Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Một số phương pháp dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.12 KB, 20 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Dạy học phép nhân, phép chia là một trong những mục tiêu của mơn Tốn
ở bậc tiểu học, là hình thành các kỹ năng thực hành tính tốn. Do đó, ngay từ lớp
2, học sinh đã được làm quen với bảng nhân với 2, 3, 4, 5 trong phạm vi 100.
Sang lớp ba, học sinh học bảng nhân với 6, 7, 8, 9 và nhân chia ngoài bảng trong
phạm vi 100.000 (với số có một chữ số). Việc rèn luyện các kỹ năng thực hành
phép nhân giúp cho học sinh nắm chắc một số tính chất cơ bản của các phép tính
viết, thứ tự thực hiện các phép tính trong các biểu thức có nhiều phép tính , mối
quan hệ giữa các phép tính (đặc biệt giữa phép cộng và phép nhân, phép nhân và
phép chia). Đồng thời dạy học phép nhân , phép chia tên tập hợp số tự nhiên
nhằm củng cố các kiến thức có liên quan đến mơn tốn như đại lượng và các yếu
tố hình học, giải tốn. Ngồi ra rèn kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia cịn
góp phần trọng yếu trong việc phát triển năng lực tư duy, năng lực thực hành,
đặc biệt là khả năng phân tích, suy luận lơgíc và phẩm chất không thể thiếu được
của người lao động mới.
Để dạy tốt nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên: trước hết giáo
viên cần nắm được bản chất Toán học của những kiến thức này. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy có khơng ít giáo viên Tiểu học khơng nắm vững bản chất Toán học
của phép nhân, phép chia các số tự nhiên. Như chúng ta đã biết: Có kiến thức
tốn học cơ bản của chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học về kiến thức đối với
giáo viên. Cụ thể, giáo viên Tiểu học phải: Hiểu đúng đắn các khái niệm, định
nghĩa Tốn học; có khả năng chứng minh các quy tắc, cơng thức, tính chất Tốn
học được dạy ở Tiểu học dựa trên tốn học hiện đại; có khả năng giải bài tập toán
ở Tiểu học tốt ( thể hiện ở khả năng phân tích tìm tịi lời giải, khả năng trình bày
bài một cách logic, chặt chẽ và có khả năng khai thác bài toán sau khi giải)…
Do vậy cần giúp giáo viên Tiểu học nắm được bản chất toán học của phép
nhân, phép chia các số tự nhiên.
Với chương trình sách giáo khoa mới ở Tiểu học đang được đưa vào sử
dụng trong toàn quốc. Sách giáo khoa Tốn ở Tiểu học có rất nhiều đổi mới về
cấu trúc nội dung, cách thể hiện nội dung nhằm đổi mới phương pháp dạy học.


Rất nhiều giáo viên tiểu học vẫn chưa cập nhật vấn đề này, dẫn đến việc dạy học
Tốn ở Tiểu học nói chung, việc dạy nội dung phép nhân, phép chia các số tự
nhiên nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản của đổi mới phương
pháp dạy học ở Tiểu học.
Do đó giáo viên cần nắm được cấu trúc nội dung của phép nhân, phép chia
các số tự nhiên trong chương trình Tốn tiểu học, nội dung và cách thể hiện nội
1 / 20


dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên. Bên cạnh đó giáo viên cũng nắm
được phương pháp dạy học các nội dung này theo hướng đổi mới về phương
pháp dạy học Toán. Điều này giúp cho việc dạy học phép nhân, phép chia các số
tự nhiên đạt chất lượng cao hơn.
Từ những lý do thực tế trên, qua nghiên cứu q trình dạy học mơn tốn
lớp 3 ở bậc tiểu học. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, kết hợp với
những hiểu biết đã có và những điều mới mẻ lĩnh hội được từ các bại giảng, từ
các ban đồng nghiệp đồng thời để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ sư
phạm cho bản thân mình, tôi đã chọn đề tài:“ Một số phương pháp dạy học
phép nhân, phép chia các số tự nhiên cho học sinh lớp 3”.
II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
Mỗi mơn học ở tiểu học góp phần vào phát triển những cơ sở ban đầu rất
quan trọng của nhân cách con người Việt Nam cùng các môn học khác, mơn
Tốn có vị trí quan trọng vì:
- Các kiến thức, kỹ năng của mơn Tốn ở Tiểu học có nhiều ứng dụng
trong đời sống, chúng rất cần thiết cho mọi người lao động, rất cần thiết để học
tập các môn học khác ở Tiểu học và học tập tiếp mơn Tốn ở trung học.
- Mơn Tốn giúp học sinh nhận biết được các mối quan hệ về số lượng và
hình dạng khơng gian của thế giới thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp
nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu
quả trong đời sống.

- Mơn Tốn góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy
nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần phát
triển trí thơng minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nó đóng góp vào
việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động: cần
cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền nếp tác
phong khoa học.
Để giúp giáo viên Tiểu học hiểu rõ hơn cơ sở của việc lựa chọn và sắp sếp
các nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên, đồng thời giúp giáo viên
biết được định hướng của việc lựa chọn và tận dụng các phương pháp dạy học
đối với các nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên tơi xin trình bày một
số vấn đề sau:
1. Sự cần thiết của dạy phép nhân, phép chia trong dạy học toán lớp 3:
- Dạy học các phép tính nhân, chia là một chủ đề quan trọng trong chương
trình Tốn lớp 3 và bậc Tiểu học.
+ Đây là một trọng tâm lớn xun suốt trong chương trình Tốn lớp 2, 3, 4, 5.

2 / 20


+ Đây là những kỹ năng rất cần thiết để học lên các cấp học trên (khơng chỉ
trong mơn Tốn) và để giải quyết những bài toán do thực tiễn cuộc sống đặt ra.
+ Đây là một mảng rất khó, trìu tượng và rất hấp dẫn, nó ảnh hưởng lớn
đến kết quả dạy Toán đại trà và việc bồi dưỡng phát triển năng lực tư duy sáng
tạo cho học sinh giỏi bậc Tiểu học.
+ Những kiến thức, kỹ năng về phép nhân là “cầu nối” giữa Toán học trong
nhà trường và ứng dụng trong đời sống xã hội.
+ Nhờ được rèn luyện các kỹ năng thực hành phép nhân mà học sinh giải
tốn nhanh hơn, tìm ra nhiều cách giải khác nhau của bài toán.
+ Việc củng cố cho học sinh về tính chất của phép nhân, mối quan hệ giữa
các phép tính giúp học sinh có khả năng tính nhanh rất tốt. Thơng thường muốn

tính nhanh ta phải thực hiện “trong óc” những phép biến đổi khác nhau để thực
hiện phép tính về một dạng mới cho phép tránh được các tính tốn cồng kềnh
bằng bút, có thể thực hiện dễ dàng “trong óc”. Có thể nói tính tốn (trong đó có
tính nhanh) là một mơn thể thao về tư duy. Không nên nghĩ rằng trong thời đại
tin học ngày nay, các máy tính bỏ túi xuất hiện nhiều với giá rẻ, khi mà các máy
tính với tốc độ tính tốn với hàng triệu phép tính trong một giây đã trở nên một
đồ dùng sinh hoạt bình thường trong gia đình...thì việc tính nhanh, tính miệng,
tính nhẩm khơng cịn cần thiết nữa. Bởi vì các phương tiện tính tốn không thể
trợ lực hết cho ta trong mọi công việc hàng ngày. Nếu sử dụng một cách thái quá
các công cụ ấy sẽ làm cho bộ óc trở nên lười biếng và trì trệ.
2. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học:
Học sinh tiểu học thường tri giác trên tổng thể. Về sau, các hoạt động tri
giác phát triển và được hướng dẫn bởi các hoạt động nhận thức khác nên chính
xác hơn.
Chú ý khơng chủ định chiếm ưu thế ở học sinh tiểu học. Sự chú ý của học
sinh tiểu học cịn phân tán, dễ bị lơi cuốn vào các trực quan, gợi cảm, thường
hướng ra bên ngoài vào hành động, chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào
tư duy. Trí nhớ trực quan- hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ
logic, hiện tượng hình ảnh cụ thể dễ nhớ hơn các câu chữ trừu tượng, khơ khan.
Trí tưởng tượng cịn chịu tác động nhiều của hứng thú, kinh nghiệm sống, mẫu
vật đã biết. Học sinh tiểu học bước đầu có khả năng thực hiện việc phân tích
tổng hợp, trừu tượng hố- khái qt hố và những hình thức đơn giản của sự suy
luận, phán đốn ở học sinh tiểu học, phân tích và tổng hợp phát triển khơng
đồng đều, tổng hợp có khi không đúng hoặc không đầy đủ, dẫn đến khái qt
sai trong hình thành khái niệm. Khi giải tốn, thường ảnh hưởng bởi một số từ

3 / 20


“thêm”, “bớt”, “nhiều gấp” ... tách chúng ra khỏi điều kiện chung để lựa chọn

phép tính ứng với từ đó, do vậy dễ mắc sai lầm.
Các khái niệm toán học được hình thành qua trừu tượng hố và khái qt
hố nhưng không thể chỉ dựa vào tri giác bởi khái niệm tốn học cịn là kết quả
của các thao tác tư duy đặc thù. Có hai dạng trừu tượng hố: sự trừu tượng hoá
từ các đồ vật, hiện tượng cảm tính và sự trừu tượng hố từ các hành động. Khi
thực hiện trừu tượng hoá nhằm rút ra các dấu hiệu bản chất, chẳng hạn: thơng
qua trừu tượng hố từ các đồ vật (tập hợp cụ thể) loại bỏ đặc tính màu sắc, kích
thước hình thành lớp các tập hợp tương đương, sau đó chỉ quan tâm đến cái
chung giữa lớp các tập hợp tương đương đó, đi đến khái niệm “số” trừu tượng
hoá trên các hành động.
Từ những đặc điểm trên của học sinh Tiểu học về quá trình nhận thức, khi
dạy học Tiểu học nói chung và dạy học Tốn nói riêng, giáo viên cần:
- Quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy hình thành kiến
thức cho trẻ. Vì hình dạng, kiểu cách, màu sắc… của đồ dùng trực quan dễ gây
sự chú ý cho trẻ, giúp trẻ tri giác tốt, dễ nhớ và nhớ lâu.
Tuy nhiên những đặc điểm trên của học sinh tiểu học cũng lưu ý giáo viên
không nên quá lạm dụng đồ dùng trực quan. Vì hình ảnh, màu sắc lịe loẹt của
nó dễ lơi cuốn học sinh làm các em quên nhiệm vụ học tập của mình. Hơn nữa,
sử dụng trực quan quá nhiều sẽ không phát triển được trí tưởng tượng, khả năng
liên tưởng khái quát của học sinh.
- Tổ chức cho trẻ hoạt động. Vì khi tham gia hoạt động trẻ có điều kiện tri
giác bằng nhiều giác quan: mắt – nhìn, tai – nghe, miệng – nói, tay – thao tác…
Đây là cơ sở để tưu duy và ghi nhớ kiến thức.
- Giáo viên phải tạo cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẫn thủ thuật
ghi nhớ, chỉ ra những điểm quan trọng, có ý nghĩa để học sinh ghi nhớ.
- Việc trẻ ghi nhớ máy móc tốt là điều kiện để giáo viên dạy học sinh học
thuộc các bảng nhân, chia. Đây là cơ sở để giáo viên tổ chức cho học sinh học
thuộc các bảng tính bằng cách đọc nhiều lần.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân, phép chia các số tự

nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3. Vận dụng phương pháp nghiên cứu để
dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học Tốn Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng.
Nâng cao tay nghề của bản thân, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các
bạn đồng nghiệp, các bậc lãnh đạo để đổi mới , nâng cao hiệu quả dạy học phép
nhân, phép chia cho học sinh lớp 3.
4 / 20


IV. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Địa diểm nghiên cứu:
Tôi thực hiện nghiên cứu và làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tại
trường Tiểu học tôi đang công tác.
2. Thời gian nghiên cứu:
Tôi nghiên cứu từ ngày 15 tháng 9 năm 2018 đến ngày 20 tháng 5 năm 2019.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- 35 học sinh lớp 3 - tôi chủ nhiệm
V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ năng cơ bản
mơn Tốn lớp 3, phương pháp giảng dạy thông qua sách giáo viên, tài liệu bồi
dưỡng phương pháp giảng dạy các môn học, Tạp chí giáo dục tiểu học hàng
tháng, sách tham khảo về phương pháp dạy học…
2. Thu thập thông tin:
Bài tập sách giáo khoa, vở bài tập, trao đổi học tập kinh nghiệm của các
bạn đồng nghiệp, tổ chuyên môn, ...
3. Khảo sát thực nghiệm:
Thông qua kết quả khảo sát, bài kiểm tra, bài làm của học sinh trong các
tiết học.
4. Phương pháp điều tra:

Tìm hiểu thực trạng việc dạy phép nhân, phép chia lớp 3 (năm học trước).
5. Phương pháp quan sát: Thông qua dự giờ.

5 / 20


B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG:
Qua thực tế tìm hiểu tình hình dạy học phép nhân, phép chia cho học sinh
lớp 3 ở trường tôi trong những năm trước tôi nắm được những thông tin sau:
Quan điểm của giáo viên về cấu trúc nội dung chương trình để rèn luyện kĩ
năng thực hiện phép nhân, chia các số tự nhiên cho học sinh là rất phù hợp. Các
bài học về phép nhân, phép chia được sắp xếp liền mạch, bài nọ là cơ sở cho bài
kia, phù hợp cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình luyện tập.
Nhiều giáo viên cho rằng: Nội dung rèn luyện kỹ năng thực hiện tính nhẩm
phép nhân, chia trong bảng là rất quan trọng vì nó khơng chỉ giúp củng cố kiến
thức mới mà cịn rất thuận lợi cho q trình dạy nhân, chia ngồi bảng. Thiếu kỹ
năng nhân nhẩm tốt thì học sinh sẽ rất khó khăn trong việc học phép chia đặc
biệt là chia ngồi bảng (chia viết). Chính vì vậy họ cho rằng: nhiệm vụ cơ bản,
trọng tâm của việc dạy phép nhân, chia ở lớp 3 là giúp học sinh có kỹ năng thực
hiện tốt nhân, chia trong bảng. Phép nhân, phép chia là dạng phép tính mới, khó
đối với học sinh cho nên phải coi trọng cơng tác hình thành khái niệm phép tính,
cách thực hiện phép tính.
Tất cả những giáo viên được hỏi đều trao đổi với tôi đầy đủ về những lý do,
thắc mắc cũng như tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng thực hiện phép
nhân, phép chia.
Trên cơ sở những nhận thức của giảo viên như trên, tìm hiểu về phương
pháp dạy học để rèn luyện kỹ năng thực hiện phép nhân, phép chia cho học sinh,
tôi thấy một số ưu nhược điểm sau:
1. Ưu điểm:

1.1 Giáo viên.
Các giáo viên đều nhận thấy được tầm quan trọng của việc dạy học nội
dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên; nắm được chương trình, định hướng
chung về phương pháp dạy học các nội dung này. Vì vậy:
a) Giáo viên đã sử dụng phương pháp trực quan (nhất là trong giai đoạn
đầu), giảng giải – minh hoạ, gợi mở – vấn đáp khi hình thành khái niệm phép
tính; khi thành lập các bảng tính; hướng dẫn học sinh làm bài tập để định hướng
cho học sinh làm bài.
b) Giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp Thực hành luyện tập trong
quá trình rèn luyện kỹ năng thực hiện phép nhân, phép chia các số tự nhiên cho
học sinh. Điều này rất thuận lợi cho cả giáo viên và học sinh: giáo viên không
phải giảng nhiều, cịn học sinh có điều kiện tự rèn luyện kỹ năng cho mình.

6 / 20


c) Giáo viên bám sát và theo dõi từng bước thực hiện tính của học sinh, có
biện pháp sửa sai kịp thời.
d) Một số giáo viên có những điều chỉnh, phân tích rất kỹ, mở ra các hướng
mới đối với bài tập rèn luyện kỹ năng tính đưa ra trong sách giáo khoa (chẳng
hạn dạy qua các trò chơi). Trong quá trình giảng dạy giáo viên biết lựa chọn bài
tập hợp lý tuỳ theo đối tượng học sinh.
1.2. Học sinh:
a) Do các bài học và bài tập về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp
3 được trình bày một cách khoa học, chính xác; cấu trúc các bài tương đối giống
nhau nên nếu nghỉ học, nhờ vào việc đọc bài và làm bài tập, học sinh có thể tự
rèn luyện kỹ năng tính cho mình.
b) Hết lớp 3 học sinh đã có những kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất về phép
nhân, phép chia; tự mình có thể đặt tính và tính nhân số có đến 5 chữ số với số
có 1 chữ số, chia số có đến 5 chữ số cho số có 1 chữ số.

c) Học sinh biết vận dụng kỹ năng nhân, chia vào làm tốn: tìm thành phần
chưa biết, tìm giá trị biểu thức, giải tốn có lời văn…
d) Học sinh có kỹ năng tính nhanh, tính nhẩm các số trịn chục với số có
một chữ số.
2. Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, khi dạy học để rèn luyện kỹ năng nhân,
chia cho học sinh lớp 3, về phía giáo viên còn một số tồn tại như sau:
a) Một số giáo viên khơng nắm được bản chất Tốn học của các nội dung
về phép nhân, phép chia các số tự nhiên nên cịn máy móc trong giảng dạy các
nội dung này. Giáo viên chưa chú ý phân tích và khai thác triệt để mục tiêu mỗi
bài tập rèn luyện kỹ năng tính cho học sinh.
b) Việc dạy học theo định hướng đổi mới chưa được nhiều giáo viên chú trọng:
- Trong q trình hình thành các phép tốn nhân, chia ngay sau khi giảng
giải và hỏi - đáp, giáo viên thường rút ra cơng thức phép tốn nhưng ít chú ý đến
việc cho học sinh nhắc lại hoặc tự rút ra kiến thức mới:
* Qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm mơn Tốn tơi đã thống kê được bảng
số liệu như sau:
TSHS
Điểm
Điểm
Điểm
Điểm
tham gia
%
%
%
%
9 - 10
7-8
5-6

dưới 5
khảo sát
35

7

20 %

11

31,4 %

7 / 20

15

42,9%

2

5,7 %


II: NỘI DUNG, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÉP
NHÂN, PHÉP CHIA CÁC SỐ TỰ NHIÊN TRONG SÁCH GIÁO KHOA
TOÁN LỚP 3.
1. Nội dung:
- Các bảng nhân 6, 7, 8, 9
- Bảng nhân tổng hợp: Từ bảng 1- bảng 10
- Phép nhân ngồi bảng ( tính viết ).

+ Nhân số có 2 chữ số với số có 1 chữ số.
+ Nhân số có 3 chữ số với số có 1 chữ số.
+ Nhân số có 4 chữ số với số có 1 chữ số.
+ Nhân số có 5 chữ số với số có 1 chữ số.
- Nhân nhẩm.
- Tính giá trị biểu thức số có chứa đến 2 dấu phép tính.
- Tăng một số lên một số lần.
- So sánh hai số gấp kém nhau một số lần.
- Tính chu vi, diện tích của hình vng, hình chữ nhật.
- Giải toán hợp.
2. Mục tiêu:
Giúp học sinh:
- Học thuộc các bảng tính nhân 6, 7, 8, 9; bảng chia 6, 7, 8, 9.
- Hoàn thiện bảng nhân, bảng chia.
- Biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính hoặc trong các trường hợp
đơn giản, thường gặp về nhân, chia.
- Biết thực hiện phép nhân số có 2, 3, 4, 5 chữ số với số có 1 chữ số; phép
chia số có 2, 3, 4, 5 chữ số cho số có 1 chữ số (chia hết hoặc chia có dư)
- Biết tính giá trị các biểu thức số có đến hai dấu phép tính (có hoặc khơng
có dấu ngoặc).
- Biết tìm một thành phần chưa biết trong phép tính.
- Dùng phép nhân nhân, chia vào giải tốn.
* Đồng thời thơng qua việc dạy học phép nhân, phép chia ở lớp 3 giúp HS
- Phát triển khả năng tư duy: so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp, trìu
tượng hố, khái qt hố.
- Diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng thơng tin.
- Tập phát hiện, tìm tịi, chiếm lĩnh kiến thức mới.
- Chăm chỉ, cẩn thận, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành tốn.
Các biện pháp nhân, chia ngồi bảng được xây dựng trên cơ sở những kiến
thức và kỹ năng về: tính chất phân phối của phép nhân và chia đối với phép

8 / 20


cộng; các bảng nhân, chia; quan hệ giữa nhân và chia. Do đó mỗi khi học mỗi
biện pháp tính nên ôn lại các tính chất liên quan để xây dựng nó.
Yêu cầu cơ bản để dạy các phép nhân, phép chia ngồi bảng chủ yếu là
nắm được thuật tính và thực hành tính thơng thạo. Vì vậy phương pháp chung
được sử dụng là giáo viên hướng dẫn và thực hiện trực tiếp trên ví dụ cụ thể. Từ
đó khái qt thành các bước thực hiện.
3. Phương pháp:
Qua việc tìm hiểu nội dung , phương pháp dạy học các nội dung về phép
nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3, tôi thấy.
Một số phương pháp dạy học truyền thống
Thường được vận dụng trong dạy học toán ở tiểu học là: Thuyết trình;
Giảng giải minh hoạ; Gợi mở vấn đáp; Trực quan và Thực hành, luyện tập.
Phương pháp thuyết trình là phương pháp dùng lời nói để trình bày tài liệu
toán học cho học sinh.
Phương pháp giảng giải minh hoạ là phương pháp dùng lời nói để giải thích
nội dung toán kết hợp với việc dùng các tài liệu trực quan để hỗ trợ cho việc giải
thích này. Tuy nhiên các phương pháp này có những mặt hạn chế như: học sinh
phải tiếp thu kiến thức một cách thụ động, chưa phát huy được tính tích cực nhận
thức và khơng có điều kiện kiểm tra khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh.
Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa
ra những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước một
để các em tự tìm ra kiến thức mới phải học. Nó tương đối thích hợp trong dạy
học tốn tiểu học làm cho khơng khí lớp học sơi nổi, sinh động; kích thích hứng
thú học tập và lòng tự tin của học sinh; rèn luyện cho các em năng lực diễn đạt.
Phương pháp trực quan trong dạy học toán ở tiểu học là phương pháp đặc
biệt quan trọng, phương pháp này đòi hỏi giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh
hoạt động trực tiếp trên các sự vật cụ thể, thơng qua đó nắm được những kiến

thức và kỹ năng tương ứng.
Phương pháp thực hành luyện tập là phương pháp giáo viên tổ chức cho
học sinh luyện tập các kiến thức kỹ năng thông qua các hoạt động thực hành
luyện tập. Hoạt động thực hành luyện tập chiếm hơn 50% tổng thời lượng dạy
học toán ở tiểu học, vì thế phương pháp này thường xuyên được sử dụng .
Dạy học mơn Tốn ở Tiểu học nói chung, đặc biệt dạy học phép nhân nói
riêng, các biện pháp truyền thống như: trực quan , giảng giải, minh hoạ , luyện
tập – thực hành, gợi mở – vấn đáp vân là những phương pháp mang lại hiệu quả
cao nếu biết sử dụng đúng lúc đúng chỗ. Sở dĩ vậy vì kiến thức mơn Tốn vốn là
những tri thức hết sức trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh. Tư duy của trẻ tiểu
9 / 20


học đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, các em chỉ có thể nhận thức được
những gì là cụ thể , gần gũi, lúc này dạy học nhất thiết phải mang tính trực quan
sinh động đồng thời phải kết hợp nhiều phương pháp khác vì:
* Phương pháp vấn đáp:
Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi, học sinh nhớ lại kiến thức đã biết
và trả lời dựa vào trí nhớ, khơng cần suy luận. Đây là biện pháp được dùng khi
cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học và kiến thức sắp học hoặc khi cần
củng cố kiến thức vừa mới học.
* Giải thích – minh hoạ:
Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề bài nào đó. Giáo viên lần lượt nêu ra
những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu dễ nhớ.Phương
pháp này sẽ hiệu quả hơn khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe nhìn.
* Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề:
Phương pháp này tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra giải quyết
những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và
cộng đồng.
* Phương pháp trực quan:

Cũng như các phương pháp khác không thể sử dụng tuỳ tiện mà khi sử
dụng cần thoả mãn một số yêu cầu cơ bản sau:
Một là: Sử dụng phương phap trực quan trong dạy học toán ở tiểu học
không thể thiếu phương tiện (đồ dùng) dạy học. Các phương tiện (đồ dùng) dạy
học phù hợp với từng giai đoạn nhận thức của trẻ. ở giai đoạn 1, các phương tiện
chủ yếu là các đồ vật thật hoặc hình ảnh của đồ vật thật, gần gũi với cuộc sống
của trẻ. ở giai đoạn 2, các phương tiện trực quan thường ởdạng sơ đồ, mơ hình
có tính chất tượng trưng, trừu tượng và khái quát hơn. Các đồ dùng trực quan
với mục đích chủ yếu là tạo chỗ dựa ban đầu cho hoạt động nhận thức của trẻ,
vì vậy phương tiện (đồ dùng) cần phải tập trung bộc lộ rõ những dấu hiệu bản
chất của các mối quan hệ Toán học, giúp học sinh dễ thấy, dễ cảm nhận được
các nội dung kiến thức toán học. Các đồ dùng (phương tiện) phù hợp với nội
dung yêu cầu của các bài học, dễ làm, dễ kiếm, phù hợp với điều kiện cụ thể ở
địa phương, phù hợp với điều kiện kinh tế của giáo viên và phụ huynh học sinh.
Tránh dùng các phương tiện quá máy móc. Đồ dùng (phương tiện) cần đảm bảo
tính thẩm mỹ nhưng khơng q cầu kỳ về hình thức, và khơng q l loẹt về
màu sắc, gây phân tán sự chú ý của học sinh vào những dấu hiệu không bản chất.
Hai là: Cần sử dụng đúng lúc, đúng mức độ phương tiện trực quan. Khi cần
tạo điểm tựa trực quan để hình thành kiến thức mới thì dùng các phương tiện,
khi học sinh đã hình thành được kiến thức thì phải hạn chế bớt việc dùng các
10 / 20


phương tiện, thậm chí cấm sử dụng phương tiện trực quan, giúp học sinh tư duy
trừu tượng.
Ba là: Các phương tiện trực quan phải tăng dần mức độ trừu tượng. Mức
độ trừu tượng của phương tiện phụ thuộc vào khả năng nhận thức của trẻ. Đối
với trẻ nhỏ(ở giai đoạn các lớp 1,2,3) thì các phương tiện mang tính cụ thể hơn.
Các tác giả SGK mơn Tốn cũng đã thể hiện rõ yêu cầu này trong việc thể hiện
nội dung các bài học và hướng dẫn giảng dạy.

Bốn là: Không quá đề cao và tuyệt đối hoá phương pháp trực quan. Phương
pháp trực quan có nhiều ưu điểm và có vai trị quan trọng trong dạy học tốn ở
tiểu học, tuy nhiên, nếu tuyệt đối hoá phương pháp trực quan, dùng quá mức cần
thiết sẽ gây phản tác dụng, làm cho học sinh lệ thuộc vào phương tiện trực quan,
tư duy máy móc, kém phát triển tư duy trừu tượng, vì vậy cần sử dụng linh hoạt,
đúng mức phương pháp dạy học trực quan, trên cơ sở phối hợp hợp lý với các
phương pháp dạy học khác. Một số bài nếu có sự hỗ trợ của phương pháp trực
quan sẽ tốt hơn, chẳng hạn bài “Bài toán giải bằng hai phép tính” SGK Tốn 3.
III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÉP NHÂN, PHÉP
CHIA CÁC SỐ TỰ NHIÊN CHO HỌC SINH LỚP 3.
Từ tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy học và những ưu nhược điểm trên
tôi rút ra một số biện pháp dạy học cụ thể khi dạy phép nhân, phép chia các số tự
nhiên cho học sinh lớp 3 như sau:
Để giúp các em nắm vững kiến thức về phép nhân, phép chia và có được kỹ
năng, kỹ xảo, cách duy nhất là sau mỗi bài học , chúng ta phải cho học sinh thức
hành luyện tập thương xuyên và liên tục.
Trong dạy học tiểu học quan điểm “thống trị” là quan điểm tâm lý học,
nhưng trong dạy học tốn cần thấy vai trị chủ đạo của quan điểm logic và tốn
học, coi logic học hình thức là cơ sở quan trọng của nó. Thực tế, quan tâm đến
đặc điểm lứa tuổi chính là tăng cường sức mạnh của logic trong quá trình nhận
thức ở học sinh tiểu học.
Khơng thể dạy học tốn mà khơng nắm vững đặc thù của tốn học nói
chung, khơng nắm vững những kiến thức toán học cơ bản, cần thiết liên quan
đến các kiến thức cần dạy.
Tuy nhiên đổi mới phương pháp dạy học Tốn địi hỏi giáo viên cần kế
thừa, phát triển các phương pháp dạy học truyền thống đồng thời mạnh dạn vận
dụng các xu hướng dạy học hiện đại. Sau đây tôi được xin giới thiệu một số biện
pháp tôi đã và đang vân dụng vào dạy học ở lớp tôi đang chủ nhiệm.

11 / 20



1. Biện pháp để học bài mới tốt:
Trước khi học phép tính mới (phép nhân, phép chia) học sinh đều có giai
đoạn chuẩn bị. Đây là cơ sở cho việc hình thành kiến thức mới, cầu nối giữa
kiến thức đã học và kiến thức sẽ học. Vì vậy, khi dạy học các bài học trong giai
đoạn này, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức cho học sinh để làm cơ sở vững
chắc cho các em học những kiến thức mới tiếp theo. Cụ thể là:
- Học sinh được học bài “Tổng của nhiều số” trước khi học bài “Phép
nhân”. Ở đây học sinh được tính tổng các số hạng bằng nhau. Giáo viên phải
lưu ý để nhận ra các tổng này đều có các số hạng bằng nhau để giúp học sinh
học bài phép nhân, tính kết quả của các phép nhân trong các bảng nhân (nhất là
các bảng nhân đầu tiên) .
- Học sinh được học bài “Phép nhân” và các bài về Bảng nhân trước khi
học bài “Phép chia” và các bài về Bảng chia. Giáo viên lưu ý học sinh phải
thuộc bảng nhân để làm cơ sở học các bảng chia, vì các bảng chia đều được xây
dựng từ các bảng nhân tương ứng .
- Việc nhân chia trong bảng thành thạo cũng là cơ sở để học sinh học tốt
nhân, chia ngoài bảng.
2. Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong lập bảng nhân, bảng chia:
Kĩ thuật chung của nhân, chia trong bảng là: Học sinh thao tác trên các tấm
bìa có các chấm tròn. Nên việc sử dụng các bộ đồ dùng dạy – học số và các phép
tính này có ý nghĩa vơ cùng to lớn trong hình thành các kiến thức toán học rất
trừu tượng và khái quát như khái niệm số tự nhiên, so sánh sắp thứ tự, phép
cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia và mối quan hệ giữa các phép tính. Vì vậy,
sử dụng đồ dùng trực quan ở đây là rất quan trọng. Trong bộ đồ dùng gồm có:
+Bộ các số 1, 10, 100, 1000, 10000:
+ 10 tấm nhựa trắng ghi số 1000
+ 10 tấm nhựa trắng ghi số 10000
+ 10 tấm nhựa trắng hình e líp ghi số 1

+ 10 tấm nhựa trắng hình e líp ghi số 10
+ 10 tấm nhựa trắng hình e líp ghi số 100
– Bộ chấm tròn hoặc bảng nhân, bảng chia:
+ 10 tấm nhựa in 6 chấm tròn
+ 10 tấm nhựa in 7 chấm tròn
+ 10 tấm nhựa in 8 chấm tròn
+ 10 tấm nhựa in 9 chấm tròn
– 15 bảng ơ vng (mỗi bảng có 100 ơ vng)
– 10 thẻ ơ vng (mỗi thẻ có 10 ơ vng)
12 / 20


– 10 ô vuông nhỏ.
Tuy nhiên mức độ trực quan không giống nhau ở mỗi giai đoạn khác nhau
như: Ở lớp 3 (học kỳ I): học sinh tiếp tục học các bảng nhân, bảng chia 6, 7, 8,
9. Lúc này các em đã có kinh nghiệm sử dụng đồ dùng học tập (các miếng bìa
với số chấm trịn như nhau), đã quen và thành thạo với cách xây dựng phép nhân
từ những miếng bìa đó. Hơn nữa, lên lớp 3 trình độ nhận thức của học sinh phát
triển hơn trước (khi học lớp 2) nên khi hướng dẫn học sinh lập các bảng nhân
hoặc bảng chia, giáo viên vẫn yêu cầu học sinh sử dụng các đồ dùng học tập
nhưng ở một mức độ nhất định, phải tăng dần mức độ khái quát để kích thích trí
tưởng tượng, phát triển tư duy cho học sinh. Chẳng hạn:
Giáo viên không cùng học sinh lập các phép tính như ở lớp 2 mà chỉ nêu
lệnh để học sinh thao tác trên tấm bìa với các chấm trịn để lập 3, 4 phép tính
trong bảng, các phép tính cịn lại học sinh phải tự lập dựa vào phép đếm thêm
hoặc dựa vào các bảng nhân đã học.
Ví dụ:
* Khi hướng dẫn học sinh tự lập Bảng nhân 6, giáo viên yêu cầu học sinh sử
dụng các tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm trịn để lập các phép tính:
6x1=6

6 x 2 = 12
6 x 3 = 18
Sau đó cho học sinh nhận xét để từ 6 x 2 = 12 suy ra được 6 x 3 = 18. Cụ
thể là: Với 3 tấm bìa.
Học sinh nêu : “6 được lấy 3 lần, ta có 6 x 3”
Mặt khác cũng từ 3 tấm bìa này ta thấy 6 x 3 chính là 6 x 2 + 6 .
Vậy 6 x 3 = 6 x 2 + 6 = 18 .
Bằng cách như vậy, học sinh có thể khơng dùng tấm bìa mà vẫn tự tìm
được kết quả của phép tính:
6 x 4 = 6 x 3 + 6 = 24
6x5=6x4+6…
Hoặc dựa trên bảng nhân đã học
6 x 4 = 4 x 6 = 24.
6x5=5x6….
* Khi dạy bài phép nhân để hình thành khái niệm, nếu không sử dụng 2
tấm nhựa in 7 chấm trịn thì giáo viên khơng thể giải thích cho học sinh mối
quan hệ giữa phép cộng 7 + 7 với phép nhân 7 × 2. Như vậy, giáo viên cần lưu
ý sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý, đúng mức để không chỉ giúp học sinh nắm
được kiến thức mà còn phát triển tư duy cho học sinh.
13 / 20


* Biện pháp hướng dẫn nhân, chia ngoài bảng:
Biện pháp chủ yếu được sử dụng là làm mẫu trên các ví dụ cụ thể. Từ đó
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách đặt tính và tính. Đối với những trường hợp
cần lưu ý như: phép chia có chữ số 0 ở thương, ước lượng thương chưa hết, nhớ
khi nhân chưa đúng … giáo viên thường đưa ra các bài tập khác phù hợp với
nhận thức của các đối tượng học sinh, để lưu ý học sinh cách làm đúng.
Do đó, khi sử dụng biện pháp dạy học phép nhân, phép chia số tự nhiên ở
lớp 3 phải quan tâm đến đặc điểm nhận thức của học sinh (tư duy cụ thể phát

triển hơn tư duy trừu tượng, tri giác bằng nhiều giác quan…) từ đó quyết định sử
dụng các phương pháp dạy học kích thích tư duy trừu tượng, khả năng so sánh,
khái quát hoá, tổng hợp hoá … cho học sinh. Trong những bài về nhân, chia
ngoài bảng, sau khi đã cho học sinh thấy:
Ví dụ:
1428
2407 4
x
4
00 601
5712
07
3
Nhiều giáo viên không cho học sinh tự củng cố lại: cách đặt tính như thế
nào? thực hiện phép nhân, chia theo thứ tự ra sao?... Vì thế học sinh rất dễ mắc
sai lầm khi thực hiện tính, đặc biệt là đối với những phép chia có số 0 ở thương.
Chỉ qua một số ví dụ trong bài mới thì học sinh rất khó nắm bắt được khái niệm
phép tốn, cách đặt phép tốn, cách đặt tính, cách tính… nên học sinh thường
làm sai. Do đó, giáo viên cần thường xuyên củng cố lại kiến thức trong suốt quá
trình học sinh thực hành luyện tập.
- Nhiều giáo viên cho học sinh luyện tập với khơng khí buồn tẻ, do đó có
nhiều dạng bài tập lặp lại mà giáo viên không đổi mới các hình thức chữa bài
chủ yếu chữa bài một cách đơn điệu: học sinh đứng đọc bài làm hoặc lên bảng
làm bài và lớp chữa. Do đó khơng kích thích được hứng thú học tập của học
sinh. Vì vậy giáo viên phải thường xuyên thay đổi hình thức luyện tập.
- Trong thực hành luyện tập để rèn luyện kỹ năng tính cho học sinh, yêu
cầu học sinh làm nhiều bài tập để giáo viên biết đến những khó khăn của học
sinh để giảng giải cho các em hiểu.
3. Những sai lầm và biện pháp khắc phục khắc phục khi dạy học phép
nhân, phép chia các số tự nhiên.

Khi thực hiện các phép tính nhân, chia ở lớp 3 học sinh thường gặp một số
khó khăn, sai lầm sau:

14 / 20


3.1. Dạy học phép nhân .
a) Khi nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ 2, 3 … liên
tiếp, học sinh thường chỉ nhớ lần đầu tiên mà quên không nhớ các lần tiếp theo.
Ví dụ:
1718
x
5
5590
b) Trong phép nhân có nhớ nhiều hơn 1 (nhớ 2, nhớ 3 …) học sinh thường
chỉ nhớ 1.
Ví dụ:
1918
x
4
5672
* Biện pháp khắc phục: Đối với 2 lỗi trên, giáo viên cần khắc phục cho học
sinh bằng cách: yêu cầu các em nhẩm thầm trong khi tính (vừa tính, vừa nhẩm)
như phép tính mẫu trong sách giáo khoa và viết số cần nhớ ra lề phép tính.
c) Lúc đầu khi mới học nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số, học
sinh cịn hay sai trong cách ghi kết quả.
Ví dụ:
26
xx 3
618

* Biện pháp khắc phục: Ở đây, ta cần giải thích cho học sinh rằng: Nếu
làm như vậy thì tích có tới 62 chục, nhưng thực ra chỉ có 7 chục mà thơi. Vì:
- Ở lượt nhân thứ nhất: 3 nhân 6 đơn vị được 18 đơn vị, tức là 1 chục và 8
đơn vị, viết 8 ở cột đơn vị, còn 1 chục nhớ lại (- ghi bên lề phép tính) để thêm
vào kết quả lượt nhân thứ hai – nhân hàng chục.
- Ở lượt nhân thứ hai: 3 nhân 2 chục được 6 chục, thêm một chục đã nhớ là
7 chục, viết 7 ở cột chục. Giáo viên cũng có thể một lần nữa khẳng định tính
đúng đắn của phép tính bằng cách: Phân tích từ số 26 = 2 chục + 6 đơn vị và
hướng dẫn học sinh nhân bình thường theo hàng ngang rồi cộng các kết quả lại.
3.2. Dạy học phép chia .
* Dạy bảng chia 6
Nhiều học sinh còn lúng túng trong việc trong việc từ phép nhân suy ra kết
quả phép chia, thì giáo viên nên làm mẫu một trường hợp, chẳng hạn 12 : 6 = ?
có thể làm như sau:

15 / 20


Giáo viên chỉ vào 2 x 6 = 12 nêu “Trong phép nhân này 12 là tích , 2 và 6
là thừa số. Ta đã biết là: Khi lấy tích chia cho thừa số này thì được thừa số kia,
nên 2 x 6 = 12 ta suy ra 12 : 6 = 2. Do đó từ một phép nhân với 6 ta suy ra được
kết quả của một phép chia 6”. Sau đó để học sinh tự làm 9 trường hợp cịn lại.
Lớp có nhiều học sinh yếu thì sau khi hướng dẫn mẫu như trên, giáo viên
có thể đàm thoại để hướng dẫn nhanh một trường hợp nữa. Sau đó để học sinh
tự làm 8 trường hợp cịn lại.
* Đối với chia ngoài bảng học sinh thường ước lượng thương sai trong
phép chia có dư nên dẫn đến tìm được số dư lớn hơn số chia và lại thực hiện
chia số dư đó cho số chia. Cuối cùng, tìm được thương lớn hơn số chia.
Nguyên nhân của lỗi sai này là quá trình giảng bài, giáo viên hướng dẫn
học sinh theo các bước khi thực hiện phép chia; chia – nhân – trừ. Những khi

thực hành, học sinh còn nhẫm lẫn không biết lúc nào chia, nhân, trừ.
* Biện pháp khắc phục:
Trong quá dạy, giáo viên cần hướng dẫn kỹ, ta phải thực hiện từ trái sang
phải (từ hàng cao nhất của số bị chia đến hàng thấp hơn). Nghĩa là ta lần lượt
từng hàng một, xong hang này rồi sang hàng tiếp theo.
Khi thực hiện chia, chữ số đầu tiên tính từ trái sang ta chia cho số chia )ta
thực hiện khi chia), ta được thương ghi ngay kết quả. Rồi lấy thương vừa tìm
được nhân với số chia (ta thực hiện nhân) ta ghi kết quả của phép nhân dưới số
bị chia vừa thực hiện. Tiếp tục, ta lấy số bị chia trừ cho kết quả vừa nhân (ta
thực hiện phép trừ). Như vậy ta thực hiện xong ở lần chia thứ nhất. Tiếp tục hạ
xuống thực hiện lần chia thứ hai, tương tự như lần chia thứ nhất…cho đến hàng
cuối cùng. Đối với số học sinh ước lượng thương cịn chậm hoặc khơng biết
cách chia. Đặc biệt là khi dạy phép chia giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
bằng cách đếm thêm.
Trường hợp số bị chia là 20 thì học sinh có thể đếm 24, tức là được bốn lần,
nhưng bớt đi một lần, vì số bị chia chỉ là 20.
Nguyên nhân của lỗi sai này là:
- Do học sinh chưa nắm được quy tắc “số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia”
- Học sinh không thuộc bảng nhân, bảng chia, kỹ năng trừ nhẩm để tìm số
dư cịn chưa tốt.
* Biện pháp khắc phục:
- Khi dạy học sinh cách ước lượng thương trong phép chia, cần lưu ý cho
học sinh quy tắc trong phép chia có dư: “số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia”
- Khi dạy về nhân, chia trong bảng, giáo viên cần yêu cầu học sinh phải học
thật thuộc các bảng nhân, bảng chia trước khi dạy chia viết.
16 / 20


- Dạy cho học sinh làm tính chia phải được tiến hành từ dễ đến khó, theo
từng bước một.

b) Một sai lầm nữa thường thấy ở học sinh khi học chia viết là: Các em
thường quên chữ số “0” trong phép chia có chữ số “0” ở thương.
* Nguyên nhân và biện pháp khắc phục:
Do học sinh không nắm được quy tắc thực hiện chia viết “có bao nhiêu lần
chia thì có bấy nhiêu chữ số được viết ở thương”. Giáo viên cũng cần lưu ý học
sinh: Chỉ duy nhất trong lần chia đầu tiên là được lấy nhiều hơn một chữ số ở số
bị chia để chia, còn các lần chia tiếp theo lấy từng chữ số để chia và khi lấy một
chữ số để chia thì phải viết được một chữ số ở thương. Hướng dẫn học sinh cách
nhân khi thực hiện phép chia có dư trong mỗi lượt chia như sau:
Ví dụ: 51 : 6 = ?
Cách 1:
Đếm ngược từ 51 cho đến khi gặp một tích (hoặc số bị chia) trong bảng
nhân 5 (chia 5) :
51; 50; 49; 48.
51 : 6 = 8
Vậy 51 : 6 = 8 (dư 3)
Cách 2:
Tìm số lớn nhất (khơng vượt quá 51) trong các tích (số bị chia) của bảng
nhân (chia 6) ta được: 48; 48 : 6 = 8. Vậy 51 : 6 = 8 (dư 3)
Với những biện pháp thực hiện như trên, bước đầu học sinh đã có hiệu quả,
các em đã nắm được cách làm bài mà khơng cịn nhẫm lẫn.
Căn cứ vào kết quả thu và chấm bài của học sinh cho thấy. Đa số học sinh
đều tiếp thu tốt, nắm được kỹ năng làm tính và vận dụng nhanh, thực hiện phép
tính tốt. So với kết quả đầu năm thì số học sinh làm tính chậm giảm đi rất nhiều,
khi thực hiện tốn có phép nhân, phép chia học sinh khơng cịn lúng túng mà tự
tin trong làm bài. Tính nhân, chia đối với các em học sinh trở thành kĩ năng, kĩ
sảo. Từ những học sinh sợ học mơn tốn trở thành u thích nơn tốn.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN:
Sau khi áp dụng SKKN trên, học sinh đã mạnh dạn, tự tin hơn trong việc
thực hiện các phép tính nhân, chia trên lớp. Thơng qua các giờ học Tốn, chất

lượng của học sinh được nâng lên rõ rệt so với khi chưa áp dụng sáng kiến. Vì
vậy hiệu quả của sáng kiến được nâng lên, khắc phục được tình trạng cịn nhầm
lẫn trong khi đặt tính và thực hiện phép tính nhân chia.
* Kết quả thực hiện như sau:
17 / 20


Thời
điểm
đánh giá
Khảo sát
đầu năm

Điểm
9 - 10

%

Điểm
7-8

7

20 %

Cuối năm

12

So sánh


+5

%

Điểm
dưới
5

%

15

42,9%

2

5,7 %

40 %

9

25,7%

0

0%

+8,6%


-6

- 17,2%

-2

-5,7%

%

Điểm
5-6

11

31,4%

34,3 %

14

+14,3%

+3

Qua bảng số liệu so sánh và đối chiếu đã cho thấy rõ được sự tiến bộ của
các em học sinh trong việc áp dụng cách thực hiện các phép tính nhân, chia
trong phần làm bài thi. Số học sinh đạt điểm Giỏi được nâng lên rõ rệt, số học
sinh đạt điểm Yếu đã khơng cịn.


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua nghiên cứu đề tài này tơi đã tìm hiểu nội dung và các phương pháp dạy
học phép nhân, phép chia cho học sinh lớp 3. Điều này rất có ích cho tơi trong
cơng tác dạy học. Bản thân tôi rút ra được một kinh nghiệm như sau:
Khơng có biện pháp nào là tối ưu hay vạn năng, chỉ có lịng nhiệt tình, tinh
thần trách nhiệm của người thầy với nghề nghiệp là mang lại kết quả cao trong
giảng dạy, là chiếc chìa khố vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa
học vì một ngày mai tươi sáng. Đó chính là vinh dự và trách nhiệm của người
giáo viên. Mỗi biện pháp dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế. Tuy nhiên
vận dụng có hiệu quả hay khơng cịn tùy thuộc vào khả năng truyền đạt của
người giáo viên. Theo tôi kỹ năng thực hành của giáo viên là yếu tố quan trọng
nhằm rèn luyện năng lực thực hành cho học sinh, để học sinh đạt được kết quả
cao trong học tập. Ngoài kinh nghiệm giảng dạy, người giáo viên cịn phải ln
ln theo dõi những tiến bộ trong học tập của học sinh, qua đó có thể cải tiến,
điều chỉnh hoạt động dạy cho học sinh có hiệu quả hơn.
Tóm lại, muốn dạy tốt mơn Tốn nói chung và việc dạy học phép nhân,
phép chia số tự nhiên nói riêng, việc tìm hiểu nội dung và biện pháp dạy học là
rất cần thiết, là yêu cầu bắt buộc giúp học sinh hiểu, làm tốt các bài tập, trước
hết giáo viên phải hiểu và nắm chắc các kiến thức và kỹ năng dạy các biện pháp
tính đồng thời phải biết hướng khai thác để giúp trẻ phát triển tư duy sáng tạo
trong học Tốn. Giáo viên khơng nắm vững nội dung dạy học khi lên lớp sẽ lúng
18 / 20


túng, hướng dấn học sinh không mạch lạc làm cho hoạt động suy nghĩ của các
em luẩn quẩn và gây mất niềm tin ở các em.
Muốn có giờ dạy học tốt, giáo viên phải thực sự có lịng u nghề mến trẻ,
khơng ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm tịi cái

mới để dạy. Có được như vậy tất yếu bài giảng sẽ thành công.
2. Kiến nghị đề xuất:
Từ những kết quả đã đạt được với điều kiện thực tế ở trường tôi đang
giảng dạy tôi thấy:
- Giáo viên cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh trong lớp đặc biệt đối
với những em nhận thức chậm, rỗng kiến thức.
- Giáo viên khơng ngừng học tập nâng cao trình độ chun mơn, bồi dưỡng
thường xuyên cách tổ chức hoạt động cho sinh trong mọi giờ học.
- Kết hợp với phụ huynh học sinh có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi,
giúp học sinh yếu kém tiến bộ.
- Phòng giáo dục và đào tạo nên tạo điều kiện tổ chức những buổi hội thảo,
trao đổi kinh nghiệm với những chuyên đề thiết thực để bổ trợ cho chúng tôi vốn
kinh nghiệm về chuyên mơn góp phần nâng cao chất lượng dạy học theo tinh
thần đổi mới.
Trên đây là một số biện pháp dạy học mà tôi đã vận dụng vào giảng dạy
trong năm học vừa qua. Với khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu chưa nhiều
chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự góp ý của các cấp
lãnh đạo, tổ chuyên môn, các bạn đồng nghiệp giúp cho đề tài của tơi thêm hồn
thiện hơn.
Tơi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm: “Một số phương pháp dạy học
phép nhân, phép chia các số tự nhiên cho học sinh lớp 3” là do tôi nghiên
cứu, viết và thực hiện đối với học sinh lớp tôi tại trường tôi công tác, khơng sao
chép. Nếu sai tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Ba Vì, tháng 5 năm 2019

19 / 20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo viên Toán lớp 3.
Biên tập: Vũ Văn Dương – Nguyễn Thị Bình
2. Vở bài tập Tốn lớp 3.
Biên tập : Đỗ Đình Hoan
3. Sách giáo khoa Toán lớp 3.
Biên tập: Vũ Mai Hương – Nguyễn Thị Bình
4. Chuẩn kiến thức, kĩ năng các mơn học ở Tiểu học lớp 3.
Biên tập: Lê Tiến Thành – Phan Kế Thái
5. Bơ đồ dùng dạy học Tốn 3.
6. Hướng dẫn sử dụng bộ đồ dùng dạy học Toán 3 (Tài liệu kem theo bộ
đồ dùng biểu diễn mơn Tốn dành cho giáo viên Tiểu học).

20 / 20



×