Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

một số biện pháp dạy âm nhạc giúp phát huy tính sáng tạo của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.93 KB, 21 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SƠ YẾU LÝ LỊCH
- Họ và tên: Đoàn Văn Tuấn
- Ngày tháng năm sinh: 13/7/1984
- Năm vào ngành: 2006
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Võng Xuyên – Phúc Thọ Hà Nội
- Trình độ chun mơn: Sư phạm Âm Nhạc
- Hệ đào tạo: Đại học
- Bộ môn giảng dạy: Âm Nhạc

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
* Cơ sở lí luận
Âm nhạc là một mơn học nghệ thuật nó được diễn tả bằng những âm
thanh (Âm thanh của giọng hát và âm thanh của các loại nhạc cụ). Vậy làm thế
nào để phát huy tính sáng tạo của học sinh? Đây là một vấn đề mà có lẽ tất cả
các nhà sư phạm, các giáo viên luôn băn khoăn, trăn trở và mong tìm lời giải đáp
Ở trường THCS mục tiêu của môn học âm nhạc là thông qua việc giảng
dạy một số vấn đề sơ giản về nghệ thuật âm nhạc, nhằm phát triển năng lực cảm
thụ âm nhạc của HS, tạo nên một trình độ văn hố âm nhạc nhất định góp phần
đào tạo có chất lượng những người lao động phát triển toàn diện.
Với học sinh THCS, môn âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu
quả nhất để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cho HS nhằm góp
phần giáo dục toàn diện cho HS theo mục tiêu đào tạo, tạo cơ sở hình thành
nhân cách con người mới Việt Nam. Tuy nhiên âm nhạc trong nhà trường THCS
với tư cách là một mơn học có mức độ nhất định về mục đích và nội dung, song


mục đích của việc dạy và học môn âm nhạc trong nhà trường phổ thông là giáo
dục văn hoá âm nhạc cho HS nhằm trang bị cho các em những kiến thức cơ bản
các kỹ năng nhằm tạo điều kiện cho khả năng cảm thụ, hiểu và thể hiện nghệ
thuật âm nhạc, khơi dậy ở các em những khả năng sáng tạo trong hoạt động âm
nhạc, củng cố thêm về tình cảm đạo đức, về niềm tin thị hiếu nghệ thuật và nhu
cầu âm nhạc.
Thông qua những phương tiện của nghệ thuật âm nhạc để bồi dưỡng khả
năng nhận thức, phát triển tư duy, óc sáng tạo góp phần cùng các mơn học khác
phát triển năng lực trí tuệ cho HS, bồi dưỡng những năng khiếu nghệ thuật, đẩy
mạnh phong trào văn nghệ quần chúng làm cho khơng khí của nhà trường thêm
vui tươi lành mạnh. Từ mục tiêu giáo dục và những lí do chung của mơn học âm
nhạc nói trên, bản thân tơi nhận thấy đó là một hướng đi và là một phương pháp
2


giáo dục đúng đắn mang tính đặc thù của việc giáo dục cái hay cái đẹp, giáo dục
tình cảm, thẩm mĩ âm nhạc góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách
tồn diện của con người mới: Đức- Trí- Thể - Mĩ. Trong nghệ thuật, nhất là âm
nhạc, sự sáng tạo của mỗi cá nhân đóng vai trị cực kì quan trọng. Sáng tạo có
nhiều mức độ, có thể phát triển từ những ý tưởng đã có, có thể là thay đổi hệ
thống nguyên tắc. Học sinh THCS đang trong thời kì phát triển nhanh về thể
chất, tâm sinh lí, giai đoạn này các em có nhiều suy nghĩ và ước mơ về cuộc
sống. Trong quá trình học âm nhạc, đây là giai đoạn rất thích hợp để phát huy
sự sáng tạo của HS.
Ba mức độ biểu hiện của học tập tích cực là bắt chước - tìm tịi - sáng tạo. Sẽ
thiệt thòi cho các em và nghệ thuật âm nhạc, nếu giáo viên không tạo điều kiện
để HS học tập, rèn luyện và thể hiện sự sáng tạo của mình. Dạy âm nhạc để phát
huy tính sáng tạo có nhiều mức độ, từ dễ đến khó, từ sáng tạo ở mức độ thấp đến
cao. Môn âm nhạc ở THCS gồm 3 phân môn là: Học hát, tập đọc nhạc, nhạc lí
và âm nhạc thường thức. Vậy, phải dạy như thế nào để phát huy được tính sáng

tạo của HS.
* Cơ sở thực tiễn
Một nhà khoa học đã từng nghiên cứu và khẳng định âm nhạc có sức ảnh
hưởng vô cùng lớn ngay cả đối với thực vật. Con người nhất là ở lứa tuổi đang
phát triển thì nghe nhạc giúp chúng ta thông minh hơn, sáng tạo hơn và đặc biệt
yêu đời là làm việc hiệu quả hơn. Từ đó chúng ta càng thấy được vai trị to lớn
của âm nhạc trong đời sống con người. Nếu như khơng có âm nhạc cuộc sống sẽ
vơ cùng buồn tẻ và vơ vị.
Âm nhạc trong đời sống nói chung vô cùng quan trọng và đối với học
sinh nhất là THCS lại càng quan trọng. Học nhạc không chỉ giúp các em thuộc,
hát truyền cảm và cảm nhận được giai điệu, nội dung của bài hát không chỉ ở
trong nước mà cịn ở nước ngồi (Nga, Pháp…), tìm hiểu về phần thanh nhạc đó
là tập đọc nhạc để có kĩ thuật hát và hơn thế nữa các em có những giây phút
thoải mái, thư giãn, học tập tốt hơn, yêu đời, yêu cuộc sống hơn.
3


Thực tế cho thấy học sinh ở nơng thơn ít được tiếp xúc với âm nhạc nên
hầu như các tiết nhạc các em đều rất hứng thú, nhưng một vấn đề đặt ra là nhiều
học sinh chưa cảm nhận được giai điệu cũng như nội dung của bài hát, hay nói
cách khác các em chưa nhập tâm vài bài hát chính vì vậy mà nhiều em vẫn hát
chưa chính xác, hát chưa có cảm xúc, hát chưa có hồn.
Vậy làm thế nào để phát huy tính sáng tạo của học sinh. Đây là vấn đề mà
nhiều giáo viên nhạc chúng tơi cịn đang trăn trở.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy, xuất phát từ đặc trưng của bộ môn là một
môn khoa học - nghệ thuật, nên tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp dạy âm
nhạc giúp phát huy tính sáng tạo của học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra hướng giải quyết một số khúc mắc về kiến thức và phương pháp
dạy học, từ đó có thêm kinh nghiệm để dạy tốt phát huy tính sáng tạo của học

sinh.
3. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu:
1. Đối tượng nghiên cứu:
Là học sinh THCS, giáo viên hướng dẫn học sinh phát huy tính sáng tạo
tích cực của học sinh trong giờ học.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu về phương pháp giảng dạy thực tế
- Thùc hiƯn gi¶ng dạy 4 khi lp
- Thời gian thực hiện: Năm học 2017 – 2020.
(Dự kiến sẽ tiếp tục nghiên cứu đề tài này vào những năm sau)
4. Phương pháp nghiên cứu:
1. Đọc, phân tích, tìm hiểu các tài liệu, xem băng đĩa có liên quan đến việc dạy
hát để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
2. Phương pháp nghiên cứ thực tiễn:
4


a, Phương pháp quan sát:
Xem trực tuyến trên mạng chương trình thi giáo vên dạy giỏi các trường,
cụm, huyện, thành phố tổ chức. Từ đó nhận xét mức độ của từng đơn vị.
b, Phương pháp đàm thoại:
Trao đổi, học hỏi các đồng nghiệp có kinh nghiệm ở các trường

B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Thực trạng.
a. Về phía nhà trường.
Âm nhạc là một mơn học độc lập trong chương trình THCS. Dạy và học
nghiêm túc, có kiểm tra, thi đánh giá cuối năm và kết quả là một trong những
tiêu chuẩn để xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học. Song thực tế hiện nay cho thấy

rằng bộ môn này chưa được quan tâm đầy đủ và nghiêm túc của các cấp, các
ngành.
Cơ sở vật chất cho việc dạy và học âm nhạc ở THCS thiếu thốn và nghèo
nàn, nhà trường chưa có phịng dạy âm nhạc riêng. Nhạc cụ, băng, đĩa nhạc kém
chất lượng, tranh ảnh để phục vụ cho việc dạy học bộ mơn âm nhạc cịn thiếu
nhiều… tuy đã được nghiên cứu và sản xuất nhưng chưa đủ đáp ứng cho dạy học âm nhạc, sách đọc thêm và các tài liệu tham khảo khác rất hiếm. Giáo viên
phải tự tìm tài liệu, sưu tầm ĐDDH. trong khi đó yêu cầu của bộ mơn lại cần
phải có những trang thiết bị hiện đại (video, đài đĩa, máy chiếu hắt…) để phục
vụ cho việc dạy và học.
b. Về phía học sinh.
Đối với HS trường THCS, đa phần các em là con em nông thơn và lao
động tự do nên các em ít được quan tâm đến việc học tập. Vì vậy với mơn học
âm nhạc cũng khơng ngoại lệ, HS ít được quan tâm, vì thế hiểu biết về âm nhạc
đang cịn hạn chế, chưa sâu rộng, khơng kích thích các em học tập. Đa phần HS
bị chi phối, ảnh hưởng về các mơn chính, mơn phụ của xã hội. Các em phải tập
5


trung cho các mơn chính, lo cho thi, lo đánh giá, phần nào sao nhãng việc học
môn âm nhạc.
2. Kết quả của thực trạng trên.
Từ thực trạng trên để việc học âm nhạc, đặc biệt là để phát huy tính sáng
tạo của HS đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã đưa những phương pháp cơ bản về cách
dạy và học âm nhạc đặc biệt là phương pháp dạy thực hành áp dụng cho HS từ
lớp 6 đến lớp 9 và đa phần các em rất thích hoạt động sáng tạo. Các em hứng thú
học âm nhạc hơn, thực hành tự tin hơn và có tiến bộ rõ rệt. Đó là lý do tôi chọn
tên đề tài. “GIÚP HỌC SINH PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO”
II. GIÚP HỌC SINH PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO
Cũng như các môn học khác, môn học âm nhạc nhằm trang bị cho lớp trẻ
một trình độ văn hố âm nhạc trong một tổng thể của chương trình giáo dục tồn

diện. Nội dung mơn âm nhạc sẽ phải bao gồm một số kỹ năng tối thiểu về ca hát,
những vấn đề về lí thuyết âm nhạc sơ giản, hướng dẫn nghe nhạc, tìm hiểu âm
nhạc giúp các em nâng cao năng lực cảm thụ và u thích mơn học này.
Quan niệm và cảm xúc của mỗi người trước cái đẹp ln khác nhau, từ
quan niệm đó nảy sinh nhiều ý tưởng và trường phái khác nhau trong nghệ thuật.
Trong quá trình giảng dạy âm nhạc ở trường THCS, GV cần tạo mọi điều kiện
để HS phát huy được những cảm xúc nghệ thuật, những sáng tạo trong học tập.
Muốn làm được điều đó HS cần có q trình rèn luyện không chỉ ở môn
âm nhạc. Sáng tạo giúp HS phát huy được những suy nghĩ tư tưởng và hành
động của mình, nâng cao kết quả học tập và hình thành những năng lực riêng
biệt của các em.
Trong học tập, so với bắt trước và tìm tịi sáng tạo là hình thức cao nhất
thể hiện tính tích cực học tập của HS, hãy bắt đầu khuyến khích các em mạnh
dạn nói lên những cảm nhận của mình về mơn học, về bài hát. HS có thể phản
bác ý kiến của GV, của bạn bè, có thể trình bày những ý kiến, tư tưởng của
mình. Đó là cơ sở để có kĩ năng sáng tạo lớn hơn. GV cần tạo điều kiện để HS

6


tự nhận xét, tự đánh giá, tự cảm nhận để có thể điều chỉnh cách học theo hướng
tích cực.
1. Dạy hát phát huy tính sáng tạo của HS.
Học hát thực chất là quá trình bắt chước của HS để hát đúng giai điệu, lời
ca của bài hát. Sự bắt chước này gồm hoạt động nghe giáo viên hát mẫu, hoặc
đánh đàn rồi tái hiện lại. Với sự bắt chước đó thì chưa thể coi là sáng tạo, vậy
muốn có sự sáng tạo GV cần phải làm như thế nào?
Trong quá trình học hát, GV có thể u cầu HS hát và tự kiểm tra lẫn
nhau, khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của từng em. Ngoài ra, GV khơi
gợi để HS nói lên cảm nhận của mình về bài hát, điều này bổ sung và làm giàu

khả năng cảm thụ âm nhạc của các em.
*Ví dụ: GV đặt câu hỏi: Em hãy nêu cảm nhận của mình về bài hát: “Nối
vòng tay lớn” HS sẽ trả lời qua phần gợi mở của GV về nội dung bài hát nói lên
điều gì? Giai điệu bài hát như thế nào? Qua bài hát này bản thân em học tập
được gì? (Quyền và nghĩa vụ của em ở trong đó) bởi cái hay cái đẹp của bài hát
gắn liền với chính nội dung và hình thức của tác phẩm đó. Để thấy được cái hay
cái đẹp đó các em phải có những kĩ năng và tri thức cần thiết khi nghe, cảm thụ,
đánh giá hoặc tái tạo (nếu tham gia trình diễn).
Học xong bài hát, HS cần thể hiện sự sáng tạo trong việc trình bày và biểu
diễn bài hát. Với bài hát cụ thể GV thường hướng dẫn HS trình bày bài hát theo
gợi ý của mình, như hát mấy lần, cách kết thúc ra sao. Tuy nhiên, GV có thể đề
nghị HS tìm những cách trình bày khác, sau đó nên khuyến khích, đánh giá kết
quả việc làm của các em.
*Ví dụ: Khi học bài: “Mùa thu ngày khai trường” GV đưa ra yêu cầu:
Tự chọn nhóm 4-5 HS và biểu diễn bài hát có động tác phụ hoạ. HS sẽ có những
cơ hội sau đây để phát huy sự sáng tạo:
- HS tự chọn nhóm có giọng hát thích hợp về âm vực để trình bày bài hát:
GV khơng nên áp đặt các em vào từng nhóm, để các em tự chọn sẽ làm HS phấn

7


khởi, vui thích khi được làm việc trong nhóm phù hợp về sở thích, về âm vực,
chất giọng…
- HS tự chọn cách trình bày bài: các em có thể trình bày bài: “Mùa thu
ngày khai trường” một hoặc hai lần, mỗi câu hát sẽ do em nào đảm nhiệm hay
cả nhóm cùng hát. Bài hát gồm hai đoạn, GV cũng có thể gợi ý, các em hát đoạn
2 trước, đoạn một sau cũng được. Ngồi ra, HS có thể chọn để sử dụng các cách
hát như lĩnh xướng, hoà giọng, đối đáp… Như vậy hình thức trình bày bài hát
của mỗi nhóm sẽ rất đa dạng, phong phú, giàu tính sáng tạo.

- HS tự chọn động tác phụ hoạ cho bài hát: HS có thể nghĩ ra động tác phù
hợp với nội dung bài hát và tập trình bày cho đều, đẹp (hát kết hợp vận động
hoặc múa, hát kết hợp một vài động tác diễn xuất). Tuy nhiên để sự sáng tạo đạt
hiệu quả cao, GV cần tạo điều kiện về thời gian cho HS chuẩn bị. Thông thường
GV thơng báo trước một tuần để HS chọn nhóm và tập cách trình bày, biểu diễn
bài hát.
Với những bài hát khác, GV vẫn có thể vận dụng các kĩ năng dạy học trên.
Đương nhiên, HS càng quen cách làm, khả năng kết hợp theo nhóm và tư duy
sáng tạo của các em càng phát triển.
*Ví dụ: Khi cho học sinh học hát về dân ca như bài : “Đi cắt lúa”ngồi các
cách dạy hát trên GV có thể phát huy tính sáng tạo của học sinh như cách cho
học sinh đặt lời mới, có thể giờ học đó học sinh chỉ đặt được 1 câu chưa làm
được hết bài được thì GV cho học sinh về nhà tham khảo và hồn thiện bài.
Như vậy học sinh có thể vạn dụng hết khả năng sáng tạo kết hợp với bộ môn văn
học và tư duy để có những lời ca hay cho bài hát.

8


Lời mới tham khảo:
Mùa xuân đến khắp nơi, và đến với mái trường mình
Tiếng nói cơ thầy dạy giỗ e với bao lời ngọt ngào
Trường mình …… đẹp biết bao dạy kiến thức hay cho đời
Lớp lớp thiếu niên gắng cơng quyết tâm thành người tài.
** Phát huy tính sáng tạo của học sinh một cách tối đa là tham gia vào các hoạt
động văn hóa, văn nghệ của trường, lớp học sinh được thể hiện dưới nhiều hình
thức hát,múa khác nhau. Dưới đây là một số hình ảnh minh họa cho các hoạt
động.

9



Ảnh: Khai giảng năm học

Ảnh: Thi văn nghệ

10


.
Ảnh: Hội diễn đêm hội trăng rằm

11


2. Dạy TĐN phát huy tính sáng tạo của HS.
Trong cách dạy hát nói trên sự sáng tạo của HS thể hiện qua cách làm việc
của nhóm 4-5 em. Trong nội dung TĐN, mỗi em lại có điều kiện thể hiện sự
sáng tạo của riêng mình. Giống như học hát, TĐN cũng như mảnh đất để phát
triển tư duy sáng tạo của HS.
Trong 8 bước dạy TĐN, khi dạy TĐN, GV yêu cầu HS tập viết lời mới
cho bài TĐN đây là hoạt động phát huy nhiều sự sáng tạo của các em. Trong q
trình ơn tập hoặc củng cố bài TĐN, GV có thể yêu cầu HS tập viết lời hát mới
12


với chủ đề tự chọn phù hợp với lứa tuổi HS. Các em sẽ viết những lời hát rất
ngộ nghĩnh, đáng yêu. Với nhiều HS đã quen viết lời hát, GV sẽ ngạc nhiên với
khả năng sáng tạo của các em. Với HS chưa từng tập viết lời hát, GV nên tiến
hành hướng dẫn cách làm gồm những hoạt động sau:

- Hướng dẫn HS đọc thuần thục giai điệu của bài TĐN
- Gợi ý cách trọn dấu thanh (dấu huyền, sắc, nặng, ngã, hoặc không dấu
thanh) cho từng câu hát, để sau khi viết lời có thể dễ dàng hát lời khớp với giai
điệu.
- Giới thiệu một số lời ca do HS viết (có thể ở lớp khác) viết để các em
tham khảo.
- Theo dõi và góp ý cách viết cho một số em.
- Lựa chọn lời hát hay do HS sáng tác và trình bày trước lớp để khuyến
khích sự sáng tạo của các em.
- Nhận xét, đánh giá, xếp loại học sinh.
* Ví dụ: Bài TĐN số 2 trong chương trình SGK lớp 8

- Với bài TĐN dân ca ý này GV có thể cho HS tham khảo thêm lời mới của
một số học sinh lớp khác để cho HS
Lời mới tham khảo của học sinh:
Rừng của ta bao thế hệ cha ông
Mà muôn dân hạnh phúc cùng chăm nom
Ôi đất nước chúng ta xanh một màu
Con cháu ta chung tay bảo vệ rừng
3. Dạy nhạc lí để phát huy tính sáng tạo.
13


Dạy nhạc lí, GV có thể khuyến khích sự sáng tạo của HS thơng qua những bài
tập sau:

*Sáng tạo hình tiết tấu:
Mục tiêu là HS viết được hình tiết tấu dựa vào những nốt nhạc cho trước.
Tương tự như cho những chữ cái để tập ghép vần, đáp án sẽ có rất nhiều dạng
khác nhau.

+ Bài tập 1: Hãy dùng một nốt trắng, 4 nốt đen, 8 nốt móc đơn để viết 5 ô
nhịp 2/4.
Từ những nốt nhạc trên, HS có thể viết rất nhiều loại ơ nhịp khác nhau, các em
chưa cần kẻ khng nhạc, GV có thể hướng dẫn thơng qua một số ví dụ:
2
4

│♪♪│♪♪│♪♪♪♪││

2
4

♪♪♪♪││♪♪♪♪│││

2
4

││♪♪♪♪│♪♪♪♪││

*Sáng tạo các đoạn nhạc:
+ Bài tập 2: Hãy dùng một nốt trắng, 2 nốt đen, 4 nốt móc đơn để viết 5 ơ nhịp
2/4, cao độ đều viết ở nốt Mi.
Bài tập này, HS phải kẻ khng nhạc, có thể các em phát triển từ bài tập
một và cao độ đều viết bằng nốt Mi.
+Bài tập 3: Hãy dùng một nốt trắng, 4 nốt đen, 8 nốt móc đơn để viết 5 ơ nhịp +

+ Bài tập 3: Hãy dùng một nốt trắng, 2 nốt đen, 4 nốt móc đơn để viết 5 ô nhịp
2/4, với cao độ các nốt tự chọn.
So với bài tập 2, bài tập này HS có thể viết cao độ với các nốt bất kì và như
vậy, sự khác biệt trong từng bài tập của HS sẽ mở rộng hơn.

Từ 3 bài tập trên, GV có thể ra bài tập sau:
14


+ Bài tập 4: Viết 5 ô nhịp 2/4 với các nốt nhạc tự chọn về cao độ và trường độ.

So với bài tập số 3, khi thực hiện bài này, sự sáng tạo của HS được phát huy cao
hơn, khơng cịn ràng buộc bởi trường độ như các bài trước, các em sẽ có rất
nhiều phương án làm bài của mình.

+ Bài tập 5: Viết 8 ơ nhịp 2/4 trong đó sử dụng các kí hiệu:

Dấu lặng đen, lặng đơn, dấu nối, dấu luyến, dấu chấm dôi.
Bài này thể hiện sự sáng tạo cao hơn, ngoài việc viết đúng và đủ các nốt như ở
các bài tập trên, HS phải hiểu tác dụng các kí hiệu âm nhạc và viết chúng một
cách hợp lí.
GV nên cho HS thực hiện các bài tập từ dễ đến khó, các em dần hiểu được
cách làm và sẽ có hứng thú khi tự mình thu hái kết quả. Để bài tập tương đối dễ
nghe, GV có thể hướng dẫn: Nên viết các nốt nhạc liền bậc hoặc gần nhau về
cao độ, dùng các quãng thuận. Kết bài nên ở nốt La hoặc Đô.
Nếu GV có khả năng đàn những giai điệu do HS sáng tác, nên chọn một
vài bài đàn cho các em nghe. Sau khi quen thuộc với dạng bài tập này, các em sẽ
có thể viết được giai điệu hay hơn.

4. Dạy Âm nhạc thường thức phát huy tính sáng tạo của HS.
Khi dạy âm nhạc thường thức, GV có thể khuyến khích sự sáng tạo của
HS thơng qua các bài tập sau:
* Sáng tạo khi làm tài liệu học tập:
Bài tập này thể hiện sự sáng tạo và lòng say mê học tập của HS, có thể yêu cầu:


15


- HS tự làmg nhạc cụ gõ đơn giản, ví dụ: Thanh phách, hay những nhạc cụ
tạo ra âm thanh (chai nhựa đựng viên bi, hòn sỏi, hạt đậu…)
- Làm album âm nhạc theo nhóm 4-5 HS: HS tìm hiểu và giới thiệu về sự
nghiệp và cuộc đời của nhạc sĩ Việt Nam hoặc nhạc sĩ nổi tiếng thế giới thông
qua bài viết, tranh ảnh, bản nhạc và những câu chuyện về họ. Để album âm
nhạc có nhiều dữ liệu, GV nên cho HS chuẩn bị trong thời gian tương đối dài
(khoảng 2-3 tuần).
Những album âm nhạc có giá trị, GV nên chọn để trưng bày trong phòng
học âm nhạc khai thác sử dụng trên lớp. HS thấy việc mình làm có ích, điều đó
sẽ khuyến khích tinh thần tìm hiểu và ý thức học tập của các em.
III. Kết quả nghiên cứu
Môn học Âm nhạc ở trường THCS mỗi tuần chỉ có một tiết, nhưng các
em được làm quen với: Học hát, TĐN, nhạc lí, âm nhạc thường thức là một tác
động lớn vào thế giới tinh thần của các em. Với những phương pháp dạy trên,
trong những năm qua đối với việc học âm nhạc ở các trường THCS, tôi thấy kết
quả chất lượng được nâng lên rõ rệt, các em đã biết trình bày hồn chỉnh một bài
hát (hát kết hợp vận động nhẹ, biểu diễn) biết cảm nhận về nội dung bài hát. Biết
đọc một bài TĐN có kết hợp gõ phách, gõ nhịp và sáng tác lời ca, sáng tạo tiết
tấu…Bởi được hướng dẫn tận tình gợi mở và gần gũi luyện tập của GV, kết hợp
giữa nhạc cụ, bảng phụ, đài, băng nhạc và làm mẫu chính xác của GV đã động
viên cổ vũ các em kịp thời bằng những điểm tốt. Nhắc nhở các em sau khi học
bài mới thì các em phải có sự ơn luyện ở nhà để ghi nhớ và khắc sâu kiến thức,
do đó trong giờ học rất sơi nổi và thoải mái, các em thi đua nhau trả lời câu hỏi
của GV đưa ra, tự giác xung phong lên trình bày bài trước lớp. Do đó chất lượng
học tập của các em hàng năm được nâng lên rõ rệt:
Khối
6,7,8,9


Năm học
2015 – 2016
2016 – 2017

Giỏi
68%
72%

Khá
25%
24%

16

TB
7%
4%

Yếu
0
0

Kém
0
0


Hai, ba năm gần đây sở giáo dục và đào tạo thống nhất đánh giá theo xếp loại
theo hai mức: Đạt(Đ) và Chưa đạt(CĐ) kết quả như sau:

Khối
6,7,8,9

Năm học
2017 - 2018
2018 - 2019

Đạt
98%
100%

Chưa đạt
2%
0

Từ kết quả học tập trên đã đem lại cho các em lòng tự tin, sự hứng thú say
mê trong học tập, tình cảm cơ trị ln gần gũi gắn bó. Việc học tốt trong giờ học
chính khố đã giúp giáo viên và học sinh chúng tơi thành cơng trong hoạt động
ngoại khố.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về Phương pháp dạy âm nhạc
để phát huy tính sáng tạo của học sinh . Tơi rất mong được sự góp ý trao đổi
kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp cũng như của những người yêu thích mơn
âm nhạc, để đưa ra được những phương pháp tối ưu nhất nhằm giúp HS có hứng
thú và ham mê học âm nhạc, từ đó giáo dục óc thẩm mĩ cho các em, giúp các em
hiểu được cái hay, cái đẹp có tình u q hương đất nước, tình yêu con người
hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Những vấn đề bỏ ngỏ
Để phát huy tính sáng tạo của học sinh trong tiết dạy nhạc, ngồi những biện

pháp nêu trên cịn rất nhiều những vấn đề sâu hơn, khái quát hơn( ví dụ âm nhạc
trong đời sống, biểu diễn âm nhạc, không gian âm nhạc…) chúng tơi sẽ tiếp tục
nghiên cứu, tìm tịi.
2. Điều kiện áp dụng
SKKN trên áp dụng ở cấp THCS
Áp dụng hiệu quả hơn khi các phòng học được lắp đặt máy chiếu
Đặc biệt giáo viên âm nhạc phải có chuyên mơn, có tâm huyết và u nghề
3. Bài học kinh nghiệm
Qua thực tế giảng dạy, tôi rút ra được rằng: Để phát huy tính sáng tạo của học
sinh trong các tiết âm nhạc trước hết.
17


- Về phía giáo viên: phải là những người yêu nghề, có chun mơn vững, biết
hát, biết đàn, đặc biệt giáo viên cần có sự quan tâm, động viên khích lệ các em
tránh để các em thiếu tự tin vì khơng có chất giọng.
- Về phía học sinh: cần đọc trước bài, chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên, nghe
trước bài hát ở nhà để có cảm nhận ban đầu về bài hát.
- Cần có sự phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội tạo điều kiện cho các
em, có những sân chơi ca hát bổ ích.
V. Kiến nghị, đề xuất
Để thực hiện đào tạo các em HS trở thành những người phát triển toàn
diện về: Đức - Trí - Thể - Mĩ… ngồi việc người thầy phải có năng lực thực sự
ra thì việc khách quan, ngoại cảnh, khuôn viên, môi trường là những điều tác
động lớn đến các em.
Do đó để tạo điều kiện cho việc dạy – học của thầy trò thuận lợi, bản thân
tôi là người đứng lớp dạy bộ môn âm nhạc cần kiến nghị một số vấn đề sau:
Thứ nhất:
Phải có phịng học chức năng riêng (trong đó có những trang thiết bị dạy
học để sẵn như đàn Organ, bảng phụ, đài catsette, đầu video, màn hình và máy

chiếu…) để mà nâng cao chất lượng dạy học tạo điều kiện tối đa cho HS phát
triển tính sáng tạo trong mơn học và đạt kết quả cao trong học tập.
Người thầy cần phát huy, chú trọng tính chủ động tích cực và sáng tạo của
học sinh từ đó các em có nhìn nhận bao quát, toàn diện về việc học âm nhạc và
vai trò của âm nhạc. Làm được như vậy là chúng ta góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục trong nhà trường.
Thứ hai:
Nhà trường, cụm tổ chức nhiều sân chơi, cuộc thi, giao lưu văn nghệ, giúp
các em có cơ hội thể hiện những ca khúc các em được học và hơn nữa là để các
em giao lưu, học hỏi và rèn kĩ năng biểu diễn, tự tin trên sân khấu.
Trong đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Vậy tôi rất mong được sự giúp đỡ cũng như những góp ý của các thầy, cơ giáo
để tơi rút kinh nghiệm trong q trình giảng dạy những năm học sau.

18


Để hoàn thành đề tài này ngoài việc tự nghiên cứu tài liệu, qua thực tế
giảng dạy tơi cịn nhận được sự giúp đỡ của các đồng nghiệp.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Dựa trên các đợt tập huấn đổi mới phương pháp dạy học của các năm học
-

qua.
“Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS”.
“Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS”.
Các cuốn sách do thầy giáo Bùi Anh Tuấn biên soạn.

Thiết kế bài giảng âm nhạc 6, 7, 8, 9.
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kỹ năng môn âm nhạc THCS
Sách giáo khoa và sách giáo viên âm nhạc 6, 7, 8, 9.

19


Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………...
Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP HUYỆN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………....


20


MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

A. Phần mở đầu
1

Lí do chọn đề tài

2/21

2

Mục đích nghiên cứu

4/21

3

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4/21

4


Phương pháp nghiên cứu

4/21
B. Nội dung

1

Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

5/21

2

Biện pháp dạy học giúp học sinh phát huy tính sáng tạo

6/21

3

Kếtquả

14/21
C. Kết luận

1

Những vấn đề bỏ ngỏ

16/21


2

Điều kiện áp dụng

16/21

3

Bài học kinh nghiệm

16/21
D. Kiến nghị, đề xuất

17/21

Tài liệu tham khảo

19/21

21



×