thời đại cả ở phương Tây lẫn phương Đông quan tâm và coi trọng.
Ở phương Đông, Khổng Tử (551-479 TCN), nhà triết học lớn, nhà giáo dục lớn
của Trung Quốc đã khai sinh ra Nho giáo với quan điểm bồi dưỡng người có “đức
nhân”, người “quân tử” có đủ phẩm cách và năng lực thi hành “đạo lớn”. Ông đã viết
tác phẩm bất hủ “Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu”, trong đó rất xem trọng việc
giáo dục đạo đức.
Ở phương Tây, Nhà triết học Socrate (470 - 399 TCN) coi cái gốc của đạo đức
là tính thiện, đạo đức và sự hiểu biết qui định nhau, tức là có đạo đức là nhờ sự hiểu
biết và con người sau khi có hiểu biết mới trở thành đạo đức. Aristoste (384 -322
TCN) cho rằng thượng đế khơng áp đặt để có cơng dân hoàn thiện về đạo đức, mà
việc phát hiện nhu cầu trên trái đất mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan

hệ đạo đức. Petxtalôdi (1746 – 1827), một trong những nhà giáo dục tiêu biểu của thế
kỷ XIX, đã đánh giá rất cao vai trò của giáo dục đạo đức. Ông cho rằng nhiệm vụ
trung tâm của giáo dục là giáo dục đạo đức cho trẻ em trên cơ sở chung nhất là tình
yêu về con người. Tình yêu ấy bắt nguồn từ gia đình, trước hết là đối với cha mẹ, anh
chị em rồi đến bạn bè và mọi người trong xã hội.
Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam cũng được các nhà
giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Điều này thể hiện ở các cơng trình như "Giáo trình
đạo đức" của Trần Đăng Sinh – Nguyễn Thị Thọ; tác phẩm “Đạo hiếu nhân cách của con
người Việt Nam” của Phạm Khắc Chương; “Những vấn đề giáo dục đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta” của Nguyễn Quang Uẩn và Nguyễn Văn Phúc;
“Phương pháp giáo dục cho trẻ em hư” của Phạm Công Sơn - Tô Quốc Tuấn (1997),…
Các cơng trình nghiên cứu, các kinh nghiệm trong giáo dục đạo đức nói chung
khơng thể áp dụng vào từng địa phương, từng trường cụ thể, thậm chí từng lớp học,
từng trường hợp học sinh với các đặc điểm khác nhau. Vấn đề đạo đức cũng là một
11


phạm trù nhạy cảm, cần cá biệt hóa. Do đó càng cụ thể càng có tác dụng trong cơng
tác giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng.
1.2.2. Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đạo đức
Với cách hiểu: đạo đức được định nghĩa như sau: đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều
chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan
hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Mác và Anghen cho rằng, đạo đức là hình thái ý thức xã hội phản ánh một
lĩnh vực riêng biệt trong tồn tại xã hội của con người. Và cũng như các quan điểm
triết học, chính trị, nghệ thuật, tơn giáo điều mang tính chất của kiến trúc thượng
tầng. Chế độ kinh tế xã hội là nguồn gốc của quan điểm này thay đổi theo cơ sở đã
đẻ ra nó. Sự phát sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự

phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
Các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung để cập nhiều đến đạo
đức với vai trò là đạo đức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong xây dựng
đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Các khái niệm về đạo đức đều chỉ đến đạo
đức xã hội, đạo đức cách mạng, giai cấp, xét trong mối quan hệ với chính trị.
1.2.3. Một số quan điểm của Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước về đạo đức
Tiếp thu truyền thống của dân tộc, của tinh hoa nhân loại, của chủ nghĩa
Mác-Lênin về đạo đức cũng như từ thực tiễn hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã
đưa ra những quan điểm về đạo đức vừa ở tầm lí luận vĩ mơ, vừa cụ thể đối với
hồn cảnh xã hội, đặc điểm văn hóa, con người Việt Nam. Người chỉ ra quan điểm
về vai trò của đạo đức cách mạnh, về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con
người Việt Nam trong thời đại mới, rất cụ thể như: trung với nước hiếu với dân, nói
đi đơi với làm, cần kiệm liêm chính, hay Vì sự nghiệp mười năm thì phải trồng cây,
vì sự nghiệp trăm năm thì phải trồng người, hay có tài mà khơng có đức là người
vơ dụng... Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ chủ tịch ln đề cao vài trị của
đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng.
Đảng ta tiếp thu và cũng ln đề cao vai trị của đạo đức, của giáo dục đạo
đức trong giáo dục:
Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã
nêu rõ: Nhiệm vụ mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con
người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cơng
nghiệp hố - hiện đại hố đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hố của
dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, phát huy tiềm năng
của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đờng và phát huy tính tích cực
của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và cơng nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo,
12


có tính tổ chức kỷ luật cao là những con người kế thừa và xây dựng chủ nghĩa xã

hội vừa hồng vừa chuyên.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo cũng đã nêu: Phát triển giáo dục và
đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức,
lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của
văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và
nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hờ Chí Minh.
Những định hướng, chủ trương của Đảng về giáo dục, đào tạo là căn cứ để
Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh mọi hoạt động
liên quan đến giáo dục, đào tạo:
Điều 2 chương I của Luật Giáo dục nêu rõ: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo
con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
hình thành và bời dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Trong Điều 23 mục 2 chương II Luật Giáo dục cũng khẳng định: "Mục tiêu của
giáo dục phổ thơng là giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
1.3. Vai trò của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
Hiện nay, nước ta đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi
toàn xã hội. Sự nghiệp giáo dục được coi trọng là “Quốc sách hàng đầu” góp phần
tích cực trong sự thắng lợi của cơng cuộc đổi mới này vì thế, cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh cần được coi trọng đúng mực. Giáo dục
chính trị, tư tưởng đạo đức trước hết, phải tăng cường giáo dục thế giới quan khoa
học. Trên cơ sở tăng cường thế giới quan khoa học cần tăng cường giáo dục tư

tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa cho học sinh. Qua giáo dục đạo đức phải nâng
cao lòng yêu nước, tăng cường ý thức lao động và tự giác trong lao động (động cơ,
thái độ đúng đắn, chăm chỉ, nỗ lực vươn lên làm chủ khoa học cơng nghệ). Bên
cạnh đó cũng phải đồng thời tăng cường giáo dục pháp luật, giáo dục lòng yêu
thương con người và hành vi ứng xử có văn hoá (biết ứng xử lễ phép tế nhị, lịch
sự). Điều này địi hỏi ngành giáo dục phải tăng cường cơng tác quản lý giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng và phát triển toàn diện ngành giáo dục trong giai đoạn

13


hiện nay, đồng thời phải có chiến lược, sách lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật,
xu thế và xứng tầm thời đại.
Từ thực tiễn giáo dục hiện nay cho thấy, việc giáo dục đạo đức cho học sinh
không những trở thành u cầu bắt buộc mà cịn đóng vai trị quyết định đến thành
cơng trong giáo dục và đào tạo. Khơng có ngơi trường nào có thể thành cơng mà
không coi trọng và nỗ lực trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.

Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG TÂM GDNN - GDTX HUYỆN N TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Đặc điểm tình hình Trung tâm GDNN- GDTX Huyện N
2.1.1. Tình hình chung
Trung tâm GDNN- GDTX Huyện N được thành lập năm 1995, có tên là
trung tâm GDTX Huyện N . Trải qua gần 25 năm xây dựng và phát triển trung tâm
đã có 2 lần đổi tên: năm 2006 với chức năng nhiệm vụ thay đổi vừa dạy văn hóa
vừa liên kết dạy nghề cho học sinh, trung tâm được đổi tên thành trung tâm GDTX
- DN Huyện N ; đến năm 2016 với chức năng nhiệm vụ mới trung tâm được đổi
tên thành Trung tâm GDNN - GDTX Huyện N .
Trong những năm học gần đây, số lượng học sinh ngày càng tăng do nhu cầu

học tập thường xuyên, học tập suốt đời của nhân dân và học sinh ngày càng cao. Năm
học 2019 - 2020 trung tâm có tổng số 816 học sinh được biên chế vào 18 lớp học văn
hóa và 33 lớp học nghề liên kết. Hiện tại trung tâm có 21 cán bộ giáo viên, nhân viên,
Ban giám đốc có 03 người, cơng tác giáo dục đạo đức được giao cho 01 phó giám đốc
trực tiếp phụ trách.
Về cơ sở vật chất: hiện nay, số phòng học, phòng chức năng còn thiếu, chưa
đáp ứng nhu cầu tối thiểu của người học (38 phòng học, các phòng chức năng và
xưởng thực hành nghề), các điều kiện khác còn rất thiếu thốn: sân bãi, cơ sở vật
chất cũ, xuống cấp...
Về chất lượng giáo dục: luôn là một trong những trung tâm đứng đầu của
tỉnh, có thành tích cao về giáo dục, được tặng bằng khen của Chủ tịch tỉnh, nhiều
cờ thi đua, giấy khen.
Về chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh ngày
càng được quan tâm: Xếp loại hạnh kiểm khá, tốt ngày càng tăng, khơng có học
sinh xếp loại hạnh kiểm yếu phải rèn hè; có nhiều tấm gương điển hình về đạo đức
như: nhặt được của rơi trả người đánh mất, giúp đỡ những người có hồn cảnh khó
khăn trong trung tâm, trong địa bàn huyện; khơng có học sinh vi phạm về an ninh
trật tự, ATGT; tình trạng bạo lực học đường không xảy ra trong những năm gần
đây...
14


2.1.2. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức
2.1.2.1. Kết quả xếp loại hạnh kiểm 3 năm học
Qua theo dõi kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh, thấy rằng kết quả xếp
loại hạnh kiểm khá, tốt ngày một tăng, cụ thể như sau:
Tốt
Khá Trung bình Yếu
Tổng số
học sinh SL (%) SL (%) SL (%) SL (%)


Số
TT

Năm học

1

Năm học 2017-2018

782

321 41.1 352

2

Năm học 2018-2019

844

377 44.67 400 47.4 67

3

Học kì 1 (2019-2020)

816

367 45


45

109 13.9

389 47.6 60

0

0

7.93

0

0

7.4

0

0

Từ năm học 2017-2018 đến năm học này, kết quả hạnh kiểm thì tỉ lệ học
sinh xếp loại hạnh kiểm khá, tốt ngày càng tăng, tỉ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm
trung bình giảm. Đó là thành quả của cơng tác đổi mới giáo dục đạo đức cho học
sinh trong những năm gần đây. Tuy nhiên, qua theo dõi công tác chủ nhiệm cho
thấy nhiều giáo viên chủ nhiệm lớp khi xếp hạnh kiểm cho học sinh còn tư tưởng
“nể nang”, “thương học sinh”, “giơ cao đánh khẽ”... nên kết quả xếp loại mang
tính tương đối.
2.1.2.2. Hoạt động quản lí, chỉ đạo

Giao cho 01 phó giám đốc trực tiếp phụ trách cơng tác giáo dục đạo đức,
giáo viên chủ nhiệm.
Việc xếp loại hạnh kiểm do giáo viên chủ nhiệm lớp quyết định căn cứ vào
các quy định hiện hành, mức độ phấn đấu và rèn luyện của học sinh.
Lực lượng phối hợp tổ chức: Đồn thanh niên; đội cờ đỏ, thơng qua kết quả
hoạt động thi đua giữa các lớp.
Căn cứ xếp loại: dựa vào các văn bản, quy định hiện hành, như: Thông tư số
26/2014/TT-BGD&ĐT; Thông tư 88/1988/TT-BGD&ĐT về hướng dẫn kỉ luật học
sinh; Quyết định số 02/2007/QĐ-BGD& ĐT ban hành Quy chế đánh giá, xếp loại
học viên theo học Chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở và cấp
trung học phổ thông; Quyết định số 23/VBHN-BGDĐT ngày 29/8/2014 ban hành
quy chế đánh giá, xếp loại học viên theo học Chương trình giáo dục thường xuyên
cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông; nội quy của trung tâm, lớp; căn cứ
vào những biểu hiện trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh.
2.1.2.3. Công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
Giáo viên chủ nhiệm lớp được lựa chọn dựa trên nhiều tiêu chí: số giờ dạy,
năng lực chủ nhiệm, có uy tín với học sinh, ...
15


Giáo viên chủ nhiệm, ngồi giờ dạy bộ mơn tại lớp mình chủ nhiệm cịn trực
tiếp lên lớp 02 buổi đầu giờ/tuần; gặp gỡ lớp 02 buổi (sinh hoạt, chào cờ). Qua
thực tế cho thấy, hiện nay, 18 lớp đều có nội quy thơng qua ý kiến của học sinh.
Việc xếp loại học sinh cịn có sự cảm tính, chưa có nhiều cách làm mới. Đặc biệt
có khá nhiều học sinh ở dạng “đặc biệt” về đạo đức, ham chơi, lười học,... mà giáo
viên chủ nhiệm chưa có các biện pháp hữu hiệu để giáo dục.
2.1.2.4. Sự tham gia của giáo viên bộ môn
Giáo viên bộ môn lên lớp, chỉ dừng ở việc giáo dục đạo đức cho học sinh
thông qua các hoạt động lồng ghép vào nội dung bài học chính khóa, chủ yếu là
bằng lời nói nên hiệu quả không cao.

Công tác phối hợp giữa giáo viên bộ mơn với giáo viên chủ nhiệm lớp cịn
có phần chưa tốt, thậm chí hiện tượng giáo viên bộ mơn chỉ quan tâm tới việc dạy
học mà quên mất chức năng giáo dục của mình, thậm chí khơng quan tâm nhắc
nhở những vấn đề lệch chuẩn nhỏ về nền nếp ra vào lớp, học tập,... cần hình thành
thói quen chuẩn cho học sinh: giờ giấc, lao động, vệ sinh, ý thức học tập, trang
phục,... là khá phổ biến.
2.1.2.5. Các hoạt động ngoại khóa, cơng tác phối hợp
Hoạt động ngoại khóa, phong trào: hằng tháng đều có các chủ đề giáo dục
ngồi giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa do các tổ chun mơn, đặc biệt là Đồn
thanh niên đóng vài trị nòng cốt. Số lượng các hoạt động là nhiều, tuy nhiên số
học sinh trực tiếp tham gia là ít, vẫn chủ yếu do thầy cô giáo thực hiện, tổ chức nên
chưa có tác dụng nhiều, đơi khi cịn mang nặng tính thành tích để báo cáo.
Các hoạt động lao động, hướng nghiệp: chưa thu hút được sự quan tâm của
học sinh, hoạt động khơng hiệu quả và mang tính hình thức cao.
Các hoạt động phối hợp với các tổ chức, cá nhân, với địa phương: thực hiện
chưa thực sự tốt, khơng có nhiều hoạt động phối hợp. Mới chỉ dừng ở việc mỗi
năm có 01 buổi tuyên truyền của các lực lượng: cơng an, tịa án, tư pháp, y tế về
sức khỏe sinh sản...
Với cha mẹ học sinh: hoạt động phối hợp thực hiện thông qua giáo viên chủ
nhiệm, được thực thực hiện khá thường xuyên, nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu
thơng báo tình hình của học sinh. Việc phối hợp này chưa tìm ra tiếng nói chung,
cịn nhiều cha mẹ học sinh thiếu quan tâm đến con cái, phó mặc cho nhà trường.
2.2. Đánh giá chung
2.2.1. Kết quả đạt được
Kết quả đạt được về phía học sinh là phần lớn các em có được những hiểu
biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức, từng buớc hình thành thái độ tự

16



trọng, tự tin vào khả năng của bản thân, có trách nhiệm với hành động của mình, u
thương, tơn trọng con người, mong muốn đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.
Đa số học sinh có đạo đức tốt, biết nghe lời cha mẹ, thầy cô, nghiêm chỉnh
chấp hành các quy định của lớp, nội quy của trường, biết sống tốt và sống đẹp.
Qua các số liệu thống kê và quan sát: học sinh có chiều hướng phát triển tốt
về mặt tình cảm đạo đức, các em rèn luyện được kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự
nhận thức đúng sai, tự hiểu và vận dụng được một số kiến thức pháp luật trong
cuộc sống hàng ngày, khơng có học sinh vi phạm nghiêm trọng về đạo đức.
Công tác chỉ đạo, điều hành chung, công tác giáo viên chủ nhiệm đã bước đầu
có những đổi mới để phù hợp với tình hình mới của xã hội.
2.2.2. Hạn chế
Một số bộ phận học sinh còn chưa ngoan, thường hay vi phạm nội quy, có
biểu hiện chán nản, khơng thích học, thường xun gây mất trật tự trong lớp, nói
tục, vơ lễ với thầy cơ, nói dối thầy cơ và bạn bè, bỏ học chơi điện tử, tham gia một
số tệ nạn, thậm chí vay lãi với số tiền rất lớn.
Số học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức vẫn còn nhiều, một số giáo
viên chưa thật sự quan tâm đến giáo dục đạo đức thông qua bài học trên lớp, cịn
thờ ơ vơ trách nhiệm khi thấy học sinh có dấu hiệu vi phạm đạo đức.
Chưa phối hợp chặt chẽ ba môi trường trong công tác giáo dục đạo đức học sinh,
trong số đó nhiều bậc cha mẹ học sinh thiếu quan tâm phối hợp với nhà trường.
Công tác phối hợp vào cuộc của các lực lượng trong xã hội: Đồn thanh niên
ở cơ sở, chính quyền địa phương, lực lượng công an... chưa thực sự hiệu quả. Công
tác giáo dục chủ yếu phó thác cho nhà trường thực hiện.
Nhiều giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn chưa coi trọng cơng tác giáo
dục đạo đức do đó cơng tác phối kết hợp trong quản lí nền nếp chưa tốt. Hầu hết
trách nhiệm trong quản lí nền nếp do đoàn thanh niên thực hiện. Điều này cũng dẫn
tới sự quan tâm tới học sinh, tới công tác kỉ luật, phối hợp với gia đình là chưa tốt;
hay sự dễ dãi, nể nang, thiếu công bằng trong đánh giá học sinh cũng là những rào
cản rất lớn trong giáo dục đạo đức.
Điều kiện hiện nay, sĩ số học sinh/lớp lớn, số lớp lớn nên cũng khó khăn cho

cơng tác quản lí chung của nhà trường (trung tâm).
Đặc trưng của trung tâm là vừa học văn hóa, vừa học nghề nên quỹ thời gian
hằng ngày chủ yếu dành cho 2 hoạt động này. Các hoạt động ngoại khóa, bổ trợ
thiếu cả về thời gian, nội dung và phương pháp thực hiện.
Các điều kiện về cơ sở vật chất, các hoạt động ngồi giờ dành cho cơng tác
giáo dục đạo đức cịn hạn chế, thiếu thốn nhiều, chưa được tạo điều kiện tương
xứng với chức năng, nhiệm vụ.
17


2.2.3. Ngun nhân
* Về phía bản thân học sinh: Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.
Nhiều trường hợp học sinh có biểu hiện chịu tu dưỡng, rèn luyện trong q
trình học tập. Có những học sinh lại có những biểu hiện tâm lý khơng bình thường,
thiểu năng về trí tuệ ở mức độ khó nhận biết, khiếm khuyết nhẹ về các giác quan,
nhất là thị giác và thính giác ở mức độ nhẹ, có trường hợp biểu hiện nhiễu về mặt
tâm, sinh lý hoặc hơi dị dạng về hình thể. Những biểu hiện này ở mức độ thấp,
nhiều khi y học chưa phát hiện kịp hoặc cha mẹ các em không nhận biết rõ, hay do
hồn cảnh nào đó đã phải cho con em vào học với những trẻ em bình thường, dần
dần những khuyết tật đó bộc lộ gây khó khăn cho các em trong học tập và rèn
luyện đạo đức.
Do những yếu tố tập nhiễm phát sinh, bộc lộ trong quá trình phát triển nhân cách
trong quá trình lớn lên:
+ Do nguồn gốc nội sinh, do những đặc điểm được di truyền từ thế hệ
trước. Trong đó, có thể có một số em do tâm sinh lý phát triển quá nhanh so với bạn
bè, nên đã tạo ra tâm lý tự ti, sống co mình, khơng thích tham gia các hoạt động tập
thể.
+ Do mơi trường, hồn cảnh sống, hậu quả của chiến tranh, tác động ngẫu
nhiên của các điều kiện khách quan. Ý thức đạo đức của học sinh chưa cao, kỷ

năng vận dụng chuẩn mực đạo đức còn thấp, chưa phân định được ranh giới giữa
cái xấu và cái tốt. Khả năng tự chủ chưa cao, khi vi phạm đạo đức sửa chữa chậm
hoặc không chịu sửa chữa.
* Về phía gia đình: Có nhiều ngun nhân từ phía gia đình tác động đến
quá trình giáo dục đạo đức của học sinh, cụ thể:
Do sự bất ổn của gia đình, cha mẹ đi làm ăn xa các em phải ở với nội, ngoại
thiếu sự quan tâm và quản lý các em.
Nhận thức phiến diện, lệch lạc, sai lầm hoặc thiếu tri thức về phương pháp
chăm sóc, giáo dục trẻ em cho nên nuông chiều quá mức, thoả mãn mọi nhu cầu
của trẻ, nhất là nhu cầu vật chất. Hoặc sử dụng quyền uy và vị thế của cha mẹ đối
với con cái một cách cực đoan.
Tấm gương phản diện của cha mẹ và những người thân trong nghề nghiệp,
công tác, lao động và trong đời sống gia đình; bố mẹ mâu thuẫn, hay cãi vã...
Học sinh bị lâm vào cảnh ngộ éo le do mồ cơi hoặc do tình cảm bị chia sẻ,
bố mẹ chia tay nhau.
Sử dụng những biện pháp sai lầm, thiếu tính sư phạm: nặng về răn dạy,
thuyết giáo ít có tính thuyết phục, khơng tạo cơ hội cho con cái được rèn luyện
trong lao động, sinh hoạt và trong đời sống cộng đồng; có tình thương một chiều hoặc
quá nghiêm khắc, dùng sức mạnh của vũ lực thơ bạo, xúc phạm đến thể xác và lịng tự
18


trọng của các em; cấm đoán trẻ giao tiếp, quan hệ, hoặc sử dụng những biện pháp khen
thưởng kích thích sự ham muốn về vật chất, kích thích động cơ vụ lợi.
Do cách giáo dục con cái không thống nhất giữa cha và mẹ hoặc giữa người
lớn trong gia đình.
* Ngun nhân về phía nhà trường
Các nhà giáo dục có những định kiến thiếu thiện cảm, thiện chí đối với
những học sinh có khó khăn. Các thầy, cơ giáo thường có mặc cảm với những học
sinh này và có những ấn tượng về các thiếu sót, sai lầm của các em; Khơng có giả

thiết lạc quan, khơng nhìn nhận chúng với tư cách là những đứa trẻ hướng về
tương lai.
Giáo viên thiếu kinh nghiệm và phương pháp giáo dục: Qua dễ dãi hoặc quá
khắt khe đối với các em. Vận dụng các phương pháp giáo dục chưa phù hợp, chưa
kịp thời, đặc biệt là những phương pháp giáo dục cá biệt đối với những học sinh có
khó khăn.
Giáo viên, cán bộ quản lý lạm dụng quyền lực: Ở đây nhiều giáo viên đang
lầm lẫn và khá ngộ nhận về khái niệm “quyền lực” của mình, thay vì sử dụng
“quyền uy”. Trong đó “quyền lực” với những cách hiểu, cách hành động và xử lí
mang nặng tính áp đặt: Tự coi mình là bậc bề trên có quyền lực “bất khả xâm
phạm” trong giáo dục học sinh; Bất chấp những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến đề xuất
xứng đáng của các em; Có hành vi, thái độ trấn áp thơ bạo, thiếu công minh, thiếu
tế nhị xúc phạm đến nhân cách của học sinh.
Giáo viên thiếu hiểu biết, thiếu tình thương và sự cảm thông với học sinh, thể
hiện ở một số biểu hiện sau:
+ Thiếu hiểu biết về tâm lý, cá tính và những mặt tích cực trong nhân cách
của học sinh có khó khăn.
+ Khơng có sự giao cảm, đờng cảm với những thiệt thịi mất mát, những bất
hạnh lớn mà các em gặp phải.
+ Thờ ơ, lạnh nhạt đối với những em gặp khó khăn nhưng lại sởi lởi với
những học sinh khác.
Giáo viên có thể thiếu gương mẫu, mơ phạm trong quan hệ giáo dục và có
những biểu hiện tiêu cực, phản tác dụng giáo dục trong cuộc sống: Lời nói khơng
đi đơi với việc làm; nhân cách khơng phải là hình mẫu mơ phạm, khơng phải là
tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Việc đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, khen thưởng và kỷ luật thiếu khách
quan, cơng bằng và chính xác, cụ thể như:
+ Thiên vị, định kiến trong đánh giá. Không chú ý khuyến khích những nhân
tố tích cực dù là nhỏ bé ở học sinh của mình.
+ Khen thưởng, kỷ luật không phù hợp dẫn đến không động viên được sự cố

gắng của các em mà lại gây phản ứng đối phó, tiêu cực.
19


Giáo viên và các tổ chức giáo dục học sinh chưa có sự thống nhất, cụ thể là:
+ Khơng nhất quán và thiếu thống nhất giữa các nhà sư phạm.
+ Khơng có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các tổ chức, đoàn thể xã hội trong
nhà trường để cùng hướng về một mục tiêu giáo dục.
Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong cơng tác
giáo dục học sinh, trong đó nhà trường đóng vai trị chủ đạo: Có nhiều hạn chế trong
sự phối hợp với gia đình học sinh; Bng lỏng mối quan hệ phối hợp với xã hội.
Ngồi ra cịn ngun nhân, lượng kiến thức của nhà trường chưa phù hợp
với học sinh, sự quá tải về chương trình khiến học sinh khơng tiếp thu hết những
kiến thức đó, khơng thực hiện hết được các yêu cầu của giáo viên nên dẫn đến sự
chán nản, sợ học và trở nên kém cỏi, chống đối.
* Những nguyên nhân về phía xã hội.
Tác động hai mặt của cơ chế thị trường tạo ra sự phân hoá trong xã hội: Phân hoá
giữa giàu sang, sung sướng với nghèo đói, khổ cực; phân hố về trình độ, năng lực
trí tuệ.
Tác động của lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền, vật chất hơn giá trị
tinh thần, nhân bản: Chạy đua theo lối sống xa hoa, hưởng lạc; lấy đồng tiền, tài
sản làm thước đo phẩm chất, nhân cách.
Ảnh hưởng tiêu cực của các tệ nạn xã hội: Ảnh hưởng của các ấn phẩm văn
hoá đồi trụy, của các trò chơi điện tử trên mạng internet; Lối sống bng thả,
nghiện ngập, thực dụng; Tác động có chủ định của các thế lực đối lập bằng cả vật
chất lẫn tinh thần đến thế hệ trẻ.
Ảnh hưởng tiêu cực của nhóm bạn bè xấu, trẻ lang thang: Ảnh hưởng từ tự
phát đến tự giác; do bị phong toả, cưỡng bức, doạ nạt.
Sự phối hợp không đồng bộ, thiếu thống nhất giữa các tổ chức nhà trường,
gia đình và xã hội trong giáo dục học sinh: Khơng có chương trình hoạt động thống

nhất để cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau, thậm chí có lúc có những phương thức hoạt động
phản tác dụng giáo dục.
Do các cấp lãnh đạo và xã hội coi việc giáo dục ở các trường là kết quả học
tập văn hoá nhiều hơn là chất lượng về đạo đức; do ảnh hưởng của gia đình và mơi
trường xã hội; do GVCN thiếu kinh nghiệm trong thực hiện biện pháp giáo dục,
thiếu quan tâm đến học sinh.
Nhìn chung, việc xác định những nguyên nhân tác động đến sự phát triển con
người nói chung, học sinh có khó khăn nói riêng là một vấn đề khá phức tạp. Vì vậy
mà người cán bộ quản lý, nhà giáo dục cần hết sức thận trọng và khách quan khi chỉ
đạo xác định nguyên nhân để từ đó có những tác động phù hợp tới từng đối tượng.
Những nguyên nhân đó đan xen, chồng chéo, tác động qua lại với nhau rất biện
chứng. Nếu học sinh gặp khó khăn do một trong bốn nguyên nhân cơ bản trên, nhà
giáo dục chỉ cần xác định đúng nguyên nhân và tìm cách khắc phục thì tỉ lệ thành
20


cơng sẽ rất cao. Nếu học sinh gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân kết hợp lại thì
việc uốn nắn, giáo dục các em sẽ rất nan giải, đòi hỏi sự kiên trì kết hợp nhiều biện
pháp cùng với những tác động từ nhiều phía thì mới có thể thành công.
2.2.4. Bài học kinh nghiệm
Công tác giáo dục đạo đức phải đặc biệt được coi trọng. Hiện tượng học sinh
học kém, ý thức rèn luyện không tốt chủ yếu là do vấn đề đạo đức, do đó ảnh
hưởng trực tiếp đến công tác giáo dục chung của trung tâm.
Công tác phối hợp giữa các lực lượng, đặc biệt là với cha mẹ học sinh phải
được đặc biệt coi trọng.
Việc xác định tư tưởng của nhà quản lí, của tập thể cán bộ giáo viên về tầm
quan trọng của giáo dục đạo đức, thơng qua đó đưa ra các biện pháp, chiến lược cụ thể
là việc làm quan trọng nhất, quyết định thành công trong công tác giáo dục đạo đức.
Các hoạt động chung của nhà trường, các hoạt động phong trào cần có định
hướng chung, theo một mục đích cụ thể, tránh hiện tượng làm theo thành tích, chưa

quan tâm thu hút người học như hiện nay.
Công tác đánh giá, phân loại học sinh, quan niệm về xếp loại đạo đức của
học sinh cần phải thay đổi.

21


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH TRƯỜNG THPT HUYỆN N TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Một số mục tiêu, phương hướng về giáo dục đạo đức cho học sinh
3.1.1. Về duy trì sĩ số, tỉ lệ xếp loại hạnh kiểm
Phối hợp đồng bộ các giải pháp nhằm duy trì các chỉ tiêu:
+ Tỉ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm Tốt + Khá: từ 85%; tỉ lệ hạnh kiểm yếu:
dưới 0,5%. Trong đó lớp 12 khơng có học sinh xếp loại yếu về hạnh kiểm.
+ Duy trì tỉ lệ học sinh bỏ học dưới 0,5%
3.1.2. Về duy trì mối quan hệ với gia đình
Thực hiện tốt thơng tư 55 về Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh.
Xây dựng hoàn thiện quy chế phối hợp 3 mơi trường: gia đình - nhà trường xã hội.
Duy trì việc thăm gia đình học sinh: 100% đối với giáo viên chủ nhiệm lớp.
Duy trì kênh liên lạc trực tiếp của Ban giám đốc trung tâm với phụ huynh.
3.1.3. Về xây dựng các bộ tiêu chí
Hồn thiện xây dựng bộ tiêu chí về văn hóa ứng xử trong nhà trường; Quy
chế phối hợp giữa các lực lượng trong nhà trường: Cơng đồn - Đồn thanh niên Ban giám hiệu - Bảo vệ - Giáo viên chủ nhiệm - Giáo viên bộ môn.
Xây dựng quy chế hoạt động riêng của từng lớp: 100% các lớp có quy chế, giao
ước hoạt động, do tập thể học sinh cùng giáo viên chủ nhiệm xây dựng, đề xuất.
3.1.4. Về việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa, ngồi giờ lên lớp
Đổi mới các hoạt động giáo dục, hoạt động tập thể, học đi đôi với hành, lý
thuyết gắn với thực tiễn... thu hút sự tham gia của học sinh, giúp học sinh có được

những kỹ năng sống cơ bản.
3.1.5. Nâng cao nhận thức, vai trị của cán bộ quản lí, giáo viên chủ nhiệm
trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ của các lực lượng giáo dục trong
trung tâm đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
3.1.6. Tạo dựng được mơi trường học tập có nề nếp, kỷ cương; có chất lượng
giáo dục cao, để mỗi học sinh đều có cơ hội phát triển tài năng và tư duy sáng
tạo. Nhà trường có uy tín về chất lượng giáo dục, là mơ hình giáo dục hiện đại,
tiên tiến phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại.
Thực hiện được nội dung này vừa giúp trung tâm ngày càng phát triển, đồng
thời thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.

22


3.1.7. Tăng cường công tác giáo dục kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động, đặc
biệt với đối tượng học sinh lớp 12.
Thực hiện tốt nội dung này nhằm đảm bảo tính liên thơng trong giáo dục,
góp phần cùng tồn xã hội thực hiện tốt mục tiêu giáo dục toàn diện
3.1.8. Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện, đặc biệt là chất
lượng giáo dục đạo đức và chất lượng văn hoá. Đổi mới phương pháp dạy học
và đánh giá học sinh phù hợp với mục tiêu, nội dung chương trình và đối tượng
học sinh. Phấn đấu 100% học sinh lớp 12 tốt nghiệp trung học phổ thông; 70% đỗ
đại học cao đẳng; tất cả lao động sau khi rời nhà trường đều xác định học nghề.
Đây là cũng là mục tiêu, phương hướng chung của trung tâm trong giai đoạn
hiện nay, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức
góp phần cùng địa phương thực hiện tốt công tác giáo dục - đào tạo.
3.2. Một số giải pháp cụ thể
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nước (Bộ giáo dục và đào

tạo, UBND tỉnh; sở Giáo dục và đào tạo; UBND huyện Huyện N )
- Bộ giáo dục và đào tạo:
Tiếp tục hồn thiện chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể, sớm có hướng
dẫn lại thơng tư về kỉ luật học sinh (hiện nay vẫn áp dụng theo thông tư 88, ra đời
cách đây hơn 30 năm, đã trở lên lạc hậu)
Chú trọng đặc biệt tới bộ môn Giáo dục cơng dân; các chương trình Kĩ năng
sống: bởi các hướng dẫn và nội dung cịn mang nặng tính hình thức, lí thuyết. Hơn
nữa, giáo dục đạo đức là quá trình học tập và rèn luyện lâu dài, tổng thể, khơng thể
gói gọn trong nội dung mơn học.
Cần xem xét lại việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh: hiện nay Bộ đã mạnh
dạn trong đánh giá học sinh tiểu học, đối với học sinh trung học cần sớm bỏ tiêu chí xếp
loại hạnh kiểm, bởi khơng thể căn cứ vào một vài biểu hiện trên lớp để xếp loại hạnh
kiểm, nó tương đương với đánh giá đạo đức của mỗi cá nhân trong xã hội.
Việc quy định để giáo viên dạy giáo dục công dân nhận xét từng học sinh là
thiếu thực tế và không khả thi. Bởi lẽ, mỗi giáo viên chỉ dạy có 1 tiết/tuần, số lớp
thì q nhiều, trong khi đó lại nhận xét từng học sinh, điều này là bất hợp lí, cần
phải mạnh dạn sửa đổi.
- Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bắc Giang
Tiếp tục chỉ đạo thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ được xác định tại Chương
trình hành động của Tỉnh ủy số 63/CTr-TU ngày 8/8/2014về đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục đào tạo đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

23


Tiếp tục thực hiện quyết định số 1531/QĐ-UBND ngày 28/10/2011 của Chủ
tịch UBND tỉnh Bắc Giang về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh
Bắc Giang giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 1235/QĐ-UBND ngày 5/9/2012 về
việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển giáo dục đào tạo tỉnh Bắc

Giang đến năm 2020.
- Sở giáo dục và đào tạo:
Tăng cường cơng tác chỉ đạo, quản lí, hỗ trợ các nhà trường trong công tác
giáo dục đạo đức học sinh. Đưa ra những giải pháp cụ thể, có chiến lược cụ thể cho
từng hoạt động, từng giai đoạn. Tránh việc chỉ đạo bằng quá nhiều các chương
trình, kế hoạch, nhiều bộ phận, dẫn tới hiện tượng chồng chéo, khơng đi theo một
mục đích chung.
Tăng cường cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đối với giáo viên, đưa hoạt động tham
vấn học đường, hỗ trợ tâm lí... vào thành các hoạt động bắt buộc của nhà trường.
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với trung tâm GDNN - GDTX Huyện N
3.2.2.1. Xây môi trường sư phạm thật tốt để giáo dục đạo đức cho học sinh
Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo
đức cho học sinh là: cảnh quan, môi trường sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự
là “nhà trường”, mang yếu tố giáo dục lành mạnh. Đây có lẽ là giải pháp khó khăn
nhất khi thực hiện, cần làm đồng bộ một số yếu tố sau:
- Tổ chức, sắp xếp, tu sửa, trang điểm bộ mặt vật chất, khung cảnh của nhà
trường làm sao cho tồn trường đều tốt lên ý nghĩa giáo dục đối với học sinh.
- Tạo nên bầu khơng khí giáo dục trong tồn trường và ở mỗi lớp học, hình
thành lên một phong cách sinh hoạt của nhà trường. Hiện nay ở một số lớp chọn,
khi mà giáo viên chủ nhiệm quan tâm, có đội ngũ cán sự lớp mạnh đang thực hiện
tốt, còn lại thiếu tinh thần chung, đa phần thực hiện chống đối, cứng nhắc.
- Xây dựng một tập thể sư phạm gần gũi, đoàn kết từ tập thể đội ngũ cán bộ
giáo viên đến học sinh. Đây là việc làm lâu dài, khó khăn, tuy nhiên nếu thực hiện
tốt sẽ tạo ra bầu khơng khí sư phạm tốt góp phần quan trọng vào công tác giáo dục
đạo đức học sinh.
3.2.2.2. Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp là biện pháp góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
Như đã phân tích, giáo viên chủ nhiệm có vai trị rất to lớn trong công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh, vì họ là người quản lý tồn diện học sinh của lớp
được phụ trách, là cầu nối giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường,

các giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự
quản của lớp, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục của trường.

24


Xuất phát từ thực trạng công tác chủ nhiệm của trường, việc đưa ra các
biện pháp giúp giáo viên chủ nhiệm định hướng đổi mới công tác chủ nhiệm cho
phù hợp với tình hình thực tế của huyện, của trường mang ý nghĩa quan trọng đối
với công tác giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay. Việc này địi hỏi
một số u cầu sau:
+ Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh là góp phần cho công
tác chủ nhiệm đạt kết quả cao: Đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải có những
thơng tin khái quát về gia đình học sinh như: nơi ở, hồn cảnh sống, lối sống, hồn
cảnh kinh tế gia đình, giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con
cái, quan hệ của gia đình láng giềng. Giáo viên chủ nhiệm cũng phải nắm được đặc
điểm học sinh về: sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ
của học sinh với cha mẹ, Ơng bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cơ
và ngồi xã hội, cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh về mọi mặt là rất cần thiết
nhưng GVCN phải thấy được nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Mỗi năm học
yêu cầu GVCN phải đến nhà học sinh để tìm hiểu.
+ Nắm vững đường lối quan điểm của Đảng về công tác giáo dục, mục tiêu
giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học
kỳ, năm học.
+ Tìm hiểu tiềm năng của cộng đồng, địa phương, xã hội, cập nhật thông tin
thời sự, kinh tế xã hội tế để vận dụng những hiểu biết đó vào cơng tác chủ nhiệm
+ Cộng tác chặt chẽ với cha mẹ học sinh, chủ động phối hợp với giáo viên
bộ môn, đồn Thanh niên, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giáo
dục đạo đức học sinh.

+ Đề xuất xây dựng những truyền thống tốt đẹp, những hệ giá trị của lớp
+ Tích cực tham gia vào cơng tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm, xét thi đua,
khen thưởng và kỷ luật học sinh với tư cách là người bảo vệ quyền lợi chính đáng
cho học sinh.
+ Hiện nay, giáo viên chủ nhiệm phải lên lớp đầu giờ 2 buổi/tuần, tham gia các
hoạt động tập thể, lao động vệ sinh của lớp; tham gia công tác giáo dục ngoài giờ lên
lớp theo các chủ đề. Yêu cầu giúp học sinh rèn kĩ năng đọc sách để tìm hiểu.
3.2.2.3. Tăng cường vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng, của Ban giám đốc trong
công tác giáo dục đạo đức
Xây dựng Chi bộ Đảng vững mạnh, thực hiện tốt vai trị của mình, ln thực
hiện theo phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Mỗi đảng viên phải gương mẫu trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng.
Thường xun cập nhật thông tin, quán triệt các quan điểm, đường lối, nghị
quyết của Đảng và văn bản của các cấp chính quyền. Việc ban hành các nghị quyết
phải kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tế của trường, chủ trương cụ thể, giao
25


×