Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

the gioi hinh an trong di cao tho Che Lan Vien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.25 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THẾ GIỚI HÌNH ẢNH TRONG DI CẢO THƠ CỦA CHẾ LAN VIÊN </b>
<b>Đặng Thu Thuỷ </b>


Chế Lan Viên là nhà thơ hình thành được phong cách khá sớm. Con đường thơ hơn
nửa thế kỉ của Chế Lan Viên là một con đường có nhiều bước ngoặt, biến đổi, tự phủ định
với nhiều trăn trở, tìm kiếm ráo riết khơng lúc nào n ổn. Chính ý thức về việc "làm sự
phi thường", “tột cùng” từ trước cách mạng đã thúc đẩy nhà thơ khơng ngừng tìm kiếm và
chiếm lĩnh được những đỉnh cao trên hành trình thơ đầy gian khổ. Ln ln trăn trở với
nghề, có ý thức tự giác và thường trực về nghề thơ Chế Lan Viên suy nghĩ nhiều về thơ,
người làm thơ, nghệ thuật làm thơ... Những suy nghĩ ấy bắt nguồn từ một ý thức trách
nhiệm rất cao của người cầm bút, từ ý hướng cách tân, nỗ lực tìm tịi đổi mới thơ.


Theo Chế Lan Viên, nhà thơ là người đi tìm cái thiện, cái chân nhưng phải biểu hiện ra
bằng hình thức đẹp. Viết thơ cũng giống như người phụ nữ sinh con, cả xương cả thịt một lần,
cả hình ảnh lẫn ý tưởng một lúc. Ông quan niệm: “Thơ nghĩ bằng hình ảnh”. Thế giới hình ảnh
trong thơ Chế Lan Viên vơ cùng đặc sắc. Nó vận động và biến đổi cùng với sự vận động và
biến đổi của cái tơi trữ tình. Cái tơi cơ đơn siêu hình thuở <i>Điêu tàn</i> gắn với thế giới hình ảnh ảm
đạm lạnh lẽo mà ghê rợn, đầy rẫy những sọ dừa, xương máu cùng yêu ma. Cái tôi sử thi thời
kháng chiến chống Mỹ gắn với hàng loạt những hình ảnh tươi sáng, kỳ vĩ, mỹ lệ, hoành tráng.
Giai đoạn cuối đời, trong <i>Di cảo</i>, thế giới hình ảnh có xu hướng thu nhỏ tầm vóc, phong phú đa
dạng. Hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên thường có hai loại: hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ
tượng trưng siêu thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

ông đã viết về người cha thân u của mình: “Thời khố biểu của cha tơi cho một ngày
thế nào cũng có giờ làm vườn. Thường vào 10h, khi viết lách, đọc sách đã mệt, ra vườn,
cha tôi đắp đất, làm cỏ như một nông dân”1<sub>. Những năm cuối đời, cõi lịng Chế Lan Viên</sub>
khơng mấy khi thanh thản. Những khi thanh thản thường là những khi Chế Lan Viên trở
về với thiên nhiên hay những khi trở về với thiên nhiên là những khi Chế Lan Viên muốn
tìm cho lịng mình sự thanh thản. Thiên nhiên làm dịu mát, làm yên tĩnh tâm hồn. Ông yêu
biết bao nhiêu “<i>Mảnh vườn bé bỏng vốn không tên... /Hoa trái nghèo xuân sắc bỏ quên/</i>
<i>Xanh um chỉ có màu xanh cỏ/ Anh đặt cho lòng Viên Tĩnh Viên”</i>. Nếu như tơn giáo có sức


hút rất lớn đối với ơng thì thiên nhiên cũng vậy:


<i>Trời đẹp q! Khơng là tơn giáo mà anh chắp tay anh lại</i>
<i>Nhắm mắt anh cho khỏi chói con ngươi vì sắc đẹp của đời</i>


<i><b>(</b>Trời đẹp<b>)</b></i>
Chỉ một màu hoa thôi cũng đủ gọi thức dậy bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi quê
hương yêu dấu. " Tình<i> u làm đất lạ hố q hương". Khi</i> u, đến cả màu hoa cũng khắc
sâu vào tâm khảm. Nó xoa dịu đi nỗi lòng thương nhớ của người xa quê.


Mỗi lần nhắc đến xứ Huế là Chế Lan Viên lại khơng qn nhắc đến hoa sen. Hình
như ơng cảm nhận được ở hoa sen cái hồn của cổ thành:


<i>Thơm ngát mùa sen trắng cổ thành</i>
<i>Về thăm xứ Huế chỉ mình anh</i>
<i>Lăng vua hoa đại rơi đầy lối</i>
<i>Chen bóng cành hoa chỉ bóng mình</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Cảnh đượm một màu thiền. Con người như chen lẫn vào hoa lá, không hề làm khuấy
động không gian thanh khiết yên tĩnh của thiên nhiên. Lịng người hẳn cũng khơng kém
phần thanh tĩnh.


Chế Lan Viên khơng tơ vẽ, khơng thi vị hố cuộc sống. Trong <i>Di cảo</i> có những hình
ảnh chân thực đến trần trụi, thiếu chất thơ, chất mơ nhưng trĩu nặng chất đời. Người đọc
khó mà qn được hình ảnh hàng nghìn mộ cát vơ danh, thời gian đã xố nhồ tên tuổi
của họ - những người cả đời khơng có một phút giây hạnh phúc, sống vô danh chết cũng
vô danh; một nhà thơ tài hoa nổi tiếng mà cả đời sống trong cảnh nghèo, không làm nổi
một cái trần nhà cho tử tế, phải đi hốt lá về để thổi; hình ảnh người lính ngồi bán qn bên
đường ni đàn con nhỏ, quán treo đầy huân chương mọi cỡ, mà không huân chương nào
nuôi được anh; người nông dân đã bốc mộ cho hàng ba trăm thương binh, xếp trên giường


nhà mình như họ cịn nằm ngủ, tận tình, tận nghĩa, qn mình mà “Việc ấy khơng để lại
hào quang trên tay, ánh sáng gì trong mắt” thậm chí cả hn chương trên tường cũng
khơng có. Anh sống trong cảnh chật vật khó khăn, con vào trường khơng có chỗ, khơng ai nhớ,
khơng ai nghĩ đến anh… Có thể gặp trong <i>Di cảo</i> những hình ảnh tưởng chừng khó có thể có mặt
trong thơ: Xe cúp, ti vi, mercedes, comăngca, hình ảnh khói thịt người, xương người bay trên trời
quận Tân Bình từ trung tâm hoả táng Bình Hưng Hồ... Cái xù xì thơ nhám của cuộc đời hiện hữu
trong từng chi tiết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

sảo, khả năng liên tưởng tưởng tượng phong phú, Chế Lan Viên thường phát hiện ra
những mạch ngầm liên kết trong các sự vật hiện tượng. Ngay cả những hình ảnh thực
thường có xu hướng muốn vượt, tràn ra khỏi cái vỏ chật hẹp của bản thân nó để vươn đến
một ý tưởng, một khái niệm triết lý nào đó. Bên cạnh số ít những hình ảnh thực là rất
nhiều những hình ảnh tượng trưng. Những hình ảnh quen thuộc đã gặp trong <i>Điêu tàn</i> giờ
đây lại xuất hiện trong <i>Di cảo</i>: tro bụi, đáy mồ, huyệt tối, đầu lâu, dĩ vãng, bóng tối, đêm
đen, những hình ảnh vũ trụ: trăng sao, Ngân hà, cung Quảng... Đây là lý do khiến có
người cho rằng <i>Di cảo</i> mang đầy đủ dấu vết <i>Điêu tàn</i>. Song nếu như ở <i>Điêu tàn,</i> những
hình ảnh này là hiện thân của một quá khứ đau buồn – cái quá khứ nhà thơ muốn lẩn trốn
vào để quên đi thực tại. Cịn ở <i>Di cảo </i>chúng có sứ mệnh cao hơn. Chế Lan Viên nghĩ và
viết nhiều về những vấn đề sâu thẳm của cõi tâm linh. Ông triết lý về đời người, về số
phận con người trong vũ trụ, giữa dịng chảy của thời gian.


Có những hình ảnh đã trở đi trở lại, vừa quen lại vừa lạ. Ta vừa bắt gặp nó ở nơi này,
gặp nó ở nơi kia nhưng trong một màu vẻ khác, hấp dẫn và cuốn hút kỳ lạ. Đó là hoa, là
ngọc, là trang giấy, ngọn đèn... Trong 3 tập <i>Di cảo</i> thơ, hoa xuất hiện trên dưới không
dưới 30 lần: cả hoa khơng tên và có tên: hồng thảo hoa vàng, hoa giấy, hoa sữa, hoa chạc
chìu, hoa gạo đỏ, hoa quỳnh, hoa nhài, sen trắng, sen hồng, hoa súng tím, phượng đỏ,
bằng lăng, hoa lau, hoa mai, hoa dẻ vàng, hoa đỏ màu yên chi, hoa hồng vàng... Hoa làm
đẹp cho đời, để thương để nhớ cho người.


<i>Đã hoa nhài trắng cịn sen trắng</i>


<i>Mùa hè ơi, sao người khéo đa tình</i>
<i>Đầy đường phượng đỏ, bằng lăng tím</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Những bơng dẻ vàng nhỏ bé rơi đầy mặt đất chẳng mấy người để mắt mà cũng níu giữ
hồn thơ. Và ngược lại, nhà thơ lại là người lưu giữ mãi hương thơm của trời.


Khi thì hoa xuất hiện như một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng. Cầm trên tay một cành
hoa khô ta thấy mùi hương và năm tháng. Hiếm có nhà thơ nào lại dùng hoa để chỉ một
khái niệm thời gian như thế này:


<i>Gặp nhau như mùa sen</i>
<i>Thoáng chốc mùa thu đến</i>
<i>Tàn sắc trắng im lìm</i>
<i>Những đài hoa bịn rịn</i>


(<i>Sen</i>)
Thoáng đọc ta sẽ lầm tưởng đây là bài thơ viết về hoa sen. Khơng có một chi tiết cụ
thể nào về cuộc gặp gỡ. Nhưng người đọc vẫn có thể hình dung ra một cuộc gặp thật ngắn
ngủi như mùa sen chẳng kéo dài, thoáng chốc thu đã đến, sen tàn. Cuộc gặp gỡ không
chút ồn ào, một nỗi bâng khng lan toả, im lìm mà thấm thía, bao lưu luyến bịn rịn
khơng nỡ chia xa.


Hoa cịn tượng trưng cho sức sống, sức sáng tạo dẻo dai mãnh liệt (<i>Hoa trên bê tơng),</i>
hoa – một tình u thầm kín (<i>Hoa hải âu</i>), hoa – cái đẹp, nghệ thuật – những giá trị vĩnh
hằng (<i>Xiếc)</i>, hoa là hiện thân của quá khứ (<i>Hoa chạc chìu)...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Hình như Chế Lan Viên có cảm tình đặc biệt với những lồi hoa bình dị: hoa sen, hoa
súng, hoa lau. Có phải vì ơng tìm thấy ở đó sự đồng điệu, đồng cảm? Trong khơng khí <i>Di</i>
<i>cảo</i> cứ thoang thoảng thoang thoảng một mùi hương dân dã, không nồng nàn mê hoặc mà
vẫn khó qn dễ nhớ: hương sen. Khơng rực rỡ chẳng kiêu sa, kể cả khi đã tàn, sen vẫn


lặng thầm thơm thảo một mùi hương. “<i>Hoa có đẳng cấp hoa mà mùi hương khơng có</i>”
nhưng hương sen- thứ hương đồng nội có thể “<i>vượt tường vào tận cung vua. Đánh đổ các</i>
<i>hoa khuynh quốc, khuynh thành trong ấy</i>”. Có lẽ khơng phải ngẫu nhiên mà Chế Lan Viên
hay nhắc nhiều đến hoa sen.


<i>Anh có cho tơi làm hoa sen khơng và trong lý lịch có bùn?</i>
<i>Thân phận mà người ai chả có bùn đen?</i>


<i>Giết chết một mùi hương dễ thôi, cứ quậy bùn lên để giết</i>
<i>Nhưng vượt lên bùn sen cứ ngát hương sen</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>tâm, dặm tinh thần”, </i>là<i> “tuổi</i> <i>thơ”, " hạnh phúc mất đi</i>”( <i>Ngàn lau 2</i> ). Một mối hoài cảm
bâng khuâng cứ lan toả, dịu nhẹ mà thấm thía mỗi khi Chế Lan Viên nhắc đến lau. Hình
ảnh cây lau gầy guộc mong manh cứ xào xạc trong gió chẳng mấy người biết đến còn gợi
những liên tưởng về kiếp người. Dẫu có “<i>phong cho mình nhiều danh hiệu</i>” thì rốt cục anh vẫn
là cây lau (<i>Lau</i> ). Người ta thấy số phận con người trong số phận một nhà thơ lớn và thấy số
phận nhà thơ trong số phận con người. Khó mà quên được một nỗi đau nhức nhối thế này:


<i>Ôi hoa lau đường máu</i>
<i>Trắng làm chi anh buồn</i>
<i>Giá được màu hoa tím</i>
<i>Hẳn hồn nhẹ đau hơn</i>


<i>(Hoa lau đường 9)</i>
Song dù có thế nào chăng nữa cho đến tận cuối đời cây lau vẫn tự nguyện, vẫn mong
muốn được đun thành lửa cho người ta thổi cơm hàng bữa. Buồn đấy, đau đấy, số phận
mong manh, xác xơ trong gió bão cuộc đời nhưng vẫn có ích cho đời. Tự nhắc mình phải
“<i>ra khỏi sức hút của danh vọng, bản thân, tên tuổi. Trộn hạt giống anh vào trăm giống</i>
<i>cao sang hay hèn hạ của đời”, muốn đổi Lời - phải</i> đổi? ời. Có khi cây lau chính là hình
ảnh tượng trưng cho cội nguồn, cho đời thường dân dã mà ông khao khát được trở về:



<i>Cho tôi về với cành lau vàng vọ</i>


<i>... Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa</i>
<i>Xa tiếng gió xào xạc</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Hồn ta ở đâu?</i>


(<i>Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh</i>)
Cuộc đời Chế Lan Viên chẳng khác nào con trai làm ngọc. Âm thầm lặng lẽ, chịu
đựng hết thảy sự lăng nhục của bùn, sự tàn bạo của sóng, thơ bạo của thuỷ triều mà ngọc
định hình. Hình ảnh viên ngọc tượng trưng cho sự kết tinh chắt lọc những tinh hoa tài năng tâm
huyết của cả một đời thơ, một đời người:


<i>Mỗi con trai nhả ngọc một lần thôi</i>
<i>Viên ngọc đầu tiên cũng là viên sau chót</i>


<i>Khơng như ta viên ngọc sau cùng, rồi lại làm viên thứ nhất</i>
<i>Đấy là nỗi đau và hạnh phúc của con người</i>


(<i>Viên ngọc sau cùng</i>)
Khơng ít lần Chế Lan Viên bày tỏ lịng khâm phục đối với những bậc tiền nhân vì họ
đã để lại cho đời những viên ngọc thơ sáng chói. Chế Lan Viên đâu biết rằng cho đến tận
những năm tháng cuối cùng, ơng cịn dâng cho đời những viên ngọc quí giá. Khắc sâu
trong <i>Di cảo </i>thơ là tư thế thường trực của một con người luôn “thức gắng” trong cuộc
chạy đua với thời gian và cái chết để mà kết tinh viên ngọc của mình. Hình ảnh bộ ba:
trang giấy - ngọn đèn – nhà thơ khi mờ khi tỏ trên mỗi trang <i>Di cảo</i>. Trong bộ ba ấy, sứ
mệnh nhà thơ là cao hơn hết thảy. “<i>Chỉ còn anh thơi là cứu cho tất cả”.</i> Hình ảnh người
xâu kim, người tử tù đan áo, người dệt thảm, người tìm trầm giữa ngàn cao lắm hổ, con
ong triết học … nhất thể đều là hoá thân của nhà thơ -con người có khát vọng sống, khát vọng sáng


tạo khơng mệt mỏi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

ý tưởng có thể được diễn đạt bằng nhiều hình ảnh.


Trong <i>Di cảo</i> có nhiều hình ảnh hư ảo mơng lung khó tưởng tượng, khó nắm bắt,
những hình ảnh siêu thực: Bến Lú, sông Tương, sen hư tưởng, tro và lửa, ngôi đền quên
lãng, lá sen hồ, hoa hồng lãng quên, ngựa hồng, dấu son mơi nhà thơ để lại, sóng ln hồi,
muối cơ đơn, xứ tuyết trắng, xứ cơm đen, bình đựng lệ, tháp bay -on bốn mặt, cái cây
truyền kiếp, cành huệ vơ ý thức, cái bình thời gian, cháo bà tiên, suối đen của sự chết,
dòng lãng quên trắng bệch, mơi hồng của tình u... Có thể nói đó là những hình ảnh mới
lạ mang đậm tính triết học, thể hiện khả năng sáng tạo, tầm trí tuệ của Chế Lan Viên. Đọc
<i>Di cảo </i>thơ người đọc sẽ lạc vào một thế giới hình ảnh hết sức đa dạng phong phú. Nó như
một mê cung dẫn dắt ta từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, ánh sáng lúc mờ lúc tỏ, cảm
giác lúc thân quen, lúc lạ lùng. Với tài năng sáng tạo hình ảnh, Chế Lan Viên đã mở rộng
phạm vi phản ánh đời sống của thơ trữ tình. Để xây dựng lên thế giới hình ảnh này Chế
Lan Viên đã sử dụng rất nhiều các thủ pháp nghệ thuật như: ẩn dụ, so sánh, phóng đại,
thậm xưng. Liên tưởng, tưởng tượng là những phương thức sáng tạo hình ảnh rất phổ biến
trong <i>Di cảo</i> ở thơ Chế Lan Viên. “Mỗi ý là một hình ảnh” song khơng có nghĩa là ơng
“phiên dịch ý tình ra hình ảnh”. Tư tưởng, cảm xúc đã hố thân vào hình ảnh và ngôn ngữ
như linh hồn với thể xác, trong ý có hình trong hình có ý.


Chế Lan Viên đã ra đi vào "xứ khơng màu" ngót 20 năm song những dịng thơ ơng để
lại cho đời vẫn khơng cũ đi, già đi. Đó là do nỗ lực tìm tịi, đổi mới và sáng tạo của nhà
thơ. Ngày nay, trong dòng chảy của văn học đương đại, thơ Chế Lan Viên vẫn là những
bài học ý nghĩa cho những người cầm bút.




</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10></div>

<!--links-->

×