Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.68 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
1. Về tình hình thực tiễn
2. Về cơ sở lý luận
Bác Hồ sinh ngày 19/05/1890, tại quê mẹ ở làng Hoàng Trù. Quê cha ở làng Kim
Liên (làng Sen), thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Tịnh, huyện Nam Đàn (hiện nay
thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Cha Bác là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tức Nguyễn Sinh Huy (1862-1929), mẹ
là Hoàng Thị Loan một người phụ nữ có học thức, làm nghề nơng và dệt vải. Gia
đình có 4 anh chị em. Chị gái là bà Nguyễn Thị Thanh, anh trai là Nguyễn Sinh
Khiêm, em trai là Nguyễn Sinh Xin. Sống trong gia đình có tri thức nghèo nên
người sống gần dân, thấu hiểu được đời sống cực khổ của nhân dân ở q mình
cũng nhue nhân dân cả nước nói chung.
Người sinh ra ở một miền quê thiên nhiên không ưu đãi với khí hậu khắc nghiệt
Chúng ta thấy rằng Người sinh ra trong một gia đình trí thức u nước, lớn lên từ
một miền quê giàu truyền thống cách mạng, nhưng sống trong cảnh “nước mất
nhà tan”, nhân dân đang chịu sự bóc lột của hai tầng áp bức bóc lột phong kiến và
thực dân, nên Nguyễn Ái Quốc sớm đã có chí “đuổi thực dân Pháp, giải phóng
đồng bào”.
Nhật, nhưng anh không đi”<i>[1]</i>
Từ tháng 09 năm 1905, Nguyễn Tất Thành theo học lớp dự bị (Preparatoire) tại
trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Ở đây lần đầu tiên Bác tiếp xúc với khẩu hiệu
tự do, bình đẳng, bác ái.
Năm 1908 Người tham gia phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ, nên bị buộc phải
thôi học. Năm 1910 trên đường từ Quy Nhơn đi Sài Gòn, Bác Hồ vào trường Dục
Thanh (Phan Thiết) môn tiếng Hán và thể dục.
Tháng 02 năm 1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn xin làm việc và học tại
trường đào tạo cơng nhân kĩ thuật. Sau đó xin vào làm trên tàu L’Admiral
Latouche Tre’ville của hang vận tải hợp nhất (Charguers Re’unis) của Pháp, còn
gọi là hãng “Năm Sao”.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc từ bến cảng Nhà Rồng trên con tàu L’Admiral
Latouche Tre’ville Người đã ra đi tìm đường cưu nước. Khác với thế hệ thanh
23/12/1923 Bác đã trả lời rằng: “khi tôi mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba
chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái… đối với tôi người da trắng nào cũng là
người Pháp, người Pháp đã nói thế. Từ thủa ấy tơi muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy… vậy thì phải làm sao
bây giờ? Tơi quyết định tìm cách đi ra nước ngồi”.
“tơi muốn đi ra nước ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ
làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”.
Như vậy ta thấy rằng Bác Hồ muốn sang Pháp vì Pháp là nước cai trị nước ta,
muốn đánh Pháp thì phải hiểu Pháp. Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn đã khẳng định:
“điều mà chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được nó và dẫn người đi đúng
hướng là: nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tốc ngay tại chính quốc, ở
nước đế quốc đang thống trị dân tộc mình”.<i>[2]</i>
Trong khoảng thời gian từ 1911-1917 người đi rất nhiều nước trên khắp thế giới
từ những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… đến những nước thuộc địa ở
khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ La Tinh. Từ thực tiễn đó người đã nhận thấy bản
chất của thực dân Pháp đang thống trị ở Đông Dương.
nhau như rửa chén, dọn tàu, quét tuyết… đó là những nghề rất vất vả và cực khổ.
Nhờ đó, Người hiểu được rằng ở đâu bọn thực dân đế quốc cũng tàn bạo độc ác,
ở đâu người lao động cũng áp bức và bị bóc lột dã man.
Người nhận thấy chẳng biết thực dân pháp khai hóa ở đâu mà người chỉ thấy gây
Đối với bọn thực dân tính mạng của người thuộc địa da vàng hay da đen cũng
không đáng một xu. Vì vậy năm 1917, Người rút ra kết luận:
<i>“trên thế giới không phân biệt màu da chỉ có hai giống người, giống người đi bóc </i>
<i>lột và giống người bị bóc lột; và chỉ có một tình hữu ái giai cấp duy nhất đó là tình </i>
<i>hữu ái giai cấp vô sản mà thôi”. Kết luận này của người đã thể hiện quan điểm giai</i>
<i>cấp của mình. Và người khẳng định “ tất cả mọi người nghèo khổ trên thế giới đều</i>
<i>có một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc”. quan điểm này của người đã mang </i>
tầm tư tưởng quốc tế để sau này người thực hiện tư tưởng đoàn kết quốc tế.
<i>“ những cuộc cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng không đến nơi (khơng </i>
<i>triệt để) vì bên trong nó vẫn tước lục cơng nơng, bên ngồi vẫn áp bức thuộc địa, </i>
<i>khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” chỉ là bánh vẽ mà thơi. Do đó cách mạng Việt </i>
<i>Nam không thể đi theo được”.</i>
Như vậy, ta thấy rằng ngay từ năm 1917 Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra bản chất của
giai cấp tư sản và của chế độ tư bản chủ nghĩa. Và người cũng khẳng định cách
mạng việt nam không thể đi theo con đường tư bản chủ nghĩa mà theo như
<i>Xanhximong đánh giá về cuộc cách mạng Pháp:“Cách mạng Pháp không triệt để </i>
<i>vì nó chỉ thay thế giai cấp bóc lột này bằng giai cấp bóc lột khác mà thơi”.</i>
Như vậy là sau một thời gian bôn ba khắp các nước để tìm con đường giải phóng
dân tộc, tìm hiểu về giai cấp tư sản Người đã kiên quyết khẳng định con đường
Ngày 18 tháng 06 năm 1919, nhân dịp các nước thắng trận trong chiến tranh thế
giới lần thứ nhất đại biểu 2 nước thắng trận họp hội nghị ở Versailles để phân chia
thành quả của cuộc chiến. Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Hội những người Việt
Nam yêu nước gửi tới Hội nghị bản yêu sách của nhân dân Việt Nam để tố cáo
chính sách thực dân của Pháp và địi chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự
do dân chủ và quyền bình đẳng cho dân tộc việt Nam. Bản yêu sách gồm 8 điểm:
1. Tổng ân xá cho tất cả người bản xứ bị án tù chính trị.
2. Cải cách nền pháp lí Đơng Dương bằng cách để người bản xứ cũng được
hưởng những quyền bảo đảm về mặt pháp luật giống như người phương Tây.
Xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bộ
phận trung thực nhất trong nhân dân Việt Nam.
3. Tự do báo chí và tự do ngơn luận.
4. Tự do lập hội và họp hội.
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và xuất dương.
6. Tự do học tập và thành lập các trường kỉ thuật và chuyên nghiệp ở các tỉnh cho
người bản xứ.
7. Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
8. Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại nghị viện
Pháp để giúp cho nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.
Nhưng bản yêu sách đã không được các nước chấp nhận dù chỉ là những quyền
cơ bản nhất của con người nhưng nó nhu quả bom chính trị nổ giữa lịng nước
Sự kiện tháng 06 năm 1919 đánh dấu một bước trưởng thành trong cuộc đời hoạt
động của Người. Chính cũng từ sự kiện này cho người một suy nghĩ là muốn
giành quyền tự chủ thì phải tự lực cánh sinh, lấy sức ta giải phóng cho ta. Chính
điều đó sau này hình thành nên tư tương kháng chiến tự lực cánh sinh của
Người.
Mác và Ănghen khi nghiên cứu mâu thuẫn trong xã hội Tư bản chủ nghĩa và phát
hiện quy luật giai cấp vô sản lật đổ giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, xây
dựng chế độ xã hội mới tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Các ông quan tâm đến các
quốc gia, dân tộc bị áp bức và những cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc hay
giải phóng đất nước họ ở nhiều nước châu Á, Phi, Mỹ La-tinh, đặt trong mối quan
hệ với cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên do hạn chế về
<i>mặt lịch sử, “Mác và Ănghen mặc dù có nói đến cách mạng vơ sản mà chưa hình </i>
<i>dung ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc về cách mạng vơ sản là có căn </i>
<i>cứ thực tế, với một thái độ khoa học”[3]</i>
Lê Nin tham gia đấu tranh cách mạng khi chủ nghĩa Tư Bản đã phát triển thành
Sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, cách mạng vô sản được mở rộng,
liên kết nhà nươc vô sản với giai cấp vô sản các nước và nhân dân các dân tộc bị
áp bức thành một lực lượng mạnh mẽ chống Chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa cộng
sản giờ đây trở thành một vũ khí tinh thần của châu Á, của các dân tộc thuộc địa
và của Việt Nam.
Như vậy là trào lưu giải phóng dân tộc theo xu hướng cách mạng vơ sản có sức
mạnh to lớn và tương lai rực rỡ. Trào lưu giải phóng dân tộc theo xu hướng dân
chủ tư sản ngày càng đánh mất vai trị của mình. Nhân tố lí luận trên là yếu tố cơ
bản nhất quyết định việc đề ra đường lối tiến hành cuộc cách mạng vô sản.
<i>Tháng 07 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “sơ thảo lần thứ nhất những </i>
<i>luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê Nin đăng trên báo Nhân Đạo - </i>
cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Pháp. Khi đọc được bản luận Người cảm
thấy vô cùng phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng và muốn nói to lên như đang đứng
trước đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
Vậy bản luận cương như thế nào mà khiến người phấn khởi, tin tưởng và sáng tỏ
như vậy? Về cơ bản luận cương của Lê nin có 3 nội dung chính:
Một là cách mạng thuộc địa muốn thắng lợi phải đi theo cách mạng vô sản.
Hai là cách mạng thuộc địa phải gắn với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Ba là cách mạng thuộc địa phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách
Luận cương của Lê nin đã cho Bác một hướng đi đúng đắn về giải phóng dân tộc.
Đây là thành quả to lớn nhất của những năm tháng Người bôn ba hoạt động khắp
các nước. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động của
cũng bắt đầu từ đây Người hoàn toàn tin theo Lê nin và quốc tế thứ ba.
Tại đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã Hội Pháp họp ở Tua vào cuối tháng 12 năm
1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế III và tham gia
sáng lập Đảng cộng Sản Pháp. Hành động bỏ phiếu tán thành Quốc Tế III là sự
kiện đánh dấu bước nhảy vọt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc từ lập
trường yêu nước sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó cũng mở ra cho Cách
mạng Việt Nam một giai đoạn phát triển mới “giai đoạn gắn phong trào cách mạng
Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con
đường mà chính người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mac –
Lê nin”.
Sau này chính Người đã thừa nhận: “lúc đầu chính là chủ nghĩa u nước chứ
khơng phải là chủ nghĩa cộng sản đã làm cho tôi tin theo Lê nin, tin theo Quốc Tế
Thứ III. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác –Lê nin
vừa làm công tác thực tế, dần dần tơi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”.