Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tam guong Bac Ho ve can kiem liem chinh chi cong vo tu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.41 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Tấm gương Bác Hồ về cần kiệm liêm chính chí cơng vơ tư.
Monday, 12. May 2008, 14:31:42


Đạo đức Hồ Chí Minh
Tiến Linh


Rèn luyện và tu dưỡng đạo đức là vấn đề quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Theo Người:


“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời,


Thiếu một phương, thì khơng thành đất.
Thiếu một đức, thì khơng thành người” 1


Một ngày sau khi nước nhà giành được độc lập (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ toạ phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Người trình bày sáu
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong đó có vấn
đề thứ tư cần phải giải quyết lúc bấy giờ là “Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta
với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hịng hủ hố dân tộc chúng ta
bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ơ và những thói xấu khác.
Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta
phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao
động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Để làm được những
điều đó, Người đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng
cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH” 2


Để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có nhiều tác phẩm viết về vấn đề này, Ngay từ năm 1927, trong tác


phẩm “Đường Kách mệnh”, chương đầu tiên của cuốn sách là Tư cách một
người cách mệnh và tiêu chuẩn đầu tiên trong tư cách một người cách mệnh
chính là: cần kiệm. Sau này là các tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (10-1947),
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” (1952).
“Đạo đức cách mạng” (12-1958) và các bài báo như “Chớ kiêu ngạo, phải khiêm
tốn”, “Cần kiệm liêm chính”, “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, “Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sách chủ nghĩa cá nhân”... Trước lúc đi xa, trong
bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Người nhắc “Đảng
ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư...” và “Sau khi tôi
qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền
bạc của nhân dân”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

CẦN tức là “Siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai” và nếu đã cần thì việc gì,
dù khó khăn mấy, cũng làm được.


Người chỉ ra cách thực hiện CẦN sao cho có kết quả. Đó là làm việc phải có kế
hoạch, dù cơng việc gì, to hay nhỏ, lớn hay bé, đều phải sắp xếp khoa học và tính
tốn cẩn thận. Phân công công việc theo năng lực của từng người, như vậy sẽ
không bị mất thời gian và hiệu quả công việc cao.


Cần phải đi đối với chuyên. Nếu khơng chun thì cũng vơ ích. Cần khơng phải
là xổi. Phải biết nuôi dưỡng sức khoẻ, tinh thần và lực lượng để làm việc lâu dài.
Một người lười biếng sẽ làm chậm và ảnh hưởng đến công việc của rất nhiều
người khác. Cần là nâng cao năng suất lao động.


KIỆM là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, khơng bừa bãi”. Cần với
kiệm đi đối với nhau như hai chân của một người. Cần mà khơng kiệm “thì làm
chừng nào xào chừng ấy”, cũng như một cái thùng không đáy, nước đổ vào
chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, khơng lại hồn khơng. Kiệm mà khơng cần, thì


khơng tăng thêm, khơng phát triển được.


Bác cho rằng cần phải tiết kiệm cả của cải, thời gian và sức lực, bởi của cải nếu
hết cịn có thể làm ra được, cịn thời gian đã qua đi, không bao giờ quay trở lại.
Muốn tiết kiệm thời gian, bất kỳ việc gì, nghề cũng phải chăm chỉ, làm nhanh,
không nên lần nữa. Không nên ngồi lê, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ của
người khác. Theo Bác “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn”.


Khi khơng nên tiêu xài thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng
làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu cơng, tốn bao
nhiêu của, cũng vui lịng. Như thế mới đúng là kiệm.


Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm” 3


Để thực hành tiết kiệm phải kiên quyết với những việc làm xa xỉ, như kéo dài
thời gian lao động không cần thiết, làm hao phí vật liệu trong sản xuất, ln tìm
cách ăn ngon, mặc đẹp trong lúc đồng bào cịn khó khăn, thiếu thốn, v.v... Phải
biết cách tổ chức thì tiết kiệm mới có hiệu quả.


LIÊM là “trong sạch, không tham lam”; “không tham địa vị. Không tham tiền
tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang
minh chính đại, khơng bao giờ hủ hố.


Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ” 4


Liêm phải đi đối với kiệm, bởi có kiệm mới liêm được. Tham lam là một điều rất
xấu hổ. Những hành động bất liêm đều phải dùng pháp luật để trừng trị, dù đó là
người nào, giữ cương vị gì, làm nghề gì. “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm,
là dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”5.
Và như cụ Mạnh Tử đã nói “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”6



Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. CHÍNH “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng
thắn, đứng đắn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

u q, kính trọng, giúp đỡ, khơng nịnh hót người trên, xem khinh người dưới.
Phải để việc nước, việc công lên trên việc tư, việc nhà. Công việc dù to hay nhỏ
đều phải cố gắng hoàn thành. Phải ln ln nhớ “việc thiện thì dù nhỏ mấy
cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”7


Về CHÍ CƠNG VƠ TƯ, Bác nói: “Đem lịng chí cơng vô tư mà đối với người,
với việc”, “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ
thì mình nên đi sau”, “Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Người giải thích
“...Cán bộ các cơ quan, các đồn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền
nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp là
ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”8 .


Vụ án Trần Dụ Châu những năm 50 là một bài học đắt giá cho những cán bộ,
đảng viên không thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, khơng thực hành
cần kiệm liêm chính, dẫn đến hành động tham ơ, hủ hố, suy thối về đạo đức.
Lời nói phải đi đơi với việc làm, nói được, làm được sẽ mang lại thành cơng,
được nhiều người hưởng ứng và làm theo. Nếu chính mình tham ơ mà bảo người
khác liêm khiết thì khơng được. Nếu nói rắng phải cần kiệm liêm chính, mà bản
thân mình lại cười lao động, lười học tập, khơng hồn thành những cơng việc
được giao, khơng tiết kiệm, sống hoang phí, xa hoa, ln tìm cách tham ô, bòn
rút tiền của Nhà nước và nhân dân, tâm khơng trong sáng... thì sẽ khơng hiệu quả
và khơng có tính thuyết phục. Thực hành tốt cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư
sẽ rèn luyện, làm cho con người có những phẩm chất tốt, như “Giàu sang khơng
thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ khơng thể khuất phục”.
Chính nhờ thực hành cần kiệm liêm chính mà trong những năm đầu mới giành
được độc lập nhân dân ta đã thu được nhiều thắng lợi, chiến thắng giặc lụt, giặc


đói và giặc ngoại xâm. Trong những năm hồ bình xây dựng đất nước, từng bước
đời sống nhân dân đã được nâng cao cả về vật chất và tinh thần.


Trong đạo đức thì việc nêu gương là vơ cùng cần thiết, vì “...Một tấm gương
sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”9.


Bác rất quan tâm đến việc rèn luyện tư cách đạo đức, tác phong cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân ta, từ lời nói đến việc làm. Bản thân Bác là một tấm gương
sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân, về cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư
để chúng ta học tập và noi theo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khi biết các đồng chí phục vụ định thay, Bác không đồng ý. Chiếc bút chì mịn
vẹt Bác dùng để theo dõi tin tức trên báo. Những trang bản thảo được Bác viết ở
mặt sau của những tờ tin tham khảo của Việt Nam Thông tấn xã. Chiếc ô tô Bác
đi công tác hay đi thăm đồng bào và chiến sĩ trong cả nước cũng chỉ là loại xe
bình thường. Bác khơng dùng chiếc điều hồ nhiệt độ do các đồng chí cán bộ
ngoại giao đang cơng tác ở nước ngoài biếu, mà đề nghị chuyển chiếc điều hoà
ấy cho các đồng chí thương bệnh binh đang điều trị tại trại điều dưỡng hoặc quân
y viện, mặc dù lúc đó Bác đang ở trong ngơi nhà của người thợ điện (nhà 54) rất
nóng. Những bữa ăn thanh đạm của Người “thường là dưa cà, đơi khi có thịt”.
Những lần đi thăm các địa phương, Bác thường không báo trước và mang theo
cơm nắm để tránh sự đón rước linh đình, gây phiền hà và tốn kém tiền của nhân
dân.


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, Bác ở
trong ngôi nhà sàn đơn sơ, giản dị thì đến khi cách mạng thành công, trở về Thủ
đô, Bác cũng chỉ ở trong ngôi nhà nhỏ của người thợ điện, sau đó chuyển sang
nhà sàn, chứ khơng ở ngơi nhà to, sang trọng của Tồn quyền Đơng Dương. Bác
dành ngơi nhà sang trọng đó làm nơi đón tiếp khách của Đảng và Nhà nước ta.
Sự tiết kiệm của Bác còn thể hiện trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ. Là Chủ tịch


Chủ tịch nước, nhưng những năm tháng sống trên chiến khu Việt Bắc, đi theo
Bác chỉ là tổ cơng tác ít người kiêm nhiều việc. Cách mạng Tháng Tám thành
công, trở về Thủ đô, các đồng chí phục vụ Bác ở Phủ Chủ tịch cũng rất ít. Những
lần đi cơng tác xa, khơng cần nhiều cán bộ cùng đi, Bác cho những anh em còn
lại về thăm gia đình. Bác dặn “Các chú tranh thủ về thăm nhà, nhưng nhớ đúng
hẹn lên đón Bác”. Điều đó thể hiện sự quan tâm của Bác đối với con người và
cũng là một hình thức tiết kiệm thời gian.


Những lời nói của Bác về cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư cho đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Đặc biệt là tấm gương của Bác về thực hành cần kiệm liêm
chính vẫn mãi mãi để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta noi theo. Trong kháng
chiến cũng như trong xây dựng đất nước đã có nhiều tấm gương tiêu biểu về cần
kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Họ là những người luôn luôn gương mẫu, đi
đầu trong lao động sản xuất, chiến đấu và học tập. Tuy nhiên cịn có một số
khơng ít cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những cán bộ có chức, có quyền vẫn chưa
làm đúng những lời dạy của Bác. Nạn tham ơ, tham nhũng, hối lộ, lãng phí, xa
xỉ, quan liêu, công thần, cửa quyền... ngày càng nhiều. Các vụ án PM18 ở Bộ
Giao thông vận tải, vụ chạy cô-ta ở Bộ thương mại hay vụ án Mạc Kim Tơn ở
Thái Bình, v.v... cho thấy đó là những cán bộ, đảng viên bị sa sút về tư tưởng,
chính trị, đạo đức và tha hố về lối sống. Họ đã làm giản sút lòng tin, uy tín của
Đảng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Ngun tắc đạo đức "Nói thì phải làm" của Bác Hồ
Monday, 12. May 2008, 14:33:52


Đạo đức Hồ Chí Minh
Tiến Linh


Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng gần 40 năm, nhưng Người đã để lại
cho muôn đời con cháu mai sau một di sản tinh thần vơ giá, đó là hệ thống tư


tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
về Đảng cộng sản Việt Nam; về đại đoàn kết; về quân sự; Nhà nước của dân,do
dân,vì dân; về văn hố và đạo đức...


Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh các nhà khoa học đã thống nhất và rút ra
những nội dung cơ bản của văn hoá đạo đức Hồ Chí Minh, đó là: trung với nước,
hiếu với dân, phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất, là tình yêu
thương đối với con người; là cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư và tinh thần
quốc tế trong sáng, đồng thời cũng khẳng định ba nguyên tắc đạo đức của
Người: nói thì phải làm; xây đi cùng với chống và tu dưỡng đạo đức suốt thời.
Trong bài viết này chúng tôi xin đi sâu vào nguyên tắc đầu tiên của đạo đức
trong tư tuởng Hồ Chí Minh là "Nói thì phải làm".


Ngay từ những năm 20, khi cịn bơn ba hoạt động cách mạng ở nước ngồi, tại
lớp huấn luyện chính trị ở thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc, nơi đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc
ấy lấy bí danh là Lý Thuỵ) đã có bài giảng về "Tư cách một người cách mệnh".
Trong bài giảng của mình Hồ Chí Minh đã nêu lên những đức tính cần phải có
của một người cách mạng, đó là: đối với mình, đối với người và đối với cơng
việc, trong đó đối với mình được Người đặt lên hàng đầu, bởi cái khó nhất của
con người là phải đấu tranh với chính bản thân mình. Từ cuối cùng của cả ba vấn
đề mà Bác nêu lên trong bài giảng này đều là từ "phải", một từ có ý nghĩa bắt
buộc trong việc rèn luyện tư cách đạo đức, phong cách, lối sống và công việc của
mỗi người. Bác viết


"Tự mình phải:
Cần kiệm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Cẩn thận mà khơng nhút nhát.
Hay hỏi.



Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị cơng vong tư.


Khơng hiếu danh, khơng kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.


Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.


Ít lịng tham muốn về vật chất.
Bí mật"1…


Có thể nói đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Trong sự nghiệp cách mạng của mình, Bác có nhiều tác phẩm
cũng như bài nói, bài viết về vấn đề này, như "Sửa đổi lối làm việc", “Đạo đức
cách mạng", "Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn", "Cần kiệm liêm chính", "cần tẩy
sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh" v.v...


Từ những ngày đầu cách mạng chuẩn bị cho cơng cuộc giải phóng dân tộc, giải
phóng đất nước thì "Tư cách một người cách mệnh" tuy ngắn gọn nhưng đầy đủ
về những chuẩn mực của tư cách đạo đức, tác phong lối sống, đối nhân xử thế và
cách làm việc.


Bài báo cuối cùng Bác viết về đạo đức là "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân", nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng (3-2-1969) khi
sức khỏe của Người đã giảm sút.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

ngày thường thì làm gương mẫu: gian khổ, chất phác, kính trọng của cơng... Đạo


đức ấy có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây
dựng mỹ tục thuần phong"2.Và với bản thân mình, Bác đã làm đúng như khi trả
lời các nhà báo nước ngồi năm 1946 "Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"3.


Đối với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với hành động,
lời nói đi đối với việc làm, là điều khơng dễ, nó địi hỏi cần phải có sự cố gắng,
bền bỉ và một quyết tâm, bởi bất kỳ cơng việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay bé,
khó hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu khơng ra sức phấn đấu thì cũng
khơng thể thành công được. Kết quả công việc là thước đo của mỗi người. Với
các cán bộ, đảng viên và những người làm cơng tác lãnh đạo thì lời nói với việc
làm lại càng quan trọng và cần thiết, vì cán bộ là gốc của mọi công việc, là
những tấm gương để quần chúng noi theo.


Trong đạo đức việc nêu gương là vơ cùng cần thiết, vì "...Một tấm gương sống
cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tun truyền"4.


Lời nói đi đơi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại những hiệu quả lớn,
được nhiều người hưởng ứng và làm theo. Để làm được điều đó, khi đề ra cơng
việc tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu, cần phải cụ thể, thiết
thực, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Ngược lại nói nhiều làm ít
hoặc nói mà khơng làm thì sẽ chỉ mang lại những kết quả phản tác dụng. Nếu
chính mình tham ơ mà bảo người khác liêm khiết thì khơng được. Nếu rói rằng
phải cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, mà bản thân mình lại lười biếng,
khơng hồn thành những cơng việc được giao, khơng tiết kiệm, sống hoang phí,
xa hoa trong khi cuộc sống của đại đa số nhân dân còn nhiều thiếu thốn , ln
tìm cách tham ơ tiền của Nhà nước và nhân dân... thì những lời nói đó sẽ khơng
có tác dụng giáo dục.



Với trình độ giác ngộ và dân trí ngày càng cao, khơng phải cứ nghe cán bộ nói là
quần chúng sẽ làm theo mà họ xem việc cán bộ làm. Bác Hồ đã chỉ ra rằng nhân
dân chỉ quý mến những người có phẩm chất và tư cách đạo đức tốt, vì vậy muốn
hướng dẫn họ thì mình phải làm mực thước "Cần phải óc nghĩ, mắt trơng, tai
nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ khơng phải chỉ nói sng, chỉ ngồi viết
mệnh lệnh... Phải thật thà nhúng tay vào việc"5.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Với cán bộ và chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, Bác căn dặn "Các đồng chí cán
bộ của Đảng ở các cấp phải cố gắng tiến bộ hơn, để lãnh đạo bộ đội. Từ việc lớn
đến việc nhỏ, cán bộ đều phải làm kiểu mẫu. Giữ gìn kỷ luật, học tập kỹ thuật,
luyện quân lập công, xung phong hãm trận, thân ái đồn kết, nói tóm lại, mỗi
việc trong bộ đội, cán bộ đều phải làm gương. Như thế thì quân đội ta sẽ là một
quân đội vô địch, và kháng chiến nhất định thành cơng" 6.


Cịn với cơng nhân, những người trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, thì
Bác nhắc: "Phải nâng cao kỷ luật lao động. Tình trạng muốn làm thì làm, khơng
muốn làm thì thơi, nghỉ sớm, khơng ốm cũng cáo ốm để nghỉ, đều là thiếu kỷ
luật lao động. Bộ đội khơng có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua; nhà máy khơng
có kỷ luật lao động, khơng phải là nhà máy tốt. Kỷ luật lao động không phải Bác
đưa ra hay ở đâu đưa đến, mà chính là các cô, các chú bàn bạc, thông qua, tự
giác thi hành. Thông qua rồi, ai không theo không được”7.


Các cán bộ cần phải đi sâu đi sát, kiểm tra đôn đốc kết quả của việc thực hiện
những công việc đã đề ra, không thể làm theo lối quan liêu, như cách "Tỉnh gửi
giấy về huyện, huyện gửi giấy về xã. Giấy không thể che rét cho trâu bò được”8.
Lực lượng thanh niên, những chủ nhân tương lai của nước nhà, những người có
vai trị rất lớn trong sự thịnh vượng hay suy yếu của đất nước, Bác đã chỉ ra cho
họ những việc cần phải làm, những đức tính tự mình phải rèn luyện để có thể
đảm đương được các trọng trách đó. Theo Bác mỗi thanh niên, nhất là mỗi cán
bộ phải kiên quyết làm cho bằng được những điều sau đây:



a) Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta,cịn sự sung sướng thanh
nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước...


b) Các việc đáng làm, thì có khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được.
c) Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Khơng ham địa vị và cơng danh phú
q.


d) Đem lịng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc.


e) Quyết tâm làm gương về mặt: siêng năng, tiết kiệm, trong sạch.
f) Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn kết"9


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

mạnh "Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hố, chun mơn, đức là
chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức.Ví như bảo học trị
phải dậy sớm mà giáo viên thì trưa mới dậy. Cho nên thầy giáo, cơ giáo phải
gương mẫu, nhất là đối với trẻ con"10.


Cả cuộc đời mình Bác rất quan tâm đến việc rèn luyện tư cách đạo đức, tác
phong của các cán bộ, đảng viên, đến lời nói phải đi đơi với việc làm và bản thân
Bác là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, về kiệm liêm chính để
chúng ta học tập và noi theo.


Sinh thời Bác sống rất giản dị, từ lời nói đến việc làm, tác phong làm việc, từ
cách ăn mặc cho đến những sinh hoạt hàng ngày, ngay cả khi Người đã là Chủ
tịch nước. Tác phong giản dị ấy mang lại một sự gần gũi, một ấn tượng khó quên
với những ai đã được gặp Bác dù chỉ một lần. Vì Bác của chúng ta cao mà không
xa, mới mà không lạ, lớn mà không làm ra vĩ đại, toả sáng mà khơng chống
ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu, bình dị, khiêm nhường trong cơng
việc và trong khi giao tiếp với mọi người.



Bác ăn mặc rất giản dị và tiết kiệm "Chỉ có hai bộ áo quần ka-ki, một cái khăn
tay vải to và hai đơi bí tất. Khi ở Pa-ri về người ta thấy Hồ Chủ tịch mặc một bộ
ka-ki đã vá. Có người yêu cầu Chủ tịch thay bộ áo quần khác. Chủ tịch đáp:
"Nhiều đồng bào ta, nều được bộ áo quần như thế này cũng là tốt lắm. Thế thì
việc gì tơi phải thay"11.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

tháng sống trên chiến khu Việt Bắc, đi theo Bác cũng chỉ là tổ cơng tác có ít
người nhưng kiêm đủ mọi công việc. Cách mạng tháng Tám thành công, trở về
Thủ đơ, nhưng các đồng chí phục vụ Bác ở Phủ chủ tịch cũng rất ít. Những khi
đi công tác xa, Bác thường tạo điều kiện để các đồng chí phục vụ được về thăm
gia đình, điều này thể hiện sự quan tâm của Bác và cũng là một hình thức tiết
kiệm sức người, tiết kiệm thời gian.


Bác ln ln địi hỏi các cán bộ, đảng viên phải tin yêu, quý trọng con người,
phải kính già yêu trẻ và Bác là tấm gương mẫu mực về tôn trọng con người. Với
đồng bào, chiến sĩ cả nước và bạn bè quốc tế ở khắp năm châu Bác dành trọn vẹn
những tình cảm thương yêu, tình đồng chí, tình bạn và tình người thân thiết. Bác
đã từng khẳng định: Lịng thương u của tơi đối với nhân dân và nhân loại
không giờ thay đổi.


Gần tám mươi năm trôi qua, bài giảng về tư cách một người cách mạng, về đạo
đức cách mạng, về "Nói thì phải làm" của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên
giá trị. Trong kháng chiến cũng như trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất
nước hôm nay, nhiều cán bộ, đảng viên, nhiều người đã làm tốt những lời Bác
dạy, đã có rất nhiều tấm gương tiêu biểu về sự hy sinh, lòng nhân ái, về cần kiệm
liêm chính, chí cơng vơ tư... Đó là những con người luôn luôn đi đầu trong chiến
đấu, lao động sản xuất và nghiên cứu khoa học. Họ đã biết mang đức và tài của
mình ra để cống hiến cho đất nước ngày càng nhiều hơn về vật chất lẫn tinh thần.
Song bên cạnh đó chúng ta cũng nhận thấy rằng cịn có khơng ít những cán bộ,


đảng viên, đặc biệt một số cán bộ có chức, có quyền vẫn chưa làm đúng những
lời dạy của Bác. Nạn tham ô, tham nhũng, hối lộ, lãng phí, xa xỉ, quan liêu, cơng
thần, cửa quyền... ngày càng nhiều. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên sa
sút về tư tưởng, chính trị và đạo đức, bị tha hố về lối sống. Tình trạng đạo đức
giả, nói mà khơng làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo, khơng phải
là ít. Tình trạng đó đã gây nên sự giảm sút lịng tin và uy tín của Đảng và Nhà
nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.


Để có một xã hội ngày càng tốt đẹp, nhân dân thực sự được hưởng một cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, đất nước ngày càng mạnh giàu, hơn lúc nào hết lối sống
mình vì mọi người, mọi người vì mình, phương châm và ngun tắc sống "Nói
thì phải làm" cần phải được thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Làm đựơc như vậy là chúng ta đã làm tốt những điều mà lúc còn sống Bác
Hồ luôn mong muốn và căn dặn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Đạo đức Hồ Chí Minh


Nguyễn Thuý Đức - Bảo tàng Hồ Chí Minh


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong những tác phẩm, bài nói, bài
viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến các phẩm chất đạo đức. Từ thực
tế của con người và xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành
những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng việt Nam. Đó là:
Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người; Cần kiệm liêm chính, chí
cơng vơ tư; Tinh thần quốc tế trong sáng. Trong những chuẩn mực trên, trong xu
hướng hội nhập, tồn cầu hố hiện nay, phẩm chất đạo đức “Tinh thần quốc tế
trong sáng" có vai trị vơ cùng quan trọng.


Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi người


Việt Nam trong mối quan hệ rộng lớn, vượt qua phạm vi quốc gia, dân tộc. Nội
dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở các điểm sau:
1. Đó chính là tinh thần đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc
lột mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn
của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.


Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế
giới, các nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống
xa hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức
rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay
chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác.
Người đi tới kết luận: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối
tính hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản" (Bài Đồn kết giai cấp của


Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Le Paria số 25 tháng 5-1924). Kết luận này cho
thấy nhận thức của Hồ Chí Minh về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã từ tầm
nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư
tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đồn kết với những người lao khổ, cần lao
trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia
với lợi ích quốc tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

hợp tác quốc tế. Mười năm vận động, trải nghiệm ở nhiều nước, Hồ Chí Minh đã
sớm xác định, cuộc đấu tranh của Việt Nam, cũng như cuộc đấu tranh giải phóng
của các dân tộc bị áp bức là bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Từ lời phát
biểu đầu tiên tại Đại hội Tua (12-1920) trở đi, Người luôn khẳng định cuộc cách
mạng của các dân tộc bị áp bức đều có quan hệ với nhau. Nói về sự liên minh
đồn kết đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, khi đó Hồ Chí


Minh đã chỉ rõ, các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn được giải phóng khỏi ách
áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì chỉ bằng cách đoàn kết chặt chẽ để chống
kẻ thù chung. Cũng là một người dân thuộc địa, Người thấy được khả năng, sức
mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi trong cuộc
đấu tranh của họ.


2. Tinh thần quốc tế trong sáng cịn là vì mục tiêu chung "Bốn phương vơ sản
đều là anh em".


Hành trình qua các nước vào những năm đầu của thế kỷ XX giúp Hồ Chí Minh
nhận thấy rằng phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc
và cách mạng thuộc địa. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định thực dân đế quốc
là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính
quốc. Bởi vậy, để chống lại kẻ thù chung, đạt tới mục tiêu giải phóng thân phận
nơ lệ và bị bóc lột, địi hỏi sự đồn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở
thuộc địa và chính quốc. Điểm mới và sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
Người đã chứng minh được bọn đế quốc khơng chỉ áp bức bóc lột nhân dân các
nước thuộc địa, mà còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vơ sản chính
quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai vịi". Một vịi bám
vào giai cấp vơ sản ở chính quốc, một vịi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa.
Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một vịi thì vịi
cịn lại tiếp tục hút máu và vịi bị cắt tiếp tục mọc ra. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ
nghĩa tư bản, đánh đổ chúng là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc
và thuộc địa. Nhiệm vụ đó địi hỏi phải đồn kết cả hai lực lượng nói trên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức
quan tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ở châu Á,
châu Phi, châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và tranh
thủ, khẳng định sự ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội. Đồng thời, Hồ Chí Minh cịn ln nhắc nhở nhân dân Việt


Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân
dân các nước này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của dân tộc mình, cho
nên cũng rất trân trọng độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết
sức căm giận trước bất cứ một hành động xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ
một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất
nước mình, "giúp bạn là tự giúp mình". Đây chính là một bước phát triển mới
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế. Vì lẽ đó, Người ln động viên
nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân tộc
mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vơ tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh
em.


Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hồ bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân
tộc. Sự đoàn kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với
lợi ích quốc tế.


4. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vơ sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước.
Trong bài "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế" (1953), Người đã nhấn
mạnh: "Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì
lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hồ bình thế
giới". Nếu tinh thần u nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong
sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa bành trướng
bá quyền, kỳ thị chủng tộc… Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến
chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ
tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình
trạng đối đầu đối địch. Đây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực
trên thế giới hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trong thời kỳ mới của cách mạng, nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát
triển đất nước chính là mở rộng tình đồn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có


lợi, chủ động, tích cực hội nhập, như Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế… Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực" (Văn kiện Đại hội X của Đảng. Tr. 112. NXB CTQG - Hà Nội - 2006).
Tháng 6-2007


Yêu thương con người - nét đẹp vĩnh hằng trong chuẩn mực đạo đức Hồ Chí
Minh


Monday, 12. May 2008, 14:37:00
Đạo đức Hồ Chí Minh


Ngày 5 tháng 6 năm 1911, khi xuống tầu Đô đốc La-tút-xơ Tơ-rê-vin làm phụ
bếp để ra nước ngồi tìm đường cứu dân, cứu nước, ngoài chút kiến thức học
được ở nhà trường và đôi bàn tay sẵn sàng làm đủ nghề "miễn là lương thiện" để
sống và hoạt động, hành trang của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành chỉ là lòng
yêu nước và yêu thương con người sâu sắc; Hành trang giản dị ấy, nhưng lại là
kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,
được bổ sung bằng mồ hôi và máu của những phu Cửa Rào, phu đồn điền cao su
Lộc Ninh, của hàng loạt những sĩ phu đã bỏ mình vì nước trong cuộc kháng
chiến chống Pháp đầu thế kỷ; truyền thống ấy có lời hát ru của bà, có làn điệu
ngọt ngào, da diết của dân ca xứ Nghệ... Tất cả sâu lắng trong lịng Anh, được
chính Anh bổ sung, nâng cao và hồn thiện suốt đời, trở thành lịng nhân ái bao
la Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

và hạnh phúc của quốc dân; Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào
chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó" .


Với Hồ Chí Minh, tình u thương con người là khơng biên giới. Trước hết,


Người lo cho dân tộc của Người và sau đó, Người lo cho tất cả những kiếp người
trên hành tinh cịn bị đoạ đầy, đau khổ, bởi vì: "Họ là thân thích ruột già, cơng
nơng thế giới đều là anh em".


Tư tưởng yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi
người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Cho tới trước lúc đi xa, trong lời Di chúc,
khi để lại: "muôn vàn tình thân u cho tồn dân, tồn Đảng, cho toàn thể bộ đội,
cho các cháu thanh niên và nhi đồng", và "gửi lời chào thân ái đến các đồng chí,
các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế". Người vẫn ân cần nhắc
nhở toàn Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người. Trước hết là những người đã
hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ vợ con
thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ... lo cho hiện tại, lo
đào tạo cho tương lai; Ngay cả "với những nạn nhân của chế độ cũ như: trộm
cắp, gái điếm, cờ bạc, bn lậu... thì nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp
luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện".


Tình yêu thương con người của Bác Hồ là rất cụ thể, từ việc to như lo giải phóng
cho con người, khuyến khích: "phần tốt ở mỗi con người nẩy nở như hoa mùa
xuân, và phần xấu bị mất dần đi", đến việc chăm lo từng con người cụ thể, không
chỉ: Lụa tặng cụ già, sữa tặng bà mẹ sinh ba, mà là từng bát cơm, manh áo, từ
chỗ ở, việc làm để an cư, lạc nghiệp đến tương cà mắm muối hàng ngày cho
nhân dân. Bác lo cho cả dân tộc và chăm lo cho từng chiến sĩ bảo vệ, phục vụ
quanh Người. Theo Bác: Yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con
người. Bác đánh giá cao vai trò của nhân dân: "Trong bầu trời khơng gì q bằng
nhân dân". Bác tơn trọng từ các nhà khoa học, các bậc hiền tài cho tới những
người lao công quét rác, bởi theo Bác, từ Chủ tịch nước tới người lao động bình
thường, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đều được coi trọng, đều vẻ vang như nhau.
Theo Bác, Yêu thương con người là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Năm
1968, khi làm việc với cán bộ Ban tuyên huấn Trung ương về việc xuất bản sách
"Người tốt, việc tốt", nhằm tuyên truyền sâu rộng những gương điển hình tiên


tiến trong lao động sản xuất, trong ứng xử giữa những con người, Bác Hồ đã
nhắc nhở: "Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa.
Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống khơng có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu
chủ nghĩa Mác-Lênin được".


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

viết năm 1965 ra để bổ sung, sửa chữa. Năm 1966, bên cạnh câu đã đánh máy từ
năm 1965: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và
thống nhất của Đảng", Bác ghi thêm vào cùng dịng câu: "Phải có tình đồng chí
thương u lẫn nhau". Chỉ một dịng này thơi, cho thấy sự trăn trở của Người về
việc không ngừng rèn luyện đạo đức cho mỗi cán bộ, đảng viên. Trong bản tự
tay đánh máy năm 1965, Bác gạch chân 5 chữ: Tự phê bình và phê bình. Song
dường như việc nhấn mạnh, kể cả đặt chữ tự phê bình lên trước phê bình chưa
làm Người yên tâm, nên năm 1966 Người bổ sung thêm câu: phải có tình đồng
chí thương u lẫn nhau. Đây chính là địi hỏi xác định động cơ, hay nói chính
xác hơn là cái Tâm của người phê bình. Bởi khi phê bình nhau, cần đúng lúc
đúng chỗ đã khó, song mục đích phê bình để giúp đỡ nhau tiến bộ mới quan
trọng hơn, cái vũ khí phê bình ấy phải trở thành văn hố phê bình, chứ khơng
phải là cớ để sát phạt, bới móc nhau.


Yêu thương con người là một trong bốn chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Các
nhà đạo đức học, các nhà khoa học nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đồng
thuận như vậy. Trong 4 chuẩn mực ấy (Trung với nước, hiếu với dân; yêu
thương con người; cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; tinh thần quốc tế trong
sáng) khơng chuẩn mực nào có thể xem nhẹ, vì cả 4 chuẩn mực ấy là tiêu chí để
đánh giá con người mới, con người mang dấu ấn đạo đức Hồ Chí Minh.


Tháng 5 này nhớ về Người, ôn lại những lời Người dạy về Đạo đức, đặc biệt soi
vào tấm gương đạo đức của Người, vị lãnh tụ suốt đời tôn trọng nguyên tắc:
"Nói thì phải làm", mỗi người chúng ta càng thêm nhớ Bác, càng cố gắng thiết


thực làm theo lời Bác dạy. Mọi người, mọi nhà, mọi cấp, mọi ngành ai ai cũng
khuyến khích cho sự nẩy nở phần thiện vốn có ở mỗi con người và chung tay
đẩy lùi phần ác cũng ln rình rập quanh ta - đó chính là thực hiện chuẩn mực
u thương con người - nét đẹp vĩnh hằng của Đạo đức Hồ Chí Minh.


</div>

<!--links-->

×