Tải bản đầy đủ (.ppt) (72 trang)

TUYẾN tụy nội TIẾT (SINH lý SLIDE (chữ biến dạng do slide dùng font VNI times, tải về xem bình thường))

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.08 KB, 72 trang )

TUYẾN TỤY NỘI
TIẾT



GIẢI PHẪU SINH LÝ CỦA TUYẾN
TỤY
Tuyến tụy gồm hai loại mô chính:
(1) mô acini tiết ra dịch tiêu hóa đổ
vào tá tràng và
(2) đảo Langerhans là tuyến nội tiết,
nó tiết ra các hormon.
Tuyến tụy có từ 1 đến 2 triệu đảo
Langerhans
Đảo chứa ba loại tế bào chính là các
tế bào alpha, beta, vaø delta



Tế bào beta chiếm khoảng 60 %, nằm
giữa đảo và tiết insulin
Tế bào alpha chiếm 25 %, tiết glucagon
Tế bào delta chiếm trên 10 %, tiết
somatostatin.
Các tế bào liên quan chặt chẽ với
nhau và ức chế lẫn nhau
Thí dụ: insulin ức chế sự bài tiết
glucagon, và somatostatin ức chế sự
bài tiết của cả insulin và glucagon.



2.

INSULIN VÀ CÁC TÁC DỤNG
CHUYỂN HÓA
2.1. ĐẠI CƯƠNG
Insulin là một phân tử polypeptit
lớn, gồm 51 axit amin, nối nhau
bằng cầu nối disulfur.
Insulin được tổng hợp trong các tế
bào beta,
Khi insulin được bài tiết vào máu,
nó ở dạng tự do, có thời gian bán
hủy khoảng 6 phút


Nó rời khỏi hệ tuần hoàn trong
từ 10 đến 15 phút.
Trừ số insulin được gắn với các
receptor ở tế bào đích
Số còn lại bị thoái biến bởi
enzym insulinaz ở gan, mức độ ít
hơn ở thận và cơ, và rất ít ở
các mô khác.


2.2. SỰ HOẠT HÓA THỤ THỂ TẾ BÀO
ĐÍCH CỦA INSULIN
Đầu tiên insulin gắn và hoạt hóa một
protein thụ thể màng của tế bào đích.
Chính receptor được hoạt hóa sẽ gây tác

dụng tiếp theo.
Receptor của insulin là một kết hợp của 4
tiểu đơn vị gắn với nhau bằng cầu nối
disulfur: hai tiểu đơn vị alpha nằm ở phía
ngoài của màng tế bào, và hai tiểu đơn
vị beta, chúng xuyên qua màng, lồi vào
trong bào tương của tế bào.


Insulin gắn với các tiểu đơn vị
alpha ở phía ngoài màng
Phần tiểu đơn vị beta mà nó lồi
vào trong tế bào trở nên được
phosporyl hóa tự động-> trở
thành một enzym được hoạt hóa,
Protein kinaz gây ra sự phosphoryl
hóa hàng loạt các enzym khác
trong tế bào.


Các tác dụng cuối cùng của insulin
là như sau:
1. Sau ít giây insulin gắn với receptor
màng, màng tế bào trở nên có tính
thấm cao với glucoz
Đặc biệt là tế bào gan, tế bào cơ
và tế bào của mô mỡ, còn các
neuron của não thì không.
Sự tăng tính thấm đối với glucoz cho
phép glucoz chuyển nhanh vào tế bào,

trong tế bào glucoz được phosphoryl
hóa ngay, và trở thành cơ chất cho


Cơ chế của sự tăng vận chuyển glucoz là
như sau:
Có nhiều túi nhỏ ở trong bào tương được
gắn với màng tế bào
Những túi nhỏ này có các phân tử
protein vận chuyển glucoz ở trên màng
của nó
Khi insulin hết tác dụng, những túi nhỏ
này lại tách ra khỏi màng tế bào trong
khoảng từ 3 đến 5 phút, và chuyển trở
về bên trong tế bào, để rồi có thể được
dùng lại nhiều laàn.


2.

Ngoài việc tăng tính thấm của
màng đối với glucoz, màng tế
bào còn thấm với các axit amin,
các ion kali và phosphat.
3. Các tác dụng xảy ra chậm hơn,
sau từ 10 – 15 phút là làm thay
đổi hoạt tính của nhiều men
chuyển hóa trong tế bào. Các tác
dụng này chủ yếu là do sự
phosphoryl hóa của các men.



4.

Các tác dụng tiếp theo còn chậm
hơn nữa, xảy ra sau nhiều giờ đến
nhiều ngày,
Insulin làm tăng sự dịch mã của
RNA thông tin ở ribosom để tạo
thành protein mới, rồi tác dụng
chậm hơn nữa là tăng mức sao
mã của DNA trong nhân tế bào.
Bằng cách này insulin đẩy mạnh
cơ chế enzym của tế bào để đạt
tới mục đích chuyển hóa.


2.3. TÁC DỤNG CỦA INSULIN TRÊN
CHUYỂN HÓA GLUXIT
Sau bữa ăn, nồng độ glucoz máu
tăng, kích thích tuyến tụy bài tiết
insulin
Nó làm tăng thu nhập, dự trữ và sử
dụng glucoz bởi toàn bộ các tế bào
của cơ thể, đặc biệt là tế bào cơ,
mô mỡ và gan.


2.3.1. Tác dụng của insulin đẩy
mạnh chuyển hóa glucoz trong cơ

Lúc đói, đường huyết giảm, ức chế
sự bài tiết insulin, nên glucoz vào tế
bào cơ rất ít, cơ thường sử dụng axít
béo để cho năng lượng.
Có hai điều kiện để cơ sử dụng glucoz
với lượng lớn.
Trong lao động: cường độ từ vừa
tới nặng, ngay cả khi có rất ít insulin,
vì trong lao động sợi cơ có tính thấm cao
với glucoz.


-Sau khi ăn, đường huyết tăng cao, kích
thích tuyến tụy bài tiết nhiều insulin
Nó có tác dụng trực tiếp trên màng
tế bào cơ, làm tăng mức độ vận
chuyển glucoz qua màng vào trong tế
bào cơ, gấp 15 lần khi thiếu insulin.
Lúc đó cơ sử dụng glucoz thay vì axít
béo, vì dòng axít béo từ các mô mỡ
bị ức chế bởi insulin.


Dự trữ glycogen trong cơ:
Sau khi ăn, lượng glucoz vận chuyển
vào tế bào cơ nhiều
Nếu cơ sử dụng không hết, số glucoz
thừa sẽ dự trữ trong cơ dưới dạng
glycogen
Cho tới giới hạn nồng độ khoảng 2 – 3

%.
Glycogen có thể được dùng cho năng
lượng, cái đó có lợi, vì tạo ra năng
lượng yếm khí trong ít phút, do thoái


2.3.2. Tác dụng của insulin đẩy
mạnh việc thu nhập, dự trữ và
sử dụng glucoz ở gan.
Tác dụng quan trọng nhất của insulin
là chuyển glucoz thành glycogen sau
bữa ăn.
Giữa các bữa ăn, nồng độ glucoz
máu giảm thấp, ức chế sự tiết insulin
Glycogen lại chuyển thành glucoz và
đưa trở lại máu, để giữ cho glucoz
máu hằng định.


2.3.2.1. Gan chuyển glucoz thành
glycogen qua các bước sau
1.
Insulin làm bất hoạt hóa men
phosphorylaz gan, men chính làm cắt
phân tử glycogen gan thành glucoz.
2.
Insulin làm tăng thu nhận glucoz
máu vào tế bào gan, nó làm tăng
hoạt tính của men glucokinaz, men này
gây phosphoryl hóa glucoz sau khi nó

khuếch tán vào tế bào gan, glucoz đã
được phosphoryl hóa thì không thể
khuếch tán lại qua màng để vào


3.

Insulin làm tăng hoạt tính của các
men đẩy mạnh việc tổng hợp
glycogen, đặc biệt là men glycogen
synthetaz, nó đồng phân hóa các
đơn vị monosaccharit để tạo thành
các phân tử glycogen.
Lượng glycogen có thể tăng đến
mức chiếm từ 5 – 6 % của khối
gan, tương đương với 100g glycogen
trong gan.


2.3.2.2. Gan giải phóng glucoz vào
máu
Lúc đói, glucoz máu giảm thấp, gan
sẽ chuyển glycogen dự trữ thành
glucoz, và giải phóng glucoz vào máu,
qua các bước sau:
1.
Sự giảm glucoz máu, làm tụy
giảm tiết insulin.
2.
Thiếu insulin, gan ngừng tổng hợp

glycogen, và ngừng thu nhận glucoz từ
máu vào gan.
3.
Thiếu insulin làm hoạt hóa men


4.

Men phosphataz mà nó bị insulin ức
chế, bây giờ nó được hoạt hóa
do thiếu insulin, nó cắt gốc
phosphat của glucoz, và glucoz tự do
được giải phóng vào máu.
Thông thường khoảng 60% glucoz
đưa vào sau bữa ăn được dự trữ
ở gan, rồi giữa các bữa ăn nó
lại được giải phóng ra.


2.3.2.3. Các tác dụng khác của
insulin trên chuyển hóa gluxit ở
gan
Khi lượng glucoz vào gan lớn hơn số dự
trữ glycogen, insulin đẩy mạnh chuyển
glucoz thừa thành axít béo.
Axít béo tạo triglycerit ở dạng
lipoprotein có tỷ trọng thấp-> vận
chuyển vào máu tới mô mỡ để dự
trữ.



Insulin ức chế tạo đường mới, do
làm giảm số lượng và hoạt tính
của các enzym dùng cho tạo
đường mới
Insulin làm giảm sự huy động axit
amin từ cơ và các tổ chức ngoài
gan là nguyên liệu cho sinh đường
mới.


2.3.3. Vai trò của insulin trên sự
thu nhận và sử dụng glucoz của
não
Tế bào não hoàn toàn khác với tế
bào của cơ thể về việc thu nhận và
sử dụng glucoz.
Nó có thể thấm glucoz và sử dụng
glucoz không cần có trung gian là
insulin
Tế bào não chỉ sử dụng glucoz cho
năng lượng.
Mức đường huyết phải duy trì ở trên


×