Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.72 KB, 11 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Có thể nói máy tính cá nhân là sáng tạo vĩđại nhất của thế kỷ 20. Khơng một
thiết bị nào khác lại có ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống, công việc và cach
thông tin liên lạc của chúng ta. Cùng với Web, PC đã thay đổi nền kinh tế thế giới và
tạo ra nhiều của cải vật chất cho nhân loại. Nếu như người ta dựđốn đúng về Y2K
thì nó cũng có thể gây nên sự tàn phá ghê gớm vào thời điểm bước sang năm 2000
trong vài tuần lễ nữa. Quá khứ và tương lai ra sao - bài báo này sẽ cung cấp cho bạn
một vài câu trả lời.
Khi nhìn lại những sự việc nổi bật nhất của thể kỷ số hoá này - từ sự ra đời của
Eniac vào năm 1045 đến việc xuất hiện World Wide Web năm 1989 và niềm ham
mêm IPO (cổ phiếu trên Internet) của những năm 90 - ta sẽ khám phá được sự thật
đằng sau những sáng tạo vĩ đại nhất cũng như những sai lầm lớn nhất trong lịch sử
máy tính. Bạn sẽ đọc thấy tên các sản phẩm tốt nhất và cả sản phẩm thất bại cay
đắng nhất (chắc mọi người cịn nhớ Microsoft Bob hay PCjr của IBM?); những thơng
tin cần loại bỏ; các Web site mà bạn có thể nương tựa khi đến những vùng hoang
vắng (dĩ nhiên là cùng với notebook, kết nối Internet không dây và hàng tấn pin); và
cả chục cách hướng dẫn nếu bạn bị vướng vào vòng Y2K.
Đây là con đường gập ghềnh khúc khuỷu, khó đốn được những gì đằng sau khúc
ngoặt. Chỉ biết rằng bước sang ngày 1 tháng 1, 2000 cả thế giới có thể sẽ tối mị; khi
đó chắc bạn phải đọc bài này trong ánh đèn dầu hay ánh nến lung linh.
<b>Điệu nhảy của IBM </b>
Ai cũng biết rằng ban đầu IBM không muốn tham gia vào lĩnh vực máy tính cá
nhân. Chỉ sau khi Apple tung ra Apple II năm 1977, các nhân viên bướng bỉnh của
IBM mới chịu cùng nhau tạo ra một máy tính tương đương, khơng có các linh kiện
IBM và chạy trên hệđiều hành Microsoft.
Không chỉ các nhà điều hành IBM mới băn khoăn vềđầu tư của họ cho máy tính
cá nhân. Năm 1981, khi Big Blue giới thiệu IBM PC, Apple đã quảng cáo một trang
trên tạp chí Phố Wall và ngụ ý rằng sản phẩm mới của IBM chẳng có gì đáng sợ.
Tuy nhiên chỉ sau 6 tháng, IBM đã bán được 50.000 máy, và trong vòng 2 năm
họđã vượt Apple về doanh số. Big Blue đã đặt dấu ấn cho họ lên lãnh địa máy tính
cá nhân, và PC trở thành thuật ngữ không thể thiếu của ngành công nghiệp đang
đâm chồi nảy lộc.
<b>Cha đẻ của tất cả các PC </b>
Máy tính số hố tốc độ cao đầu tiên là ENIAC (Electronic Numerical Integrator
and Computer) báo hiệu sự khởi đầu của ngành công nghiệp máy tính.
Ban đầu được chế tạo để tính tốn các bản đạn đạo cho pháp thủ quân đội Mỹ
trong chiến tranh thế giới thứ II, ENIAC đã khơng hồn thành đúng thời hạn để phục
vụ chiến tranh. Nhưng nó là một bước đột phá, các nhà thiết kếđã đi đầu trong việc
sử dụng khả năng tính tốn tuy ở mức thấp và khái niệm các thanfh phần ”burning
in“. Có lẽđây là máy tính đầu tiên sử dụng câu lệnh điều kiện If-then (Nếu-thì).
Dòng sản phẩm từ ENIAC tiến tới UNIVAC năm 1951 (một trong những máy tính
thương mại đầu tiên), đến IBM PC rồi đến Palm Pilot - ENIAC là cha đẻ của tất cả các
<b>Phong trào </b>
Trở lại 25 năm trước, vào tháng 3/1975. Hãy hình dung một ga ra dành cho 2 ơ
tơ ở Menlo Park, California, nơi có 32 kẻ ham mê đang say sưa ngắm hộp đèn LED
nhập nháy. Đó là câu lạc bộ Homebrew của những người dùng máy tính khơng
chun, trong số thành viên có cả Steve Wozniak và Steve Jobs của Apple. Họ còn
gây cả sự chú ý của Bill Gates, năm 1976 Gates đã viết thư cho câu lạc bộ chỉ trích
những người này vi phạm bản quyền Altair BASIC, hệđiều hành đầu tiên của ông.
Homebrew đã thiết lập chuẩn cho các nhóm người dùng như Boston Computer
Society và nhóm Capital PC. Hiện nay có khoảng 2000 câu lạc bộ như vậy trên tồn
thế giới. Bạn có có thể xem danh sách tại www.apcug.og.
<b>Sự ra đời của Internet </b>
Phải nói thẳng là Internet được sinh ra không phải để chống lại một vụ nổ hạt
nhân.
Người ta đã đồn rằng chính phủ Mỹ tạo ra Internet như một mạng truyền thơng
có thể vượt qua mọi cuộc tấn công của người Nga. Thực tế sự hình thành của nó
hồn tồn mang tính chất hào bình.
Vào tháng 7 năm 1968, Ban dự án nghiên cứu của Bộ Quốc Phòng Mỹ hợp đồng
với Bolt Beranek and Newman, một hãng thiết kế máy tính ở Masachusetts, để xây
dựng ARPAnet là mạng kết nối các máy tính nghiên cứu trong cả nước. Mùa thu
1969, hãng này đã kết nối được các máy tính của Viện nghiên cứu Stanford, UCLA,
UC Santa Barbara và trường tổng hợp Utah. Khi các protocol và công nghệ chuyển
mạch phát triển, mạng này được mở rộng. Năm 1973, các nhà thiết kếđã hợp nhất
các mạng riêng biệt trong một dự án mang tên ”Internetting problem“ (vấn đề kết
Những Internet thương mại mà chúng ta biết đến ngày nay mãi tới giữa những
năm 90 mới hình thành, với sự phát triển của các trình duyệt Web và nội dung thông
tin gần gũi với người dùng mà các trình duyệt này hỗ trợ. Các nhà cung cấp dịch vụ
trực tuyến như CompuServe và AOL đã nhanh chóng kết nối vào Internet. Hiện nay
có 150 đến 200 triệu người trên khắp thế giới sử dụng Internet - con số này dựđoán
sẽ tăng thành 300 triệu vào năm 2005.
Hai sinh viên bỏ học Steve Jobs và Steve Wozniak đã bán chiếc xe VW và một
máy tính bỏ túi để thành lập ra công ty mang tên Apple Computer, được điều hành
từ một ga ra nhỏ. Khi Aplle bắt đầu hoạt động vào ngày 1 tháng 4, 1976 thì hầu như
chẳng ai tin tưởng vào công ty non nớt này, kể cả bản thân người sáng lập thứ ba
của Aplle là Ron Wayne mà ít ai cịn nhớ đến.
Hai tuần sau, Wayne rút lui và bán cổ phần của ông với giá 800 USD. Quyết định
này của Wayne không phải là không căn cứ. Những người ham thích đã phải trả
666,66USD cho Aplle I mà chỉ mua được bo mạch chính, khơng có hộp máy, màn
hình và bàn phím. Nhưng hai năm sau, máy tính khác đã ra đời từ ga ra này: đó là
Apple II huyền thoại. Ngay sau đó Atari, HP và các công ty khác đua nhau theo vết
xe của Apple.
<b>Web đã hình thành như thế nào </b>
Có vẻ như World Wide Web được biết đến một cách toàn diện vào giữa những
của siêu văn bản (hypertext), đã nghĩa ra mạng thông tin dạng Web có tên Project
Xanadu (dự án mà hienẹ nay ông vẫn đang thực hiện). Và dĩ nhiên, Web dựa trên hạ
tầng cơ sởđược thành lập bởi ARPAnet năm 1969.
Thế nhưng Web thực sự hoạt động vào tháng 3 năm 1989, khi Tim Berners-Lee,
một kỹ sư phần mềm người Anh làm việc tại phịng thí nghiệm vật lý hạt nhân Châu
Âu ở Geneva, đã sáng chế ra hệ thống cho phép các nhà nghiên cứu của phịng thí
nghiệm dùng chung các tài liệu khác nhau ở dạng siêu liên kết. Năm 1992, dự án của
ông - được gọi là World Wide Web - đã bắt đầu phổ biến ra ngoài giới khoa học và
nghiên cứu của Internet. Trong số những người ưa chuộng có Marc Andreesen, làm
việc tại Trung tâm các ứng dụng Siêu Tính Tốn Quốc gia. Năm 1993, cùng với nhà
lập trình Eric Bina, Andreessen đã thiết kế trình duyệt chỉ-và-nhấn đồ họa mang tên
NCSA Mosaic. Sự phổ biến của Web bắt đầu tăng vọt, đặc biệt là sau khi Andreeseen
và Bina gia nhập công ty Netscape non trẻ vào năm 1994 và tập trung phát triển
trình duyệt Navigator.
Web phát triển nhanh tới mức nào? Hãy xem sau 5 năm lượng server trên Web
tăng từ số 0 đến khoảng 1500. Thêm 5 năm nữa, con số này vượt quá 7 triệu và vẫn
đang tiếp tục tăng.
<b>Intel mất điểm </b>
Intel đã nhận được bài học lớn khi bị giáng một đòn bởi lỗi tán học của Pentium
vào tháng 11 năm 1994. Vấn đề là gì? Khi thực hiện một số phép tính, chip này đã
gây ra lỗi với các số thập phân từ hàng thứ 8 sau đấu phẩy. Intel bỏ qua lôi này như
một điều không đáng kể. Khi đó CNN vớđược sự việc và viện chưởng lý ở 8 bang của
nước Mỹđã tố tụng chống lại Intel. Nó nhanh chóng trở thành vết đen lớn nhất trong
lịch sử ngành máy tính. Một giám đốc công ty đã phát biểu: ”Đây là trường hợp kinh
điển khi những người thơng minh lạ thường vẫn có thể làm những điều ngu ngốc lạ
thường“.
Intel đã chủ động sửa lỗi. Giờđây công ty thường in bản thông báo và sửa những lỗi
đã được phát hiện cho mỗi loại chip mới tung ra.
<b>Visicalc lừng danh </b>
Có ứng dụng thực sự gây khuynh đảo, khiến cho người ta mua máy tính chỉđể sử
dụng nó, đó là VisiCalc, bảng tính số hố đầu tiên.
Làm việc vất vả trên một tầng thương ở Masachussetts, Dan Bricklin và Bob
Frankston đã soạn thảo chương trình này năm 1979. Nhờ khả năng bổ sung cột và
hàng số tức thời, phần mềm của họ đã cách mạng hố việc tính tốn các con số và
hồn thành trong vài giây những cơng việc đáng lẽ mất hàng giờ. Hơn 700.000 bản
chương trình đã được tiêu thụ với giá 99 USD mỗi bản, làm cho nó trở thành phần
mềm phổ biến nhất vào thời đó.
Nhưng Bricklin và Frankston đã khơng đăng ký bản quyền sáng chế, và giữa
những năm 80 phần mềm tinh vi hơn của Lotus là 1-2-3 liền lấn át VisiCalc. Rồi đến
lượt 1-23 bị Excel của Microsoft qua mặt.
Công việc thiết kế của Bricklin và Frankston khơng vì thế mà kết thúc. Bricklin
<b>Grace huyên thoại </b>
Không có những ngơn ngữ lập trình chuẩn thì lĩnh vực máy tính chỉ là một mớ hổ
lốn vơ tích sự. Công trạng lớn trong việc thiết lập trật tự thuộc về Grace Murray
Hopper, một giáo sư toán học, thiếu tướng hải quân của Mỹ, và là phụ nữđầu tiên
nổi danh trong thế giới tin học.
Hopper suốt đời nghiên cứu về các qui ước. Năm 1995, với mong muốn viết
chương trình để những người khơng phải là khoa học gia cũng có thể sử dụng máy
tính, bà đã phát triển Flow-Matic, ngơn ngữ tính tốn đầu tiên dùng những từ như
”count“ (tính) và ”display“ (hiển thị). Năm 1959 chương trình này được chuyển thành
Common-Business-Oriented Language (ngôn ngữ hướng nghiệp vụ phổ dụng -
COBOL) do Hopper viết cùng với các đồng nghiệp tại hãng máy tính Eckert-Mauchly.
Cobol đã cách mạng hố phương thức điều hành máy tính, đánh dấu thời kỳ đầu tiên
chúng có thểđáp lại các từ chứ khơng chỉ các con số.
<b>Kẻ phá hoại bất hạnh </b>
Sự rối loạn đầu tiên xảy ra năm 1982, khi một nhóm phá hoại (hacker) ở
Milwaukee (Mỹ) xâm nhập vào mạng máy tính của phịng thí nghiệm quốc gia Los
Alamost qua modem. Tự gọi là Băng 414, các thủ phạm tung hoành trong 9 ngày,
xâm nhập 60 hệ thống máy tính trước khi bị FBI tóm cổ.
Bộ phim War Games (trò chơi chiến tranh) sản xuất năm 1983, trong đó nhân vật
Matthew Broderick đột nhập vào hệ thống máy tính của Nhà Trắng và đưa cả thế giới
Bắt chước các diễn viên, đám hacker trẻ muốn nổi tiếng và đôi khi cũng có
ngun do chính trị. Bị thúc đẩy bởi trí tò mò, sự buồn chán và cả mong muốn về
quyền lực, chúng ba gồm những kẻ tầm thường (như nhóm đã gây rối loạn cho site
của báo New York Times) cho tới những tội phạm nghèo (như Vladimir Levin, kẻđã
chuyển hàng triệu USD từ máy tính mainframe của Citibank sang các tài khoản ở
Phần Lan và Israel).
Hacker nổi tiếng nhất là Kevin Mitnick. Hiện nay 36 tuổi, Mitnick bị bắt năm 1995
sau 2 năm săn lùng của FBI và bị tuyên án 46 tháng tù giam vì tội xâm hại các máy
tính cộng tác.
Dù chúng là ai, phá hoại với mục đích gì, rõ ràng là khi cịn tồn tại các hệ thống
máy tính thì cịn xuất hiện đám hacker và người dùng cịn phải tìm cách chống lại
chúng
ă<b>n cắp ý tưởng </b>
Nhiều người nói rằng Steve Jobs đã làm một vụ trộm thế kỷ khi ông đi tham quan
Trung Tâm Nghiên cứu Palo Alto (PARC) của Xerox. Tại đây Jobs đã chú ý đặc biệt
đến giao diện người dùng đồ hoạ mà Xerox đang thử nghiệm cho PC. Chỉ trong vài
phút, Jobs đã nhận ra ngay rằng rồi đây tất cả máy tính trên thế giới sẽ sử dụng
GUI.
Theo lối suy luận thơng thường thì trước khi Microsoft nhái giao diệnh Macintosh
được thứ gì trong chuyến đi đến PARC.
<b>Bán hàng qua bưu điện </b>
Vào năm 1983, Michael Dell còn là một cậu sinh viên. Trong khi bạn bè mải mê
đèn sách, Del chúi mũi vào việc lắp ráp máy tính rồi bán qua đường bưu điện. Ơng
bỏ học khi chưa xong năm thứ nhất đại học Texas để thành lập PCs Limited, tiền
thân của Dell Computer.
Việc Michael Dell biết lắp và kinh doanh máy tính khi cịn là sinh viên đã trở
thành một phần trong truyền thống của ngành công nghiệp này. Nhưng thực ra mơ
hình bán hàng trực tiếp khơng thơng qua cửa hàng bán lẻ của Dell mới thực sự là
một sáng kiến, vạch đường cho các công ty khơng chỉ biết sản xuất ra máy tính mà
cịn biết cách bán trực tiếp cho khách hàng.
Với doanh thu 18 tỷ USD, giờđây Dell chẳng còn sợ cảnh khốn khó như thời sinh
viên. Cơng ty mang tên ơng vẫn đi đầu trong mơ hình bán máy trực tiếp, đặc biệt
bán qua mạng Internet. Xem ra cuộc đời của chàng sinh viên ”bỏ lửng“ này cũng
không đến nỗi tệ.
Đêm 23/8/1995, trước các cửa hàng máy tính trên khắp nước Mỹ tập trung rất
nhiều người. Họ làm gì vậy? Muốn trở thành người đầu tiên mua được Windows 95,
phiên bản tiếp theo của Windows 3.1
Sau ba năm sản xuất với khơng ít sóng gió, cuối cùng hệđiều hành này cũng
được công bố ngay tại đại bản doanh của Microsoft ở Redmond, Washington. Trên
bục diễn giả, Bill Gates tổng kết một vài ”kỷ lục“ của phần mềm này, trong khi loa
liên tục phát giai điệu bài hát ”Start Me Up“ của ban nhạc nổi tiếng Rolling Stones.
Phiên bản mới này đã đưa Windows lên đỉnh cao danh vọng, 3 triệu bản được bán
hết ngay trong vịng 5 tuần lễ. Nhưng thành cơng lớn nhất của Bill Gates lại nằm ở
khâu tiếp thị. Bỏ ra 200 triệu USD cho các hoạt động quảng cáo (trong đó 12 triệu
USD là để mua bản quyền bài hát Start Me Up), Gates đã tạo ra một cơn sốt chưa
từng có trong ngành máy tính.
Mặc dù Windows 95 là Windows 3.1 được cải thiện bằng một giao diện mới, tương
thích Plug-and-Play và có khả năng kết nối Internet, nhưng bản chất của nó vẫn là
DOS. Và sự kết hợp vụng về giữ hai loại mã 16 bit và 32 bit đã khiến phần mền này
tụt dốc. Một nhà phana tích nói một cách mỉa mai: ”Họ (Microsoft) đã vung tiền
quảng cáo cho sự kiện là có nút Start trong Windows 95!“ Những nhà quan sát khác
thì nghi nghờ khơng hiểu Gates có biết phần điệp khúc của bài hát Start Me Up đáng
giá 12 triệu USD có câu ”... một người đàn ông thực sự phải bật khóc“.
<b>PONG, trị chơi đầu tiên trên máy tính </b>
Năm 1972, một số người đã có diễm phúc được biết đến cảm giác mạnh do trò
chơi trên máy tính mang lại. Phần đồ hoạ cũng như tư tưởng của trò chơi thật đơn
giản: một vạch màu trắng theo chiều dọc chia màn hình ra làm 2 phần, mỗi phần có
một ”cây vợt“ chắn ngang, khi trái bóng chạm vào cây vợt thì máy tính phát ra tiếng
”ping“.
Thực ra Pong không phải là game vide đầu tiên, và cũng không phải là game máy
tính vì nó dùng bo mạch điện tử chứ khơng dùng bộ vi xử l. Trong nhiều tháng, trị
chơi hấp dẫn này đã đạt được doanh số kỷ lục. Các phiên bản nâng cao như Super
Pong, Quadra-Pong, Puppy Pong liên tục ra đời.
Ngày nay, các trò chơi hiện đại như Pac-Man hay Tomb Raider đều ít nhiều ”mang
nợ“ với trò chơi điện tửđầu tiên này.
<b>Võ sĩ hạng lông </b>
Định nghĩa về tính khả chuyển thật tương đối. Hãy xét Model 5100 của IBM. Ra
mắt vào năm 1975, chiếc máy xách tay này nặng có ... 25kg và giá 19.975USD! Đây
rõ ràng là một chú khủng long so với chuẩn xách tay hiện nay. Nhưng nếu so sánh
với những hệ mainframe to bằng cả một gian phòng thời bấy giờ thì 5100 quả là xinh
xắn.
Máy tính chỉ thực sự nhỏ gọn từđầu thập niên 80, tuy nhiên chiếc Osborne 1 ra
Shack được giới thiệu. Với bàn phím QWERTY nhỏ nhắn và 1,9KB Ram, đây là sản
phẩm khởi đầu cho dòng các sản phẩm cầm tay hiện nay.
<b>Tấm hình trên bìa báo </b>
Tháng Giêng năm 1975, trên bìa tạp chí Popular Electronics có bức hình chú thích
cho bài ”máy tính dùng cho gia đình“. Bài báo nói về máy tính Altair 8800 bán theo
hình thức đặt hàng qua bưu điện đã kích thích trí tị mị của hàng ngàn bạc đọc. ”Tôi
cảm thấy thật thú vị và chỉ vài ngày sau tôi đã gửi một số tờ séc qua bưu điện để
mua một chiếc Altair 8800“, một người nhớ lại.
Altair không phải là chiếc PC đầu tiên, trước đó đã có Kenbak (1971) và Micral
(1973). Nhưng người ta nhắc nhiều đến Altair vì nó khởi đầu cho cuộc
microcomputer. Altair do một cơng ty không mấy tên tuổi là MITS sản xuất, được
bán với giá 500USD. Cấu hình của Altair gồm bộ xử lý 8080 2MHz của Intel 256 byte
bộ nhớ, khơng bàn hím, khơng màn hình. Để thao tác, người dùng phải nhấp nháy
cho biết là nó có hoạt động.
Nhưng rất nhanh sau đó Altair được bổ sung màn hình, bàn phím, thêm bộ nhớ,
tăng khả năng lưu trữ (lúc đầu dùng băng giấy để lưu dữ liệu, sau đó chuyển sang
dùng đĩa mềm). Nó cũng sinh ra một hệđiều hành dành cho microcomputer (CP/M)
và một nhà sản xuất phần mềm ra đời, đó là Microsoft. Từ sau khi nhìn thấy Altair
trên bìa tạp chí, Bill Gates và người bạn học Paul Allen đã cùng phát triển một ngơn
ngữ lập trình có tên là BASIC. Sau đó hai người bỏ ngang đại học để bắt đầu con
đường chinh phục thế giới phần mềm máy tính.
Gates và Allen nhanh chóng chiếm được hàng tỷ USD, nhưng ông chủ của MITS
thì đã phải bán lại cơng ty vào năm 1977 và theo đuổi nghề bác sĩ. Altair đã bị ngưng
sản xuất sau 2 năm.
<b>Máy tính ngày một dễ dùng hơn </b>
Những chiếc PC đầu tiên đòi hỏi người dùng phải có kỹ năng cao, chẳng hạn chút
ít kiến thức về lập trình và tốn nhị phân. Điều này đã thay đổi kể từ khi có các PC
đóng gói hồn chỉnh vào năm 1977. Apple II có giao diện đồ họa màu dễ hiểu; PET
2001 của Commodore kèm theo màn hình.
Khác với trước kia, máy tính thời kỳ này có thể sử dụng ngay khi được lấy ra khỏi
trường này. Ngày nay, nếu muốn có khái niệm về các bậc tiền bối, người ta phả dùng
phần mềm để biến chiếc máy tính tân thời thành những Apple II, PET, và TRS-80...
ảo.
Năm 1947, khi các nhà nghiên cứu của trường đại học Harvard đang thử nghiệm
máy tính Mark II thì máy bất ngờ bị treo. Bên trong hộp máy, các nhà khoa học đã
tìm thấy xác một con rệp bị điện giật. Xác con rệp này đã được dính vào cuốn sổ trực
của nhóm làm việc với lời chú thích ”lần đầu tiên tìm thấy lỗi do xác rệp gây ra“. Câu
chuyện về con rệp thì kết thúc nhưng từđây sản sinh ra thuật ngữ mới trong ngành
máy tính ”bug“, có nghĩa là lỗi.
”Bug“ được hiểu là lỗi trong máy tính khơng lâu sau khi máy tính ra đời. Vào đầu
thập kỷ 40, các kỹ sư của IBM đã mang thuật ngữ này vào trường đại học Harvar khi
họ giúp giải quyết những rắc rối kỹ thuật của Mark I. Hiện nay, đây là một từ rất
thường gặp trong các tài liệu liên quan đến máy tính.
<b>Cơn sốt các cổ phiếu trên Internet </b>
Sự cuồng nhiệt của Wall Street với Internet bắt đầu từ 9/8/1995, ngày mà
Netscape chính thức tham gia thị trường chứng khốn. Lúc đó cơng ty mới tròn 15
tháng tuổi và khởi đầu với mức giá cổ phiếu là 28 USD và tăng lên tới 74,75USD
phiểu Internet (Internet initial public offering - IPO) - rõ nét dần. Những cơng ty có
uy tín như Yahoo, Amazon.com, E-Trade lần lượt đưa ra cổ phiếu của mình trên
Internet, tạo tỷ lệ giá cả/lợi nhuận chưa từng có từ trước tới nay. Ngày nay, các nhà
đầu tư, lớn cũng như nhỏ, vẫn tiếp tục rót tiền vào các công ty mới thành lập trong
lĩnh vực này mà không quan tâm nhiều lắm tới vấn đề lợi tức. Họ chẳng để ý đến lợi
nhuận của các công ty mà chỉ nhìn vào hình thức bên ngồi và triển vọng của thị
trường.
Thế nhưng tại sao cơn sốt cổ phiếu Internet vẫn khơng suy giảm? Vì đây là một
cuộc cách mạng của thời đại chúng ta. Internet có tất cả: giải trí, thương mại, thơng
tin. Hiệu quả của nó là hoạt động kinh doanh và bn bán chứng khốn xảy ra suốt
24/24 giờ. Các nhà nghiên cứu cho rằng Internet IPO vẫn tiếp tục xuất hiện nhưng
sự hợp nhất giữa các công ty trong lĩnh vực này cũng sẽ là một trào lưu phổ biến
trong vòng từ 3 đến 5 năm nữa.
<b>Apple và IBM "choảng nhau" bằng quảng cáo </b>
Trong suốt quý Ba năm 1984, người ta đã được chứng kiến một quảng cáo ấn
tượng về Apple Computưer trước khi cơng ty này tung ra máy tính Macintosh. Đó là
hình ảnh một đám đơng cơng nhân dùng búa ”khảo“ vào mặt của kẻ áp bức họ - Big
Brother, đồng thời có giọng nói phát ra ”Ngày 24/1, Apple Computer sẽ giới thiệu
Macintosh“. Apple đã thuê một chuyên gia về quảng cáo thiết kế cho mẫu này nhằm
qua mặt đối thủ truyền kiếp IBM.
Ngược lại với Apple, IBM dùng hình ảnh vui nhộn của Charlie Chaplin với dòng
chữ ”một lựa chọn sáng suốt cho gia đình bạn“ để quảng cáo cho máy tính PC của
Nhưng chiến thắng của Apple cũng không kéo dài được lâu. Thông điệp mà Apple
đưa ra năm 1984 là một hành động hơi ”lố“ nhằm ”lăngxê“ hình ảnh của cơng ty nên
nó cũng đồng thời chuẩn bị cho một giai đoạn xuống dốc.
<b>Dùng mã hoá, đi tù! </b>
Các phương pháp mã hố đã từ lâu được chính phủ các nước sử dụng để bảo vệ
an tồn thơng tin quốc gia . Nhưng vào năm 1991, khi lập trình viên Phil
Zimmermann viết một chương trình miễn phí có chức năng tương tự tê là Pretty
Good Privacy (PGP), các giới chức của Mỹ đã lập tức đưa ra lệnh cấm chương trình
này. PGP là tiện ích mã hố cơng cộng đầu tiên cho phép người dừng gửi e-mail đã
được mã hố mà khơng ai có thể giải được.
Khi PGP được đưa lên một nhóm tin và phân phát đi khắp thế giới, tác giả mới
biết mình đã vi phạm luật pháp liên bang. Luật của Mỹ không cho phép xuất khẩu
công nghệ mã hoá ra khỏi biên giới. Sự kiện này báo trước những vấn đề về tính
riêng tư trong thời đại số hoá, đồng thời cũng đánh dấu sự tham gia của chính phủ
vào việc giám sát mạng tồn cầu Internet.
Do bị người dùng phản đối, chính phủ đã ngưng vụ PGP vào năm 1995 nhưng
tương lai của mã hố thì vẫn chưa được đảm bảo. Các cơ quan lập pháp đã xem công
nghệ PGP là một công cụ của giới thám tử và bọn khủng bố; họ muốn dùng phần
mềm mã hoá để giúp giới chức liên bang giải mã e-mail. Đến tận bây giờ, PGP vẫn
được cung cấp miễn phí tại web.mit.edu/network/pgp.html.
<b>Ai là Yahoo? </b>
Tháng 4/1994, hai sinh viên của đại học Stanford là David Filo và Jerry Yang
được nghỉ học vài ngày do giáo sư vắng mặt. Suốt mấy ngày nghỉ, hai người chẳng
làm gì ngoài lướt trên Web và viết một danh sách bookmark được tổ chức theo chủ
đề. Sau đó cả hai thống nhất là họ nên giới thiệu cơng trình của mình trên Web. Bộ
sưu tập bookmark này giờđây chính là Yahoo với 80 triệu khách viếng thăm mỗi
tháng. Còn Filo và Yang giờ đây ra sao? Họđều là triệu phú và luôn mang hy vọng
đến cho sinh viên 1988, Robert T. Morris, sinh viên 23 tuổi của đại học Cornell
Univesity (cha của anh chàng này là chuyên gia kỳ cựu tại Trung tâm Bảo Mật Máu
Tính Quốc Gia!) tung ra loại ”sâu máy tính“ đầu tiên trên Internet. Thế là chỉ trong
vòng 2 ngày, ”con sâu“ này đã tự nhân bản và tung hoành phá loại trên 6.000 máy
tính của các viện nghiên cứu, trường đại học, các đơn vị quân sự và bệnh viện..., làm
tê liệt một số nút (node) Internet chính, và Morris bị bắt giữ, Tên tội phạm bị qui và
tội gian lận và lạm dụng máy tính và phải chịu mức án là 3 năm tù cộng với khoản
tiền phạt là 10.050 USD.
Thực ra chương trình của Morris khơng phải là loại sâu máy tính đầu tiên trên thế
giới. Trước đó, từ những năm 60, Pranksters đã viết một chương trình tự nhân bản
hoạt động trên mainframe. Nhưng cũng từđây người ta biết được một khía cạnh
thuộc mặt trái của Internet, đó là mạng tồn cầu này có thể trở thành mảnh đất tốt
cho virus máy tính phát triển.
Theo các chun gia thì hiện nay có khoảng 40.000 loại virus máy tính cùng các
đang ”phấn đấu“ đạt tới con số 200.000 vào năm 2000.
<b>Máy tính thắng con người 1-0 </b>
Tháng 2/1996, thế giới chứng kiến trận đầu nghẹt thở giữa tay cờ số một Garry
Kasparov và máy tính Deep Blue của IBM. Máy tính đã thắng ở ván thứ nhất, trở
thành máy tính đầu tiên đánh thắng ở một trận cờđỉnh cao. Nhưng Kasparov đã lấy
lại tinh thần và thắng ở 3 ván tiếp theo, hòa ở 2 ván còn lại, tỷ số chung cuộc là
Kasparov thắng với tỷ số 4-2. Một lần nữa loài người loại cho thấy khơng có máy
móc nào có thể thay thếđược con người.
Để chuẩn bịđấu lại, IBM đã mang Deep Blue về phịng thí nghiệm và ”gia cố“
thêm bộ xử lý để nó có thể tính tốn được 200 triệu nước cờ trong một giây, nhanh
gấp đôi so với trước.
Tháng 5/1997, trong vòng 9 ngày, hai đấu thủ gặp nhau lần thứ hai. Lần này
Kasparov thắng ở ván đầu tiên nhưng chiến thắng cuối cùng lại thuộc về Deep Blue.
Thua 2 và hoà 3 ở những ván tiếp theo, con người hậm hực chịu khuất phục máy
tính với tỷ số 2,5-3,5.
ở ván thứ 2 của trận đấu này Kasparov đã bị ám ảnh bởi một nước cờ của Deep
Blue mà ơng cho rằng cách suy tính rất giống con người. Nó thể hiện khả năng mà
các máy tính trước đây khơng hề có. Điều này đã khiến Kasparov bị phân tâm. Tuy
nhiên ông không cho rằng trận thua này là dấu hiệu cho thấy con người đã đầu hàng
máy tính trong lĩnh vực cờ. Ơng nói: ”Tơi hồn tồn trong tưởng rằng, nến khơng có
gì bất thường (về phía con người), máy tính khơng thể chiến thắng“.
Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được câu trả lời cuối cùng vì để bảo vệ danh tiếng
<b>Vụ xì-căng-đan về thiếu nữ mặc váy xanh </b>
Một bí mật thật giật gân và khủng khiếp. Vậy mà bất cứ ai cũng có thể biết chi
tiết nội dung câu chuyện chỉ qua vài thao tác nhấn chuột. Đó là vào ngày 11/9/1998,
Hạ Nghị Viện Mỹđã làm cả thế giới sửng sốt khi công bố tài liệu điều tra dài 445
trang của luật sư Kenneth Starr trên Internet. Người ta đã dựđoán trước là bản báo
cáo này sẽ khiến cho Internet bị quá tải. Quả thực là nhiều server đã bị sự cố khi
hàng triệu người tò mò muốn đọc chuyện ”tham cung bí sử“ giữa cơ thực tập sinh
Nhà Trắng với ngài tổng thống.
Bất luận là tốt hay xấu, sự kiện này cho thấy Internet đã thực sự trở thành một
công cụ thông tin đại chúng hữu hiệu. Thơng tin là mênh mơng và người xem có thể
tự chọn ra một phần tin tức cần thiết từ các nguồn khác nhau chứ khơng cịn bị hạn
chế trong phạm vi nội dung đăng trên báo hay phát trên truyền hình. Hơn nữa,
Internet cũng cập nhật thơng tin nhanh hơn.