Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận quan niệm về lễ của nho giáo giai đoạn từ khổng tử tới tuân tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.8 KB, 18 trang )

Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

A. MỞ ĐẦU

Trong kho tàng tri thức triết học Trung Quốc, học thuyết Nho giáo có
những yếu tố tích cực, tiến bộ nhất định. Nho giáo ra đời cách đây 2500
năm. Nó là một học thuyết rộng lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa,
tư tưởng của nhiều nước phương đơng. Đặc biệt, quan niệm về Lễ của Nho
giáo là một trong những quan niệm có nhiều yếu tố tích cực, tiến bộ trong đó
nổi bật là ý tưởng cho rằng xã hội phải có Lễ thì mới ổn định và phát triển.
“Lễ” là phạm trù xuyên suốt trong học thuyết Nho giáo. Từ Khổng Tử tới
các nhà nho sau này, hệ thống Nho giáo mỗi ngày một hồn thiện thì phạm
trù “Lễ” ngày càng được bổ sung nghiêm ngặt. “Lễ” là một cái khuôn định
danh phận trật tự rõ ràng, là công cụ cho giai tầng thống trị phong kiến hàng
bao thế kỷ để nơ dịch nhân dân theo ý chí kẻ cầm quyền. Có thể nói, Lễ có
những tác dụng rất to lớn trong hồn cảnh xã hội chính trị Trung Quốc thời
bấy giờ. Từ Khổng Tử, Mạnh Tử đến Tuân Tử, phạm trù lễ đã được phát
triển theo những nội dung khác nhau, ngày càng đầy đủ hơn và chặt chẽ hơn.

1
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

B. NỘI DUNG

1. “Lễ” trong quan hệ giữa con người với trời đất, quỷ thần.
Theo “Từ điển thuyết văn giải tự”, lễ là “Kính thần cầu phúc” phản
ánh quan hệ giữa người và thần. (Trích theo Lê Văn Quán “Lễ giáo Nho gia
kìm hãm bước tiến lên của phụ nữ Việt Nam hiện nay”- Tạp chí Văn hóa


Nghệ thuật số 1 năm 1997)). Theo các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng
Trung Quốc, ban đầu, Lễ theo nghĩa đen thì hồn tồn chỉ có ý nghĩa cúng
tế thần linh – một lễ nghi tô tem giáo của người xưa. Về sau, Chu Công Đán
là người chế tác ra Lễ với rất nhiều nghi thức, nhằm mục đích xác định các
mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự đẳng cấp của xã hội nhà Chu. Vì thế mà
nội dung của Lễ đã chuyển từ tế lễ (tơn giáo) sang chính trị - đạo đức, và trở
thành công cụ thống trị của giai cấp quý tộc nhà Chu, trở thành một phạm
trù cơ bản của học thuyết Nho giáo, mặc dù sách Chu Lễ có viết: “Lễ khơng
xuống tới thứ dân”. Sau này cũng vì mục đích bảo vệ chế độ tông pháp nhà
Chu và để ổn định trật tự xã hội mà Khổng Tử tuyên bố: “Ngơ tịng Chu”.
Dần dần trong q trình nhận thức ơng đã nhận ra được ý nghĩa đạo đức và
văn hóa của Lễ. Lễ được coi là tiêu chuẩn để đánh giá con người đối xử với
nhau có yêu quý và tôn trọng nhau hay không.
Như vậy, ban đầu quan niệm về Lễ gắn với tư tưởng chính trị thần
quyền và nó tạo nên sự phân chia đẳng cấp trên dưới giàu nghèo, thân sơ
theo chế độ quý tộc, quy định trật tự tôn ti chặt chẽ. Nội dung của Lễ rất
rộng lớn, nó bao gồm các nghi thức như tế lễ, hơn lễ, tang lễ…nó cũng là
nhưng quy phạm đạo đức và nghi thức lễ tiết của trật tự xã hội – trong thực
2
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

tế nó bao gồm chế độ điển chương quan hệ xã hội cũ. Điều đó tức là, lễ hiểu
theo nghĩa hẹp thì đó là những hình thức lễ nghi hơn, quan, tang, tế…trong
triều đình, qn lữ, trong gia đình, gia tộc; cịn theo nghĩa rộng thì Lễ cịn có
nghĩa là sự quy định những quyền bính của vua quan, những bổn phận của
bầy tôi, của thần dân, những quan hệ giữa người với người nói chung, giữa
các tầng lớp, giữa các giai cấp trong xã hội mà mọi người phải tôn trọng và

tuân thủ. Hơn nữa, nó cịn là một đức cần có của con người, là một yếu tố
không thể thiếu được trong đạo làm người theo quan niệm Nho gia – đó là
thái độ, là ý thức giữ gìn, tơn trọng lễ nghi, kỷ cương và trật tự xã hội đã
được quy định ấy.
Nho giáo chủ trương cúng tế là vì nó tin ở trời đất, thiên mệnh và quỷ
thần, coi quỷ thần là cái khí thiêng liêng trong trời đất, mắt ta khơng trông
thấy, tai ta không nghe thấy nhưng đâu đâu cũng lại hình như ở trên đầu ta, ở
bên tả bên hữu ta cho nên ta cần phải kính cẩn phụng thờ, như Khổng Tử
nói: “Tế thần như thần tại”(tế thần như có thần ở trước mặt - Luận ngữ, Bát
dật 12).
Quỷ thần là thơng minh chính trực, khơng thiên vị ai, người ta cứ theo
lễ cơng chính mà làm, cứ cố gắng làm cho trọn vẹn cái bổn phận của mình
rồi quỷ thần, trời đất chứng giám cho, hà tất phải nay cầu mai nguyện làm
gì, bởi những bậc chính nhân quân tử cứ theo lễ công nhiên của trời đất mà
làm thì ấy cũng là cầu nguyện rồi. Cịn nếu những kẻ bất nhân, bất nghĩa,
hành vi trái đạo tức là mắc tội với trời thì dẫu có ra sức cầu đảo cũng khơng
thể nào thốt được (Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo giã - Luận ngữ, Bát dật 13).
Khổng Tử vốn tin vào trời và mênh trời, nhưng ông cũng cho rằng quỷ thần
là cái cao xa u uẩn, ta không thể biết rõ mà chỉ nên lấy lịng thành kính đối
đãi là được, ta cứ chăm lo làm việc nghĩa trước đã: “Vụ dân chi nghĩa, kính
3
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

quỷ thần nhi viễn chi” (Luận ngữ - Ung giã 6). Việc thờ phụng phải lấy lịng
“kính” và “thành” thì mới cảm động đến trời đất quỷ thần được. Khổng Tử
rất coi trọng tế “trong việc ăn uống thì đạm bạc, nhưng lễ vật dâng quỷ thần
thì trọng hậu, y phục thường mặc thì xấu mà áo mũ trang sức trong dị tế lễ

thì đẹp đẽ” (Luận ngữ, Thái bá 21).
Trong việc cúng bái trời đất, quỷ thần hay thờ cúng tổ tiên thì khơng
phải ai cũng như nhau mà phải tùy vào địa vị chức phận của mình. Những
người có danh vị khác nhau thì lễ cũng khác nhau, cho nên mới có lễ của
thiên tử, lễ của chư hầu, lễ của đại phu và lễ của kẻ sĩ: “Thiên tử lễ trời đất,
tế bốn phương, tế núi song, tế năm tự. Chư hầu tế phương tự và năm tự. Đại
phu tế năm tự. Sỹ tế tổ tiên mình” (Lễ ký, chương Vương Chế). Hay như
Mạnh Tử nói: “Trong Kinh thi có chép rằng: khi mình dâng cúng lễ vật cho
quỷ thần, mình cần giữ nhiều nghi tiết một cách cung kính. Nếu lễ vật nhiều
mà nghi tiết cung kính sơ sót thì kể như mình chẳng dâng cúng, là vì chẳng
dung tâm chí vào sự tế vậy” (Cáo Tử Hạ 5). Những ai vi phạm quy định của
Lễ đều bị trừng trị nghiêm ngặt.
Như vậy Lễ của Nho giáo trước hết đó là sự thể hiện mối quan hệ của
con người với trời đất, quỷ thần, với tổ tiên; là cách thức tế lễ cúng bái…
phải có lễ, nhờ lễ mà quan hệ ấy mới được thông suốt, qua lễ mà quỷ thần,
tổ tiên mới chứng giám cho sự “thành” và “kính” của mình; qua lễ mới tỏ
được đức hiếu của mình với linh hồn của tổ tiên. Nhưng ta thấy rằng việc
cúng tế trời đất, quỷ thần cũng chính là nhằm củng cố cho con người ta một
niềm tin vào trật tự xã hội và mênh trời xếp đặt bởi cũng cùng việc tế tự ấy
nhưng không phải người nào cũng được tế tự như nhau.

4
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

2. Lễ là những quy phạm ràng buộc mối quan hệ giữa người với
người từ trong gia đình cho đến ngồi xã hội.
Trong xã hội lồi người, quan hệ giữa người với người rất phong phú

và phức tạp, trong những quan hệ ấy cũng có sự quy định rạch rịi, và đó
được coi như là trật tự của trời đất. Sách Lễ kí viết: “ Lễ phân ra trật tự khác
nhau để cho vạn vật có thứ tự phân minh”; “ Trời cao đất thâp, muôn vật
khác nhau cho nên thánh nhân mới nhân đó mà định ra lễ chế để phân tôn ti
trật tự và tiên vương chế ra lễ nhạc không phải để làm cho cùng cực cái dục
của miệng, bụng, tai, mắt, nhưng để khiến dân giữ lòng hiếu ố cho vừa phải
mà sửa lại cái đạo làm người cho chính vậy” ( Nhạc Ký 19).
Lễ là toàn bộ những quy tắc lớn nhỏ trong cuộc sống, là những yêu
cấu hàng ngày của trật tự phong kiến mà nhất thiết mọi người phải tuân theo.
Nho giáo yêu cầu phải rèn luyện con người đi vào những quy tắc ngay từ
thủa còn thơ ấu phải xây dựng cho con người những khuôn phép tốt đẹp để
chúng suốt đời tôn trọng và làm theo những khuân phép này, được quy định
dựa trên cơ sở tập quán cũ của nhà Chu là một số những yêu cầu thiết thực
của trật tự xã hội đương thời. Nho giáo địi hỏi mọi người phải tn thủ
những khn phép ấy từ việc tế lễ quỷ thần cho đến mọi quan hệ vua – tôi,
cha- con, anh- em, chồng – vợ, bằng hữu… và ngay cả những sinh hoạt hàng
ngày của mỗi con người.
Coi lễ là nguồn gốc của nhân, biểu hiện thái độ của lễ là ở kính, ở
lịng chí thành, ơng đã ví lễ cao đẹp như ngọc lụa, như chiêng, trống. Khắc
kỉ phục lễ chính là để con người tự rèn luyện các phẩm chất đạo đức như
cung, khiêm, dũng, trực,… để trở thành con người có nhân cách tốt trong xã
hội. Lễ đã trở thành những quy phạm bắt buộc là tiêu chuẩn phổ biến của xã
hội để điều chỉnh hành vi của con người. Nó không chỉ là phong tục tập
5
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

quán của lễ giáo cổ đơn thuần mà còn là điển chương, pháp luật, nếp sống,

… mang ý nghĩa đạo đức- văn hóa rộng lớn.
Nho giáo nêu lên một cách nổi bật nhất những quan hệ giữa người với
người, đặt ra “ Ngũ luân” ( quân thần, phụ tử, phu thê, trưởng ấu, bằng hữu),
bên cạnh đó cịn có những quan hệ thầy trị, quan hệ chủ khách, chủ tớ, quan
hệ hương đảng ( nghĩa là làng xóm)… ở đâu cũng có trên, có dưới, có ngang
vai ngang vế với nhau. Trong ngũ luân ấy lại có ba mối quan hệ được Nho
giáo đặc biệt đề cao gọi là “ Tam cương” : quân thần, phụ tử, phu thê ( vuatôi; cha- con; chồng – vợ). Bao quát những mối quan hệ lớn nhất, theo Nho
giáo có mười đức : “ cha từ, con hiếu; anh lành, em đễ; chồng có nghĩa, vợ
vâng lời; trưởng có ân, ấu ngoan ngỗn; vua nhân, tơi trung”.
Mạnh Tử cũng rất coi trọng và đề cao lễ. Với Mạnh từ, mục đích giáo
dục của ơng cũng chỉ là để làm sáng tỏ “ minh luân” khiến cho mọi người
đều biết lễ trong quan hệ với nhau: “ cha con phải có tình thương u nhau,
vua tơi phải có nghĩa, vợ chồng phải kính nể nhau, già trẻ phải có thức bậc
trên dưới, bạn bè phải có tín” ( Mạnh tử, Đằng văn cơng thượng). Ơng chỉ
rõ thực chất của lễ: là hình thức biểu hiện của nhân nghĩa, là hình thức biểu
hiện của thực hành đạo làm người của Nho giáo theo những bậc khác nhau
( năm bậc) ứng với ngũ luân. Cùng với “ Tứ đoan” ông chỉ rõ nguồn gốc của
lễ ở trong bản tính con người đó là lịng từ nhượng.
Đến Tn tử, ơng cũng coi “ Lễ là cái cùng cực của mọi người vậy”
( lễ luận 19). Nhưng Tuân tử đã tiến hành cải tạo lễ của Khổng _ Mạnh, và
về phương diện này ông cũng có những đóng góp rất lớn. Ơng giải thích rõ
ràng đầy đủ và sâu sắc về nguồn gốc, nội dung, vẻ đẹp và tác dụng của lễ
theo lập trường duy vật triệt để. Theo ông, đối tượng của lễ gồm ba nguồn
gốc ( yếu tố): Trời đất, tổ tiên, vua và thầy. Ba nguồn gốc đó mà mất một thì
6
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử


xã hội loạn, vì thế lễ là “ trên thờ trời, dưới thời đất, tôn vinh tổ tiên, quý
trọng vua và thầy” ( Giản chi, Nguyễn Hiến Lê, Tuân tử, nxb Văn hóa Hn,
1994, tr305). Nhưng chúng ta biết rằng nguồn gốc thật sự của Lễ là do sự
quy định của điều kiện kinh tế- xã hội. Vì thế Tn tử mới nói “ vì ghét
loạn và mong muốn có bình trị mà tiên vương chế ra lễ để phân biệt trên
dưới, khiến cho sang hèn có đẳng cấp, già trẻ có sự sai biệt, trí ngu tài giỏi,
kém cỏi đều có phân vị khác nhau, để không tranh nhau, không tiếm vượt”
( Giản chi, Nguyễn Hiến Lê, Tuân tử, nxb Văn hóa Hn, 1994, tr303- 308).
Ơng ca gợi vẻ đẹp văn hóa và tác dụng của lễ: Nó “ rất mực uy nghiêm và
rành mạch; nó là bài thuốc diệt trừ tính ác để cho con người thực hiện hết
cái đạo lý “ quần cư hòa nhất” ” ( Giản chi, Nguyễn Hiến Lê, Tuân tử, nxb
Văn hóa HN, 1994, tr312). Nó khơng chỉ làm cho trời đất hòa hợp, xã hội ổn
định mà còn là “ tiêu chuẩn cực tốt của đạo làm người” ” ( Giản chi,
Nguyễn Hiến Lê, Tuân tử, nxb Văn hóa Hn, 1994, tr 308). Lễ làm ra là để
xây dựng những tập quán luân lý, đạo đức, để tô đẹp cho đời, để cho con
người đối xử với nhau có đạo đức văn hóa.
Dựa trên quan điểm của Tuân tử, quan niệm về lễ của Nho giáo ngày
càng được phát triển đầy đủ hơn. Điều đó được thể hiện rõ trong sách Lễ ký,
thiên Lễ Vận như sau : “ lễ, ấy là quyền bính lớn của nhà vua, để phân biệt
chỗ ngờ, làm sáng tỏ chỗ tế vi, tế lễ quỷ thần, khảo sát chế độ, phân biệt
điều nhân nghĩa, để làm chính sự yên ổn cho vua vậy” (dẫn theo: Nguyễn
Đăng Thục, Lịch sử triết học phương Đơng, tập 1, nxb tp Hồ Chí Minh,
1991, tr 24). Lễ qua Tn tử cải tạo cịn có điểm khác với lễ của Khổng
Mạnh, ông chủ trương rằng nếu con em vương, công, sĩ, đại phu mà không
phù hợp với tiêu chuẩn lễ (của xã hội phong kiến) thì hạ xuống làm thứ dân,
con em thứ dân mà phù hợp với tiêu chuẩn lễ ấy thì có thể làm nên khanh
7
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học



Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

tướng, sĩ, đại phu- điều đó căn bản có khác với chế độ thế tập huyết thống
cũ, đã mở ra cơ hội cho những người không thuộc hồng thân tơn thích có
hy vọng tham gia chính quyền. Ơng cịn kết hợp lễ với pháp, coi lễ là cái
phận lớn của pháp luật và trái lễ là khơng có pháp luật.
Có thể nói, Lễ là trung tâm của nền chính trị Nho gia và là hình thức
biểu hiện của một xã hội thái bình thịnh trị, là tiêu chuẩn để đánh giá con
người và chế độ xã hội. Khổng Tử từng nói: “Khơng phải Lễ thì khơng nhìn,
khơng phải lễ thì khơng nghe, khơng nghe, khơng nói và khơng hành động”
(Luận ngữ, Đồn Trung Cơn dịch, Sài Gịn 1950, tr281). Mọi hành động vượt
q lễ đều khơng đúng và khơng tốt vì “cung kính q lễ thì thành ra lao
nhọc thân hình, cẩn thận quá lễ thì thành ra nhát gan, dũng cảm quá lễ thì
thành ra loạn nghịch, ngay thẳng quá lễ thì thành ra gắt gỏng bất cập” (Luận
ngữ, Đồn Trung Cơn dịch, Sài Gịn 1950, tr29).
Lễ do thiên tử đặt ra để dạy dân, nhưng nó khơng phải là cái bất biến
mà cũng quyền biến (tuỳ thời mà thay đổi), để cốt sao cho nước trị, dân yên,
“xây dựng được những tập quán đạo đức luân lý cho con người”. Vì “cái gốc
của Lễ là thuận lòng người (được mọi người tán thành); cho nên những điều
gì Kinh Lễ khơng chép mà thuận lịng người thì cũng là Lễ” (Giản Chi,
Nguyễn Hiến Lê. Tuân Tử. Nxb Văn hoá Hà Nội, 1994, tr107). Với quan điểm
duy vật tiến bộ, mục đích của Lễ được hiểu tốt đẹp như vậy là cơ sở để có thể
mở rộng và phát triển những nội dung tiến bộ, phù hợp của nó nhằm đáp ứng
yêu cầu của xã hội, loại bỏ những gì khơng cịn là Lễ khi điều kiện kinh tế xã
hội đã thay đổi. Nhưng sau này nội dung tiến bộ đó của Lễ đã bị các nhà Nho
đời sau loại bỏ, do tuyệt đối hoá và đề cao Lễ theo lập trường duy tâm.
Lễ đã quy định trật tự trong xã hội có thứ bậc, trên dưới, mọi hành vi
ứng xử phải theo một lề thói nhất định. Một xã hội với trật tự như vậy, tưởng
8
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học



Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

chừng như một sự ổn định vững bền nhưng xét ra, bên trong nó lại chứa đựng
bao nhiêu mâu thuẫn, nó đã làm mất đi bản tính tự nhiên vốn có, kìm hãm sự
độc lập sáng tạ, chặn bước tiến lên của con người. Nhưng cần phải hiểu rằng,
trong thời đại đó thì Lễ thực sự là một biện pháp hữu hiệu để nhằm kéo xã hội
ra khỏi cảnh “đời suy đạo yếu”.

3. Tác dụng của Lễ
Chủ trương của Nho giáo là dùng Lễ để đưa xã hội từ loạn thành trị.
Việc thực hiện Lễ đã có những tác dụng rất lớn.
Thứ nhất, lễ quy định danh phận của từng người trong xã hội theo địa
vị đẳng cấp, ngôi thứ rõ rang, không ai được tiếm vượt. Thi hành nó sẽ có tác
dụng ổn định trật tự xã hội. Thời đại Khổng Tử sống là thời kỳ loạn lạc, “lễ
giáo suy vi, cương thường đổ nát” mà ơng phải thốt lên rằng, đó là thời “lễ
loạn nhạc tan”, là thời “vua không ra vua, tôi không ra tơi, cha khơng ra cha,
con khơng ra con”. Vì thế mà ước nguyện của ông là cứu vãn nguy cơ của xã
hội đương thời, khôi phục lại trật tự tôn ti, quay về với cương thường lễ chế
nhà Chu, quy định danh phận rõ rang cho từng người, bởi nếu danh mà chính
thì thiên hạ sẽ được thái bình. Ông đã dùng danh để quy định nên thực chứ
không phải dùng thực để đặt nên danh, đây chính là tư tưởng bảo thủ của
Khổng Tử. Khổng Tử đã giải thích rằng xã hội phải có lễ vì “khơng có lễ lấy
gì phân biệt địa vị vua tơi, trên, dưới, lớn, nhỏ. Khơng có lễ lấy gì phân biệt
tình thân mật của trai gái, cha con, anh em, sự giao thiệp sơ hay thân của hôn
nhân vậy” (Dẫn theo Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử triết học phương Đông, Tập
2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr.19). Vì vậy vua phải sống xứng đáng
là vua, bề tôi đáng phận bề tôi, cha đáng cha, vợ đáng vợ, chồng đáng chồng,


9
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

con đáng con…Ai nấy làm hết phận sự, trách nhiệm của mình trong các quan
hệ giao tiếp.
Tiếp thu quan niệm của Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng: “Nếu trong
nước chẳng có lễ nghĩa, ắt ngơi thứ kẻ trên người dưới đều lộn bậy hết cả”
(Tận Tâm Hạ 12). Như vậy Lễ là tiêu chuẩn khách quan để quy đinh danh
phận, sự khác biệt về địa vị, quyền hạn và trách nhiệm của từng hạng ngưòi
trong xã hội.
Theo tinh thần đó, Tn Tử cịn phân tích kỹ hơn và khẳng định
“Phân theo lễ là định rõ danh phận” (Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê. Tuân Tử,
Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1994, tr.107). Ơng nói “có dạng sang hèn, có lớn bé
khác nhau, có danh phận trí ngu, có tài, bất tài, khiến cho mọi người đều làm
phận sự của mình và mỗi người đều được cái phần đáng được của mình”.
Có thể nói trong xã hội phong kiến lúc đó Lễ gắn với sự tồn vong của
đất nước. Nhờ có Lễ mà xã hội ổn định, có trật tự kỷ cương, đạt được chính
danh.
Thứ hai, nhờ có lễ mà giáo dục, rèn luyện được tâm tính con người,
đưa con người trở về với tính thiện bẩm sinh, đưa con người từ ác trở nên
thiện. Khổng Tử là một trong những người đầu tiên đề xướng việc học lễ và
dạy lễ cho học trị, cho mọi người. Ơng cho rằng học lễ là điều kiện đầu tiên
không thể thiếu được của mỗi người trong xã hội. Con người ta phải tự mình
rèn luyện, học theo Lễ vì “kinh lễ dạy người ta ở đời cho có quy củ” (Khổng
Tử. Luận ngữ, tr 187), nếu không học được kinh lễ thì khơng biết cách đứng ở
đời.
Đối với Khổng Tử, Lễ gắn chặt với nhân, nếu khơng có lễ thì chỉ là

hình thức giả dối, là những nghi tiết phiền tối mà thơi. Khổng Tử nói “người
10
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tn Tử

ta mà chẳng có lịng nhân, làm sao mà thi hành lễ tiết” (Luận ngữ, Bát dật 3).
Lễ là tiêu chuẩn của nhân, chỉ có làm theo quy định của lễ mới đạt được điều
nhân. Khổng Tử nói” “Khắc kỷ phục lễ vi nhân” (hạn chế lịng tư dục mà theo
về lễ tiết, đó là nhân vậy), và ngày nào mà mình khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi
người trong thiên hạ tự nhiên cảm hố mà theo về điều nhân” (Luận ngữ,
Nhan Uyên 1).
Khổng Tử có chủ trương cải lương, ơng muốn dùng “đức” và “lễ” để
bổ sung cho “chính” và “hình”. Theo ơng nếu “dùng chính pháp để dẫn đạo
dân, dùng hình phạt để tề chỉnh dân, dân chỉ tạm thời khỏi mắc tội lỗi nhưng
khơng có liêm sỉ. Nếu như dùng đạo đức để dẫn dụ dân, lấy lễ giáo để tề
chỉnh dân thì chẳng những dân có liêm sỉ mà lại cịn trừ bỏ được cả ác tâm
mà lòng người quy phục” (Luận ngữ, Vi chính 3). Như vậy nếu chỉ dùng mệnh
lệnh và hình phạt, theo ơng chưa đủ mà cần phải có đức để tăng cường giáo
dục, phải dùng lễ để ràng buộc con người. Lễ ở đây đóng vai trị là một
ngun tắc chính trị quan trọng, một cơng cụ chính trị mạnh mẽ của một
phương pháp trị nước trị dân đắc lực lâu đời mà Nho giáo nói chung và Khổng
Tử nói riêng đã cống hiến cho bao nhiêu thời đại đế vương.
Lễ chỉ cho người ta điều hay lẽ phải, hành động theo lễ sẽ đạt đến điều
nhân, cảm hoá được người khác. Mạnh Tử cho rằng: “Lễ giảng điều tín, sửa
điều hồ mục, đề cao lịng từ nhượng, khiến người ta từ bỏ các mối tranh
chấp vì lợi riêng để trở về với tính thiện bẩm sinh” (Dẫn theo Nguyễn Đăng
Thục. Lịch sử triết học phương Đơng, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1990, tr.20-21). Mạnh Tử quan niệm, bản tính con người sinh ra vốn là lành

nhưng phải có lễ để giữ gìn cái bẩm tính lành ấy. Ơng nói: “người tuy có đạo
lý nhưng cứ ăn no, mặc ấm, ngồi yên mà chẳng có giáo dục thì gần với lồi
cầm thú rồi đó” (Đằng Văn Cơng Thưởng 4) và “bất nhân, bất trí, vô lễ, vô
11
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

nghĩa - kể như vậy chỉ đáng làm tôi tớ cho người mà thôi” (Công Tôn Sửu
Thượng 7).
Nếu Mạnh Tử cho bản tính con người là thiện thì Tn Tử lại cho rằng
bản tính của con người là ác, người ta sinh ra đã có các loại dục vọng về sinh
lý: thích lợi, ghét ác, thích an nhàn mà ghét lao động và khơng có cái “đầu
mối thiện” như quan niệm của Mạnh Tử. Trên cơ sở đó Tn Tử luận chứng
cho tính tất yếu của lễ nghĩa. Theo ông lễ nghĩa là điều mà các bậc thánh
vương ngày xưa dung để uốn nắn tính ác, vì con người có nhiều ham muốn,
lắm dục vọng khơng được thoả mãn cho nên nếu như buông lỏng dục vọng sẽ
nảy sinh đấu tranh giành giật lẫn nhau làm loạn xã hội, để tránh sự hỗn loạn
đó nên các bấc thánh vương mới đặt ra lễ nghĩa để định danh phận. Với thế
giới quan duy vật và nhân sinh quan đúng đắn, Tuân Tử nêu rõ tác dụng to lớn
của lễ đối với việc rèn luyện tâm tính, nhân cách của con người. Ơng gọi lễ là
“thuật trị khí dưỡng tâm tốt nhất”, bởi nó làm cho con người đạt được đức tốt,
đưa con người tới nhân, nghĩa, trí, đạt tới chí thiện. Mọi đức tốt có được là do
lễ, là do “một lòng một dạ yêu điều thiện”(Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê. Tuân
Tử, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1994, tr.212).
Nếu như Khổng Tử mới chỉ khái quát tác dụng của lễ trong việc rèn
luyện phẩm chất đạo đức của con người bằng lời khuyên “khắc kỷ phục lễ vi
nhân” và khẳng định tề nhất dân theo lễ thì dân sẽ biết xấu hổ, tận tuỵ mà
nghe theo, và nếu Mạnh Tử thấy rõ tác dụng của lễ là làm cho nhân nghĩa

thêm tốt đẹp, làm cho con người trở về với tính thiện bẩm sinh thì Tn Tử lại
thấy đầy đủ tác dụng tích cực sâu sắc của lễ trong việc biến đổi cảm hố tâm
tính con người, làm cho con người trở nên hoàn toàn tốt đẹp, và ơng rất đề cao
ca ngợi lễ, coi đó là chỗ dựa để người ta sửa mình. Sau này sách Lễ ký có chỉ
rõ phương pháp dung lễ để tiết chế nhân tình – những trạng thái tâm lý vốn có
12
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

của con người – nhưng thực ra phương pháp đó cũng chỉ là sự tổng kết và rút
ra từ những điều mà Tuân Tử đã phân tích và kết luận mà thơi.
Thứ ba, Lễ góp phần xây dựng tập qn đạo đức, truyền thống văn
hố. Ngồi việc định danh phận cho con người, tiết chế tình người và rèn
luyện nhân cách đạo đức cho con người lễ cịn tạo nên bầu khơng khí lễ giáo,
khiến cho con người ta dứt bỏ điều xấu, hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ.
Nhờ có bầu khơng khí của lễ giáo, nhất là khi tế lễ, mà con người nghĩ đến tổ
tiên, nhớ về cội nguồn với lòng thành kính và biết ơn sâu sắc. Những nghi lễ
tế lễ phù hợp, được tô vẽ đúng mức đã phản ánh trình độ nhận thức thẩm mỹ,
sự phát triển cao về văn hoá tinh thần của con người ở thời cổ đại.
Khổng Tử là người đầu tiên thấy rõ tác dụng này. Ông vốn là người
yêu chuộng lễ từ nhỏ và hiểu rõ tác dụng, ý nghĩa thẩm mỹ và văn hố của lễ.
Ơng coi đó là đầu mối của sự trị, là cái dung để tiết chế cho vừa đạo trung,
khiến cho con người biết tự trọng, coi trọng giá trị làm người mà tự giác, vui
vẻ tuân theo. Người có lễ là người có đạo đức, văn hố, có trách nhiệm với
người khác. Kinh điển nho giáo ghi lại nhiều mẫu mực ứng xử theo lễ của
Khổng Tử đến mức tưởng như ơng là người máy móc, giáo điều, nhưng thực
ra, đó là sự biểu hiện của người có văn hố, được giáo dục chu đáo, có ý chí tu
dưỡng theo lễ để vươn lên. Mạnh Tử cũng vậy, ơng từng khun học trị

“mình tặng cho người ta vật gì mà thiếu lễ kính thì kể như là chưa tặng vậy”
(Mạnh Tử hạ, Đồn Trung Cơn dịch, 1950, tr191).
Nếu như khi bàn về đạo hiếu, Khổng Tử và Mạnh Tử mới chỉ nhấn
mạnh yêu cầu về thái độ của con cái khi ni dưỡng cha mẹ cho có lễ, lo tang
lễ và cũng tế cha mẹ cho có lễ, đồng thời giải thích rõ lý do của tục lệ để tang
cha mẹ ba năm để tỏ long biết ơn và đền đáp công sinh thành và nuôi dưỡng
của cha mẹ trong ba năm bế ẵm, thì Tn Tử ngồi việc khẳng định tập tục
13
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

trên là đúng, là vừa phải, ơng cịn phân tích và giải thích một cách khúc chiết,
rõ ràng và tốt đẹp của tục tang lễ, tế lễ. Ơng coi đó là hình thức biểu hiện của
tập quán đạo đức, văn hoá truyền thống và của đạo làm người. Nó cần phải
được duy trì vì có tác dụng giáo dục cao trong việc xây dựng và hoàn thiện
nhân cách.
Tuân Tử đã kết luận về tác dụng của lễ “con người mà khơng có lễ thì
khơng thể sinh tồn, việc khơng có lễ thì khơng thể thành tựu, nước khơng có lễ
thì khơng thể có an ninh” (Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê. Tuân Tử, Nxb Văn hoá,
Hà Nội, 1994, tr.217). Trong các tác dụng của Lễ thì có tác dụng đầu tiên là
quan trọng và quyết định hơn cả, bởi nó có ý nghĩa thực tiễn trong việc duy trì
trật tự xã hội cũ. Nó được giai cấp phong kiến sử dụng triệt để nhằm phục vụ
mọi lợi ích của mình, nhằm duy trì và kìm hãm con người trong vòng trật tự
kỷ cương một cách khắt khe, tàn nhẫn nhất là từ đời nhà Hán trở đi. Các tác
dụng sau chỉ có thể được phát huy khi người ta nhận thức được đầy đủ, sâu
sắc về nội dung và ý nghĩa của lễ, khi mọi người dân thừa nhận và tự giác làm
theo lễ.


C. KẾT LUẬN
14
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

Học thuyết Nho giáo là một hệ tư tưởng lớn và phức tạp của thời kỳ
cổ đại Trung Quốc, nó ra đời và phát triển để đáp ứng yêu cầu của trật tự xã
hội và các tập đoàn phong kiến. Riêng phạm trù lễ đã thể hiện một cách tương
đối rõ rang sự đa dạng và phức tạp của hệ tư tưởng này. Điểm tiến bộ của nó
là nhằm xây dựng những quan hệ tình cảm sâu sắc từ gia đình đến ngồi xã
hội. Song bên cạnh đó tính chất bảo thủ và phản động của nó cũng thể hiện ra
đó là nó giáo dục con người toàn tâm toàn ý phục vụ cho chế độ vương quyền
phong kiến. Tuy nó cũng nhìn thấy sức mạnh của dân, coi dân là gốc – nhưng
điều quan trọng nhất với họ quyền dân chủ thì nó lại khơng thừa nhận, vì thế
nó đã hạn chế sự tự do phát triển nhân cách, cá tính và tài năng của con người,
nhất là những kẻ được gọi là “hậu sinh” và những người phụ nữ. Nho giáo với
phạm trù lễ đã khuôn ý nghĩ và hành động của con người vào phạm vi thực
hiện những quy tắc rất nghiêm ngặt trong cuộc sống. Lễ giáo đó bao gồm
những quy tắc chặt chẽ được xây dựng trên quyền lực tuyệt đối của vua với
tôi, cha với con, chồng với vợ, anh với em, thầy với trị…nó giáo dục thái độ
chấp hành, tuân thủ quyền lực và ý chí của những kẻ bề trên. Bất cứ việc gì
cũng phải tuân thủ và đúng ý như những gì lễ đã quy định. Lễ là một thứ
nguyên tắc về chính trị, một văn bản về nghi tiết và là một thứ chế độ biểu thị
trật tự và nghi tiết các danh phận đẳng cấp. Lễ là chuẩn mực, là quy tắc cho
mọi việc, đối với mọi người, lễ không chỉ gắn liền với các nghi thức hơn,
quan, tang, tế…mà cịn ngay cả trong cách ăn mặc, đi đứng, nói năng…đâu
đâu nó cũng là thước đo của sự cao thấp, sang hèn.
Có thể thấy rằng, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các xã hội theo Nho

giáo đã giữ được sự ổn định trong gia đình và trật tự ngồi xã hội, củng cố
được mối quan hệ cương thường của Nho giáo chính là đã sống theo những
quy tắc của lễ. Lễ trở thành một điều quan trọng bậc nhất trong quản lý đất
15
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

nước và gia đình trong quan niệm của Nho giáo. Lễ trở thành một điều quan
trọng bậc nhất trong quản lý đất nước và gia đình. Đó là bài học sâu sắc mà
những nước theo Khổng giáo hơm nay đã thực hiện để ổn định chính trị xã
hội, văn hố trong q trình khơng ngừng tăng trưởng kinh tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
16
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tn Tử

1.Đồn Trung Cơn (dịch) “Tứ thư” (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh
Tử…), in kỳ 3, 1950.
2. Đại cương lịch sử Văn hoá Trung Quốc. Nxb Văn hố thơng tin, 1994.
3.Lê Văn Qn. Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Nxb Giáo dục, 1997.
4. Vũ Khiêu (chủ biên). Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam, 1996.
5. Nguyễn Tài Thư. Nho học và nho học ở Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1997.
6.Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê. Tuân Tử, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1994.
7. Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử triết học phương Đơng, Tập 2, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, 1990.
8. Trần Đình Hượu. Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2007.
9. Từ điển Triết học. NXB Matxcova 1986.
10. Minh Anh, Tư tưởng Lễ và Chính danh của Nho giáo, Tạp chí triết học, số
5/ 2003. tr 42-46.
11. Nguyễn Văn Bình. Quan niệm về Lễ của Nho giáo và những bài học cho
chúng ta ngày nay. Tạp chí Triết học, số 4/ 2000, tr46-49.
12. Lê Văn Quán. Lễ giáo Nho gia phong kiến kìm hãm bước tiến lên của phụ
nữ Việt Nam hiện nay, Tạp chí Văn hố Nghệ thuật, tháng 1/ 1997.

17
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học


Quan niệm về “Lễ” của Nho giáo giai đoạn từ Khổng Tử tới Tuân Tử

18
Lương Thị Huyền Trang_C17 Triết học



×