Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài giảng chiếc bè của tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.86 KB, 11 trang )

Chiếc bè của chiến thuyền Méduse

Vụ đắm con tầu Méduse cách đây gần 2 thế kỷ là một sự kiện vô cùng thương tâm, bi
thảm, khủng khiếp và rùng rợn, hoàn toàn do tội của con người gây ra. Tội lỗi ấy có thể
đã được che đậy vĩnh viễn trong bóng tối nếu nó không bị phơi bầy ra giữa thanh thiên
bạch nhật bởi tác phẩm hội hoạ “Chiếc bè của chiến thuyền Méduse” (Le Radeau de la
Méduse/The Raft of the Medusa) của Théodore Géricault – một bức tranh làm người xem
kinh hãi, xôn xao bàn tán về sự thật đằng sau nó, những kẻ chịu trách nhiệm bị nguyền
rủa, sự phẫn nộ bùng nổ thành một vụ “scandal” chấn động nước Pháp và thế giới, bộ
mặt thối nát của nhà nước đương thời lộ nguyên hình …
Sự thật ấy cũng đánh động lương tâm mọi người để nhận ra rằng con người không bao
giờ được phép tự phụ về trình độ tiến hoá của mình: Khi bị dồn tới bước đường cùng,
bản năng hoang dã có nguy cơ trỗi dạy để huỷ hoại toàn bộ thành tựu của tiến hoá, biến
con người trở lại thành con vật! Với tất cả những hệ quả do nó tạo ra, bức tranh “Chiếc
bè của chiến thuyền Méduse” đã vượt ra khỏi ranh giới của hội hoạ để trở thành một
trong những bài học sâu sắc nhất về xã hội, chính trị, và đặc biệt, nó đã rung lên tiếng
chuông báo động về sự tha hoá trong đạo lý làm người của xã hội đương thời. Dường
như muốn tiếng chuông ấy đến tai mọi người trong thế giới hiện đại nên trong năm 2008
vừa qua, Johnathan Miles đã cho ra mắt cuốn “The Wreck of the Medusa” (Vụ đắm con
tầu Méduse), kể lại toàn bộ chi tiết vụ việc bắt đầu từ ngày 17-06-1816, khi hạm đội
Pháp do chiếc Méduse dẫn đầu, rầm rộ khởi hành đi Châu Phi.
Cuộc khởi hành rầm rộ ngày 17-06-1816:
Năm 1819, khi hoạ sĩ người Pháp Théodore Géricault lần đầu tiên trưng bầy tại Paris tác
phẩm “Chiếc bè của chiến thuyền Méduse”, ông không thể tưởng tượng nổi phản ứng mà
bức tranh sẽ nhận được. Người xem vừa khâm phục nghệ thuật bậc thầy vừa sợ hãi
trước cảnh tượng khủng khiếp bầy ra trước mắt họ. Bức tranh rất lớn, kích thước khoảng
5m x 7m, mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi
lênh đênh giữa biển khơi, bỗng thấy một con tầu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía
chân trời, hy vọng đẩy họ lao về phía trước để vẫy gọi cầu cứu, …
Có một sự thật bẩn thỉu nhớp nhúa đằng sau bức tranh này, và mọi người được biết sự
thật đó là như thế nào. Chuyện xẩy ra 3 năm về trước, liên quan tới một bên là những


quan chức ích kỷ, độc ác, bất chấp sự sống của đồng loại, và một bên là những người
thấp cổ bé họng có số phận khốn khổ cùng cực, mụ mị đến rồ dại, giết chóc và ăn thịt
lẫn nhau như con vật. Khi những người khốn khổ này hiện ra lù lù trong bức tranh, mọi
người xôn xao bán tán về câu chuyện rùng rợn của họ.
Chuyện bắt đầu tại Paris năm 1816, tức một năm sau khi Napoléon bị quân Anh và đồng
minh đánh bại tại Waterloo. Để thể hiện sự ủng hộ đối với dòng họ Bourbon mới được
phục hồi ở Pháp, người Anh trao trả cho nước Pháp hải cảng Saint Louis trên bờ biển Tây
Phi thuộc Sénégal. Đây là một hải cảng thương mại sống còn, một điểm dừng chân lý
tưởng trên đường đi từ Châu Âu tới mũi Hảo Vọng.
Để tiếp nhận chủ quyền đối với hải cảng này, nhà nước mới của Pháp chuẩn bị một hạm
đội để đưa viên tổng toàn quyền mới Pháp tại Sénégal cùng với một số quan chức và
binh lính tới hải cảng đó. Thuyền trưởng lãnh đạo hạm đội là Hugues Duroy de
Chaumereys . Mặc dù có cái tên nghe rất kêu, Duroy de Chaumereys không thích hợp
chút nào với chức vụ mới: Đã 53 tuổi nhưng ông ta vẫn ăn diện, bảnh bao chải chuốt,
khó tính, và đặc biệt là đã hơn 20 năm không hề ra biển, thậm chí chưa bao giờ chỉ huy
một con tầu. Thực ra trước đó ông ta chỉ là một sĩ quan hải quan. Lý do chủ yếu để De
Chaumereys được bổ nhiệm đơn giản vì ông ta là một nhân vật bảo hoàng tuyệt đối
trung thành. Từng là một tử tước (vicomte), năm 1795 De Chaumereys đã gia nhập
quân đội Anh để chống lại cách mạng Pháp. Năm 1814, lúc Louis XVIII được đưa trở lại
ngai vàng cũng là lúc De Chaumereys xứng đáng được trả công. Hải quân là một bộ
phận sống còn của nhà nước, do đó Louis XVIII thấy cần phải “bảo hoàng hoá” hải quân.
Trong bối cảnh đó, De Chaumereys trở thành một lựa chọn thích hợp, bất chấp tính kiêu
căng tự phụ và sự thiếu hiểu biết về hàng hải đến mức đáng lo ngại. Sự bổ nhiệm này
làm yên lòng triều đình bao nhiêu thì lại làm cho các sĩ quan cấp dưới của De
Chaumereys thất vọng bấy nhiêu. Những sĩ quan này phần lớn đã từng tham gia những
chiến dịch của Napoléon chống lại quân Anh, làm sao họ có thể kính nể một gã bất tài
chỉ huy mình? Quan hệ giữa họ với De Chaumereys trở nên căng thẳng. Trung uý Des
Touches nói: “De Chaumereys là một quý tộc, nhưng suy nghĩ không được nghiêm túc
cho lắm. Ông ta coi việc tôi phải làm tôi tớ vâng lời ông ta là một điều tự nhiên. Tôi đã
giải thích để ông ta hiểu rằng chúng tôi không sai khi phục vụ tổ quốc trong giai đoạn

ông ta chạy ra nước ngoài. Thế là ông ta khó chịu rồi thay đổi thái độ cư xử với tôi …”.
Cuối cùng, cái gì đến phải đến: Ngày 17-06-1816, dưới sự lãnh đạo của De Chaumereys,
đoàn tầu hải quân của Pháp gồm 4 con tầu – chiến thuyền Méduse, tầu chở hàng Loire,
thuyền hai buồm Argus và tầu hộ tống nhỏ Écho – khởi hành từ Rochefort, rầm rộ hướng
tới Saint Louis.
“Nữ quỷ Méduse” gặp con trai thần Zeus:
Bản thân De Chaumereys đi trên con tầu Méduse cùng với vợ chồng đại tá Julien-Désiré
Schmaltz, tổng toàn quyền Sénégal mới được bổ nhiệm, cùng nhiều nhân vật “quyền
quý” khác. Tổng số hành khách trên chiến thuyền là 400, bao gồm đàn ông, đàn bà, trẻ
em, trong đó có 160 thuỷ thủ.
Schmaltz là một sĩ quan hống hách, thích làm cho mình trở thành quan trọng. Ông ta
nhanh chóng thuyết phục De Chaumereys nên đi theo lộ trình do ông ta vạch ra – lộ
trình ngắn nhất từ Pháp tới Sénégal. Điều này có nghĩa là sẽ dẫn cả đoàn tầu đi qua
những chặng nguy hiểm dọc theo bờ biển, nơi có những đụn cát gần bờ, những bãi đá
ngầm và rất nhiều mối nguy hiểm khác tiềm ẩn, đặc biệt là dải đất ngầm Arguin nổi
tiếng. Tóm lại, đó là một lộ trình đi qua toàn những thứ có thể làm tiêu tan sự nghiệp
của những nhà hàng hải kinh nghiệm nhất. Kinh nghiệm thông thường là giương buồm
tiến ra ngoài khơi xa xôi của Đại Tây Dương rồi từ đó sẽ đi vào bờ khi cần thiết. Nhưng
Schmaltz, một người không biết gì về hàng hải và hay nạt nộ người khác, không hề nghĩ
tới một lộ trình đi đường vòng như thế. De Chaumereys dốt nát không kém, nên răm rắp
nghe theo Schmaltz. Đám thuỷ thủ thấy lo sợ, nhưng không dám chống đối. Họ phải cố
nén nhịn và buộc phải chấp hành mệnh lệnh, mặc dù linh cảm rằng họ đang đi theo một
lộ trình cực kỳ điên rồ.
Chiếc Méduse đi nhanh nhất, đến nỗi viên thuyền trưởng nhanh chóng mất liên lạc với
các chiếc Loire và Argus. Chiếc Echo cố gắng giữ khoảng cách để dẫn đường cho chiếc
Méduse, nhưng rồi cũng không theo kịp. Đợi lúc trời tối, nó khôn ngoan đi vòng ra ngoài
khơi để tránh cái chết, trong khi chiếc Méduse vẫn tiếp tục đi theo con đường riêng của
mình.
Ngày 28-06, De Chaumereys quen biết một người bạn mới trên tầu – ông bạn Richefort
“quý hoá”. Ông này tự giới thiệu bản thân mình là một một nhà thám hiểm Châu Phi

sành sỏi, mặc dù kinh nghiệm thực tế hàng hải của ông ta còn ít hơn chính De
Chaumereys. Thực ra tay này mới ra tù ở Anh, nơi hắn đã phải đi tù trong khoảng 10
năm trước đó, và lúc này đang là thành viên của một hội từ thiện có ý định đi sâu vào
nội địa Châu Phi. Thế là De Chaumereys liền quay sang tin tưởng tay này về “kiến thức
Châu Phi”, đến nỗi tuỳ tiện giao cho tay này nhiệm vụ lái thuyền chính thức. Các thuỷ
thủ cảm thấy bị sỉ nhục nghiêm trọng. Không khí phản ứng bắt đầu lan tràn, ngay cả
phụ nữ cũng phải kêu ca. Nhưng trong khi các thuỷ thủ lắc đầu thì viên thuyền trưởng
và ông bạn “quý hoá” đã lái con tầu từ từ đi vào chỗ nguy hiểm.
Ngày 02-07, số phận của họ đã điểm. Những xoáy nước đục ngầu hai bên mạn thuyền
thông báo cho biết thuyền đang đi vào chỗ ngày càng nông. Hành khách tỏ ra giận dữ.
Bị đe doạ bởi một hành khách, Richefort cười thản nhiên rồi trả lời xoa dịu: “Quý vị thân
mến, chúng tôi biết việc chúng tôi làm. Xin quý vị hãy chú tâm vào việc của quý vị và
giữ yên lặng. Tôi đã hai lần vượt qua dải đất ngầm Arguin. Tôi đã từng giương buồm tới
Biển Đỏ và quý vị sẽ thấy tôi không dễ bị dìm chết đuối đâu”. Lúc ấy Schmaltz vẫn đang
ra lệnh và quát tháo mọi người xung quanh, De Chaumereys thì chạy tới bên cạnh
những người không vâng lời và ra lệnh phải chấm dứt những lời phàn nàn chê bai. Đó là
lý do dẫn tới thảm hoạ.
Ngày 02-07 đã chứng kiến dấu chấm hết của chiến thuyền Méduse. Vào lúc 11 giờ 30’
sáng, có những tiếng kêu thông báo con thuyền đã đi vào chỗ nước chỉ sâu có 80 sải (1
sải bằng khoảng 1,82m). “Không có gì mà phải báo động!”, De Chaumereys hét lên với
các thuỷ thủ, rồi lại nhắc lại điều đó một lần nữa với giọng to hơn để yên chí rằng tất cả
các thuỷ thủ đều nghe rõ.
3 giờ 10’ chiều, còn thuyền đã vào chỗ nước chỉ sâu có 6 sải và cứ thế càng lúc càng vào
chỗ nông hơn. 5 phút sau con tầu bỗng rùng mình nhô lên. Một va đập mạnh, con tầu
mắc phải dải đê ngầm Arguin, cách đất liền khoảng 60 dặm (khoảng 110km). Theo các
nhân chứng kể lại, một biến dạng hiện lên trên khuôn mặt của De Chaumereys và
Richefort, “một nỗi lo lắng bồn chồn rõ rệt, mặt mũi nhăn nhó”.
“Sáng kiến” vô lương tâm:
Vài giây sau, Richefort trở thành đối tượng của một làn sóng chỉ trích dâng lên, chỉ chút
nữa là biến thành một cuộc tấn công. Viên thuyền trưởng câm lặng không nói một lời.

Tổng toàn quyền Schmaltz và gia đình ông ta nhìn chằm chằm vào viên thuyền trường,
mặt lạnh như tiền với vẻ kiêu căng mà đám nhà giầu thường có, ra điều sẽ có ai đó phải
lo liệu phục vụ ông ta và gia đình ông ta chu đáo, sao cho mọi việc sẽ phải đâu ra đấy.
Tình thế lúc ấy thật nan giải, con tầu tuy không bị vỡ, chỉ mắc kẹt, nhưng rất khó để kéo
nó ra khỏi dải đất ngầm, vì thuỷ triều khá cao. Với nỗ lực làm cho tầu nổi lên để kéo ra,
đám thuỷ thủ bắt đầu ném bớt đồ vật ra khỏi con tầu, nhưng một lần nữa De
Chaumereys lại quyết định trái ngược: Ông ta ra lệnh ngừng ném đồ, vì sợ cấp trên ở
nhà sẽ khiển trách việc quăng bỏ những chiếc đại bác quý giá. Thế là con tầu tiếp tục từ
từ chìm xuống tới những mực nước nhơ bẩn mà nó có thể chìm.
Sau một lúc đi đi lại lại lo lắng lẩm bẩm gì đó, De Chaumereys quyết định rời bỏ con tầu.
Ông ta tập hợp những người “tin cẩn” để thảo luận phương án cấp cứu, tất nhiên thuỷ
thủ không được mời tham dự.
De Chaumereys nêu khó khăn rằng số thuyền cấp cứu không đủ để chở tất cả vào đất
liền, Schmaltz lập tức đưa ra “sáng kiến”: Làm một chiếc bè để chở thuỷ thủ vào đất
liền, ưu tiên dành thuyền cấp cứu cho những hành khách “quan trọng”, và những thuyền
này sẽ kéo chiếc bè vào bờ an toàn.
“Sáng kiến” này lập tức được thi hành: Một chiếc bè gỗ kích thước khoảng 20m x 7m
được chế tạo vội vàng từ những cột buồm và xà ngang của con tầu, không có phương
tiện để lái và chèo. Khi đám thuỷ thủ và binh lính bắt đầu tỏ ra lo lắng, viên thuyền
trưởng vội vàng xua họ lên chiếc bè. Tổng cộng có 146 đàn ông và một phụ nữ đã bước
lên đó. Ngay lập tức bè tròng trành, người trên bè bị chìm xuống nước tới thắt lưng, vì
số lượng chen chúc quá đông. Cảnh tượng ấy làm nhiều người sợ hãi, 17 người từ chối
không chịu lên bè, quyết định ở lại trên phần nổi của chiếc Méduse, hy vọng rồi trước
sau cũng sẽ có người đến cứu.
Trong khi đó, 5 trong số 6 thuyền cấp cứu lại rất thưa người. Ít người hơn trên một chiếc
thuyền cấp cứu có nghĩa là khẩu phần ăn cho mỗi người trên con thuyền đó sẽ lớn hơn,
đó là cách tính toán của đám người “quyền quý”. Cuối cùng thì những chiếc thuyền cấp
cứu cũng bắt đầu giương buồm lướt sóng chạy vào bờ, kéo theo chiếc bè. Trong khi De
Chaumereys, kẻ đầu tiên rời bỏ con tầu Méduse, cùng với gia đình của Schmaltz và
những hành khách “quan trọng” khác được ngồi rộng rãi an toàn để chạy trốn thì đám

người khốn khổ trên chiếc bè bị ướt lướt thướt, bắt đầu đối mặt với đói khát, tù túng, và
tất cả những gì bị đát nhất. Họ không có đủ lương thực và nước uống, không có một chỗ
khô ráo để ngủ, thậm chí một chỗ trống để ngả lưng. Tất cả chỉ có vài thùng rượu và
nước uống cùng với ít bột mì, không thể đun nấu và cũng không thể đốt lửa để sưởi ấm.
Đám người trên bè bắt đầu phản ứng với cách đối xử bất công đê tiện quá lộ liễu đó. Vì
quá thất vọng, họ rắp tâm sẽ nhẩy lên bất cứ chiếc thuyền cấp cứu nào đi gần tới họ. Do
đó mỗi lúc chiếc bè ở gần một chiếc thuyền cấp cứu nào là chiếc thuyền ấy chạy bán
sống bán chết cho xa chiếc bè. Tình hình đó làm De Chaumereys hoảng sợ và hắn lập
tức ra lệnh cắt đứt dây nối với chiếc bè, để mặc cho nó trôi nổi lênh đênh trên biển, cầu
mong lòng khoan dung độ lượng của biển cả để sống còn. Chúng ta có thể hình dung ra
trạng thái tâm lý của những người trên chiếc bè lúc đó thất vọng và hoàng loạn đến
chừng nào, khi họ trông thấy những chiếc thuyền cấp cứu dần dần khuất khỏi đường
chân trời, để mặc họ ở lại trơ trọi giữa lòng biển khơi xa cách đất liền. Liệu có ai sẽ trở
lại cứu họ không?
Victor Hugo từng nói: “Kẻ dốt nát gây ra nhiều điều ác hơn chính kẻ ác” (Les
ignorants font plus de méchancetés que les méchants), nhưng De Chaumereys vừa dốt
nát vừa độc ác, do đó hậu quả do ông ta gây ra vượt quá mọi sức tưởng tượng.
Hậu quả của dốt nát và độc ác:
Thật vậy, nhiều thùng rượu đã bị quăng xuống biển để lấy chỗ ngồi hoặc do bị ngập
nước biển. Nhưng mối nguy lớn nhất không phải là sự đói khát, mà là những đe doạ đến
từ chính những người trên bè, bởi họ đã bị xô đẩy tới chỗ bùng nổ bản năng hoang dại
vốn có trong con người! Khi đêm xuống, họ bắt đầu nhận ra rằng sự thể mới thực sự tệ
hại làm sao. Thật đau lòng, khi những kẻ chịu trách nhiệm với cảnh ngộ khốn nạn của
họ không còn ở xung quanh nữa, họ bắt đầu quay sang đánh nhau, tự biến mình thành

×