Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Đề tài vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.17 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng trưởng cao, liên tục không chỉ là điều kiện cần mà là động lực cho phát
triển kinh tế xã hội để đất nước thốt khỏi nguy cơ tụt hậu, đó cũng là nền tảng xác lập
vị thế đất nước trong cạnh tranh hội nhập toàn cầu. Để tăng trưởng lực lượng lao
động, khoa học công nghệ và nguồn vốn đầu tư được coi là những nhân tố cấu thành
quan trọng.
Xuất phát từ những lập luận đó cùng với thực tế mà nhóm chúng tơi đã chọn đề
tài:
“Vai trị của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay ”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài ngồi nhằm mục đích củng cố và nâng cao những kiến thức đã học.
Đồng thời áp dụng những lý thuyết đã học vào thực tiễn nhằm giải quyết những vấn
đề vướng mắc. Qua đó kiểm nghiệm và nâng cao những lý thuyết đã học, đúc rút và
tích lũy kiến thức đã học.
Mục đích của đề tài này là cho chúng ta thấy tăng trưởng kinh tế Việ Nam trong giai
đoạn qua cũng như giúp chúng ta hiểu rõ tác động của các nuồn lực với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài viết tập trung nghiên cứu các vấn đề về nguồn lực ở Việt Nam hiện nay .
Nhấn mạnh vai trò của các yếu tố nguồn lực và đưa ra giải pháp nâng cao tác động
tích cực của các yếu tố đó với tăng trưởng kinh tế.
Đối tượng nghiên cứu: Yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
: lực lượng lao động, nguồn vốn đầu tư, năng suất các nhân tố tổng hợp.
Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu


Đề tài chủ yếu dựa trên các phương pháp phân tích, so sánh …đồng thời kết
hợp với các học thuyết kinh tế , kinh nghiệm thực tế. Từ đó đưa ra các phương pháp
hoàn thiện các yếu tố nguồn lực và tổng hợp đưa ra các vao trò của các yếu tồ nguồn
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

1


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

lực đối với tăng trưởng kinh tế.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu và lời kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
Chương 2: Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam thời gian tới .
Do sự hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn và thời gian thực
hiện, nên tiểu luận sẽ không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong được sự
đóng góp ý kiến của thầy/cơ và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.

THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

2


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


VIỆN SAU ĐẠI HỌC

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC
TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Khái quát về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
qua các mơ hình
1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc
độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, cịn tốc độ tăng trưởng
được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm
giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc
giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu và được tính cho tồn thể nền
kinh tế hoặc tính bình qn trên đầu người. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản
ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế, sự tiến bộ và cơng bằng xã hội chính là mục
tiêu cuối cùng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi về chất của nền kinh
tế, còn tăng trưởng là điều kiện cần của sự phát triển. Các nước đang phát triển không
thể thực hiện được mục tiêu phát triển nền kinh tế nếu khơng có một khả năng tích luỹ
vốn cao, và mục tiêu phấn đấu của xã hội khơng phải là cho một sự cơng bằng trong
đó ai cùng nghèo như ai. Một xã hội lành mạnh phải dựa trên cơ sở của một nền kinh
tế vững chắc về vật chất.Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất cần thiết cho quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cho sự thay đổi các mục tiêu xã hội.
1.2 Khái niệm về yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
Theo quan điểm hiện nay, 3 yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế
được nhấn mạnh là: vốn, lao động và năng suất yếu tố tổng hợp.
Y = F(K,L,TFP)
Trong đó: K là vốn, L là lao động, TFP là năng suất yếu tố tổng hợp tác động đến
tăng trưởng.


THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

3


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

Tăng trưởng kinh tế do ba yếu tố tác động : đó là vốn, lao động và năng suất
các nhân tố tổng hợp(TFP).
1.2.1. Yếu tố Vốn (K):
Vốn (K) là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mơ có liên quan trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ khơng phải dưới dạng tiền
(giá trị), nó là tồn bộ tư liệu vật chất được tích luỹ lại của nền kinh tế và bao gồm:
nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang bị được sử dụng như những yếu
tố đầu vào trong sản xuất. ở các nước đang phát triển sự đóng góp của vốn sản xuất
vào tăng trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính
chất tăng trưởng theo chiều rộng. Tuy vậy tác động của yếu tố này đang có xu hướng
giảm dần và được thay thế bằng các yếu tố khác.
1.2.2. Yếu tố Lao động (L):
Lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây, chúng ta chỉ quan
niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng
số lượng dân số nguồn lao động của mỗi quốc gia (có thể tính bằng đầu người hay thời
gian lao động). Những mơ hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh
đến khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực đó là các lao động có kỹ
năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao
động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao

động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và
vai trò của yếu tố này trong tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển và các nước
đang phát triển. Hiện nay tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng
góp nhiều bởi quy mơ, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao
do trình độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp.
1.2.3. Yếu tố TFP total factor producctivity ( năng suất các nhân tố tổng hợp)
Yếu tố công nghệ kỹ thuật trong hàm sản xuất truyền thống hiện nay cũng được
mở rộng ra theo nghĩa là các yếu tố cịn lại ngồi vốn và lao động tác động đến tăng
trưởng kinh tế. Năng suất nhân tố tổng hợp là: hiệu quả sử dụng các thành tựu của tiến
bộ công nghệ, kết quả nghiên cứu triển khai khoa học kỹ thuật vào hoạt động kinh tế;
tác động của các yếu tố thể chế, chính sách, quá trình mở cửa, hội nhập, vốn nhân lực;
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

4


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

tất cả tạo nên hiệu quả, năng suất sử dụng lao động cao hơn và tạo nên “phần dư” còn
lại của thu nhập sau khi loại trừ tác dộng của yếu tố vốn và lao động.
1.3 Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
1.3.1. Lao động (L):
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và
kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu
hết các yếu tố khác như tư bản, ngun vật liệu, cơng nghệ đều có thể mua hoặc vay
mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối
đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động

tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II
cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất
lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục.
1.3.2. Vốn (K):
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người
lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi
lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư
nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát
triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự
tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư
nhân dầu tư cho sản xuất nó cịn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho
sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy
mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy
mơ nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thơng,
mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....
1.3.3 Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP – total factor productivity).
Tăng trưởng TFP thể hiện cả hiệu quả khoa học công nghệ lẫn hiệu quả sử
dụng các nguồn lực.
TFP được coi là yếu tố phi vật chất tác động đến tăng trưởng, được coi là yếu
tố tăng trưởng theo chiều sâu. Ngày nay, tác động của thể chế, của chính sách mở cửa,
hội nhập hay phát triển của vốn nhân lực đẫ giúp cho các nước đang phát triển tiếp cận
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

5


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC


được nhanh chóng những cơng nghệ hàng đầu thế giới đã tạo nên "sự rượt đuổi dựa
trên năng suất"và sự đóng góp của TFP ngày càng cao trong qúa trình thực hiện mục
tiêu tăng trưởng nhanh của các nước trên thế giới. Nhiều nước phát triển như Mỹ,
Canada, Đức, Nhật Bản, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế chiếm từ 50 đến
75%; số liệu thống kê các nước Đông Nam Á cho thấy ở các nước này, nhân tố TFP
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trên 1/3. Tương tự như các nước trong khu vực thời
kỳ đầu phát triển, vốn vật chất đóng vai trị quyết định đối với tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam. Trong quá trình đổi mới kinh tế chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện
một bước, thể hiện bằng sự đóng góp ngày càng cao hơn của nhân tố TFP vào tăng
tưởng kinh tế đất nước
TFP là một yếu tố tổng hợp phản ánh tác động của yếu tố khoa học công nghệ,
vốn nhân lực, các khía cạnh thể chế, cơ chế tác động đến khả năng tiếp nhận, nghiên
cứu và vận hành khoa học công nghệ và vốn nhân lực vào hoạt động sản xuất và dịch
vụ trong nền kinh tế. Theo xu hướng chung của quá trình nâng cao chất lượng tăng
trưởng, cần phải xét đến vai trò của yếu tố TFP. Đánh giá vai trò của TFP trong tăng
trưởng kinh tế. Tỷ trọng đóng góp của yếu tố này trong kết quả tăng trưởng. Các điều
kiện cần thiết cho vận hành yếu tố công nghệ mới vào hoạt động kinh tế như: trình độ
cơng nghệ trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, quy mô đầu tư vốn cho các hoạt
động nghiên cứu và phát triển, sự phát triển hoạt động giáo dục đào tạo và kết quả là
sự gia tăng quy mơ của nguồn vốn nhân lực, thể chế chính sách phù hợp để tạo ra các
nhân tố cần thiết cho q trình tích tụ cơng nghệ; năng lực cạnh tranh cơng nghệ của
nền kinh tế nói riêng và năng lực cạnh tranh tăng trưởng nói chung. Các nước phát
triển, các yếu tố chiều rộng đã được khai thác ở mức tối đa, thậm chí nhiều yếu tố có
xu hướng giảm dần và trở nên ngày một khan hiếm như lao động, tài nguyên thiên
nhiên, trong khi đó các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu khá phát triển như trình độ
nguồn nhân lực, trình độ khoa học cơng nghệ, thì thường thực hiện lựa chọn mơ hình
tăng trưởng theo chiều sâu, đóng góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng chiếm tỷ trọng
cao. Đối với các nước đang phát triển, nơi mà các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng
vẫn còn khá rối rào, nhất là số lượng lao động đông đảo, giá công nhân rẻ, nguồn tài
nguyên thiên nhiên đang nằm trong quá trình khám phá, trong khi đó chất lượng

nguồn nhân lực và trình độ khoa học cơng nghệ cịn thấp thì cần thiết phải coi trọng
các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng, số điểm phần trăm tăng trưởng ở các nước
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

6


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

đang phát triển thường được tạo nên chủ yếu bởi vốn và lao động . Tuy vậy, xét theo
xu thế phát triển, các nước đang phát triển cần phải có chiến lược chuyển dần sang
tăng trưởng theo chiều sâu, đây vừa là yếu tố bảo đảm hiệu quả của tăng trưởng, vừa
duy trì khả năng tăng trưởng trong dài hạn. Những số liệu thực chứng của một số nước
thuộc khối Đông Nam Á dưới đây cho thấy: nhìn chung, các nước có mức thu nhập
thấp thì tỷ trọng cơng nghệ trình độ thấp sử dụng trong hoạt động kinh tế càng cao.

THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

7


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Tổng quan sự phát triển của kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nơng, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%;
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Tốc độ tăng
tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và
mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%, nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới
khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ
tăng tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2008 theo giá so sánh 1994
Tốc độ tăng so với năm
(%) 2008
2006 trước
2007

Đóng góp của mỗi khu
vực vào tăng trưởng 2008
(Điểm phần trăm)

Tổng số

8,23

8,48

6,23

6,23

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản


3,69

3,40

3,79

0,68

Công nghiệp và xây dựng

10,38

10,60

6,33

2,65

Dịch vụ

8,29

8,68

7,20

2,90

Biểu đồ:Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam từ 2000 - 2008

Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự thay đổi
đáng kể. Tỷ trọng của khu vực nông nghiệp giảm, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có
sự thay đổi tích cực. Trong khu vực nơng nghiệp, tỷ trọng của ngành nông và lâm
nghiệp giảm, tỷ trọng của ngành thủy sản ngày càng tăng. Còn trong cơ cấu công
nghiệp, tăng dần tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến. Nét mới trong năm 2007,
2008 là tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng cao, quý sau cao hơn quý trước, nhất là dịch vụ
vận tải, du lịch, thương mại, tài chính ngân hàng ...
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

8


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

9

8,44

8
7,08

7

7,34

7,79


8,5

8,17

6.2

6
5
4
3
2
0,89

1
0

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007


2008

Nguồn: Số liệu niên giám thống kê thời kỳ 2000-2008
Tổng trị giá xuất khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,1 tỷ USD, tăng 9,8% so
với năm 2007, trong đó dịch vụ du lịch đạt 4 tỷ USD, tăng 7,2%; dịch vụ vận tải hàng
không đạt 1,3 tỷ USD, tăng 23,7%; dịch vụ vận tải biển đạt 1 tỷ USD, tăng 27,7%.
Tổng trị giá nhập khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,9 tỷ USD, tăng 10,3% so với
năm 2007, trong đó dịch vụ du lịch 1,3 tỷ USD, tăng 6,6%; dịch vụ vận tải hàng không
800 triệu USD, giảm 2,4%; dịch vụ hàng hải 300 triệu USD, tăng 20%. Số khách quốc
tế đến nước ta năm 2008 ước tính đạt 4,3 triệu lượt người, tăng 0,6% so với năm trước
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và
địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật khơng cấm.
2.1.2. Đầu tư
Vốn đầu tư tồn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt 637,3
nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007, bao gồm:
Nghìn tỷ đồng

Cơ cấu (%)

So với cùng kỳ
năm trước (%)

TỔNG SỐ

637,3

100,0


122,2

Khu vực Nhà nước

184,4

28,9

88,6

Khu vực ngồi Nhà nước

263,0

41,3

142,7

Khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngồi

189,9

29,8

146,9

THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHĨM 5 LỚP G

9



ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm nay tiếp tục đạt kết quả cao. Trong
tháng 12/2008, cả nước có 112 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới với tổng số
vốn đăng ký 1254 triệu USD, nâng tổng số dự án cấp phép từ đầu năm đến 19/12/2008
lên 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp
3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Bình quân vốn đăng ký của một dự án năm
nay đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân 12,5 triệu USD/dự án
của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm 2008, các dự án thực
hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự án và 51,7% về vốn
đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép
từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp
gần 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007.
Vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án được cấp giấy phép mới năm nay tập
trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1%
tổng vốn đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản
252,1 triệu USD, chiếm 0,4%.
2.1.3. Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
14,6% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 4%; khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước tăng 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi tăng 18,6%, trong đó
dầu khí giảm 4,3%. Trong các ngành công nghiệp, giá trị sản xuất ngành công nghiệp
chế biến năm 2008 ước tính đạt 580,2 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2007, chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành với 88,9%; ngành cơng nghiệp
điện, ga và nước đạt 37 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4%, chiếm 5,7%; giá trị sản xuất của

tồn ngành cơng nghiệp khai thác đạt 35,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,5% do lượng dầu thô
khai thác giảm, chiếm tỷ trọng 5,4%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2008 phục vụ tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu vẫn duy trì được tốc độ tăng cao so với năm 2007 là: Xe tải tăng 40,6%; xe
chở khách tăng 38,3%; thủy hải sản chế biến tăng 29,1%; máy giặt tăng 28%; quần áo
người lớn tăng 27,7%; biến thế điện tăng 22,6%; tủ lạnh, tủ đá tăng 22,2%; sữa bột tăng
18,6%; nước máy thương phẩm tăng 15,2%; ti vi tăng 15%; giày thể thao tăng 14,6%;
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

10


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

điện sản xuất tăng 12,3%; xi măng tăng 9,6%. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm quan trọng
khác chỉ đạt tốc độ tăng thấp hoặc giảm sút so với năm trước như: Xe máy tăng 5,5%;
điều hịa nhiệt độ tăng 4,6%; giấy, bìa tăng 2,3%; phân hóa học tăng 1%; thép trịn giảm
10,6%; dầu thô khai thác giảm 6,6%; than sạch giảm 6,1%; sơn hóa học giảm 1,9%; vải
dệt từ sợi bơng giảm 1,8%.
Các địa phương có quy mơ sản xuất cơng nghiệp lớn đạt tốc độ tăng giá trị sản
xuất công nghiệp cao hơn mức tăng chung toàn ngành là: Vĩnh Phúc tăng 21,8%; Bình
Dương tăng 21,5%; Đồng Nai tăng 20,7%; Hải Phịng tăng 18,5%; Cần Thơ tăng
17,6%; Thanh Hoá tăng 16,9%. Một số tỉnh/thành phố lớn đạt tốc độ tăng thấp, thậm
chí giảm so với năm trước là: Hà Nội tăng 12,9%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 12%;
Quảng Ninh tăng 10,4%; Đà Nẵng tăng 6,1%; Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 0,4%.
2.1.4. Dân số, lao động, việc làm
Dân số trung bình năm 2008 ước tính 86,16 triệu người, bao gồm nam 42,35
triệu người, chiếm 49,1% tổng dân số; nữ 43,81 triệu người, chiếm 50,9%. Trong tổng

dân số cả nước, dân số khu vực thành thị là 24 triệu người, tăng 2,85% so với năm
trước, chiếm 27,9% tổng dân số; dân số khu vực nông thôn là 62,1 triệu người, tăng
0,55% và chiếm 72,1%. Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm
2008 ước tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, trong đó lao động khu vực nhà
nước 4,1 triệu người, tăng 2,5%, lao động ngoài nhà nước 39,1 triệu người, tăng 1,2%,
lao động khu vực đầu tư nước ngoài 1,8 triệu người, tăng 18,9%. Tỷ lệ thất nghiệp của
lao động trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính 4,65%.
Có thể thấy trong thời gian qua, chỉ số phát triển con người đạt kết quả cao hơn
phát triển kinh tế:
Thứ bậc so với các nước tham
Năm

Chỉ số HDI

1990

0.608

74/130 nước

1995

0.539

120/174 nước

0.78

2000


0.671

108/174 nước

0.83

2004

0.691

112/177 nước

0.82

2005

0.704

108/177 nước

0.82

2007

0.733

105/177 nước

gia xếp hạng


THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

Chỉ số giáo dục

11


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

Với kết quả GDP bình quân đầu người khoảng 640 USD năm 2005, tuổi thọ 71.5
tuổi năm 2005, trình độ học vấn tính theo số lớp trên đầu người từ 3 – 4 lớp (trước
1990) lên 7 – 8 lớp năm 2005, Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNDP) xếp hạng chỉ
số phát triển con người (HDI – một chỉ số tổng hợp gồm 3 thành tố: thu nhập GDP/đâu
người, tuổi thọ và trình độ giáo dục) của Việt Nam ở thứ 108/177 nước và là nước cao
hơn thứ hạng GDP/đầu người 16 bậc. Đánh giá này của UNDP chứng tỏ trong điều kiện
thu nhập bình quân đầu người thấp như ở nước ta vẫn thực hiện được tốt chính sách xã
hội, một đặc tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

2.2. Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở Việt nam
hiện nay
Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của
yếu tố số lượng vốn đầu tư, đóng góp của số lượng lao động và đóng góp của yếu tố
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Ở VN ba yếu tố này được biểu hiện như sau :
yếu tố vốn chiếm 52,7%, yếu tố lao động chiếm 19,1%, yếu tố năng suất của các cá
nhân tổng hợp chiếm 28,2%. Ở nước ta, vốn + lao động = 71,8%, chứng tỏ VN phát
triển kinh tế theo chiều rộng, hiệu quả sức canh tranh thấp, xuất khẩu khó.
2.2.1. Vai trị của vốn
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt 637,3

nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007, bao gồm vốn khu
vực Nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn và giảm 11,4%; khu vực
ngoài Nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và tăng 42,7%; khu vực có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngồi 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,8% và tăng 46,9%.
Bảng: Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008
Nghìn tỷ

Cơ cấu So với cùng kỳ năm

đồng

(%)

trước (%)

TỔNG SỐ

637,3

100,0

122,2

Khu vực Nhà nước

184,4

28,9

88,6


Khu vực ngoài Nhà nước

263,0

41,3

142,7

Khu vực có vốn ĐT trực tiếp nước ngồi

189,9

29,8

146,9

Nguồn: Tổng cục thống kê
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

12


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước đạt 100,9
nghìn tỷ đồng, chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư cả nước, bằng 102,8% kế hoạch năm.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do trung ương quản lý đạt 34,2 nghìn tỷ đồng,

bằng 103% kế hoạch, trong đó Bộ Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn đạt 2881,4 tỷ
đồng, bằng 172,9%; Bộ Giao thông Vận tải đạt 6612,6 tỷ đồng, bằng 105,3%; Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đạt 451,1 tỷ đồng, bằng 102,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt
1132,5 tỷ đồng, bằng 101,1%; Bộ Công Thương đạt 237,7 tỷ đồng, bằng 100,3%; Bộ
Y tế đạt 932 tỷ đồng, bằng 100%; riêng Bộ Xây dựng chỉ đạt 219,9 tỷ đồng, bằng
62,6%.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính thực hiện
66,7 nghìn tỷ đồng, bằng 102,7% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có số
vốn thực hiện lớn là: thành phố Hồ Chí Minh đạt 9,9 nghìn tỷ đồng, bằng 112,1% kế
hoạch; Hà Nội đạt 6,3 nghìn tỷ đồng, bằng 73,4%; Đà Nẵng đạt 2,6 nghìn tỷ đồng,
bằng 108,5%; Bà Rịa-Vũng Tàu đạt 2,1 nghìn tỷ đồng, bằng 104,9%; Nghệ An đạt 1,5
nghìn tỷ đồng, bằng 107,1%; Hải Phịng đạt 1458,5 tỷ đồng, bằng 103,5%; Bình
Dương đạt 1291,8 tỷ đồng, bằng 104,6%; Lâm Đồng đạt 1200,9 tỷ đồng, bằng
152,3%.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm nay tiếp tục đạt kết quả cao.
Trong tháng 12/2008, cả nước có 112 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới với
tổng số vốn đăng ký 1254 triệu USD, nâng tổng số dự án cấp phép từ đầu năm đến
19/12/2008 lên 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự
án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Bình quân vốn đăng ký của
một dự án năm nay đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân 12,5
triệu USD/dự án của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm
2008, các dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự
án và 51,7% về vốn đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311
dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ
USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với
năm 2007.
Về tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế, ở Việt Nam trung bình giai đoạn 1995
– 2007 hộ gia đình tiết kiệm 10,3% và đầu tư 4,2%, họ còn thặng dư 6,1%. Khu vực
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G


13


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

doanh nghiệp tiết kiệm 8,6% và đầu tư 15,6%, thâm hụt 7%. Chính phủ tiết kiệm cho
đầu tư 2,4%, đầu tư 11,6% và thâm hụt 9,2%. Khu vực nước ngoài cho vay ròng là
7,2%.
- Tiết kiệm và đầu tư của hộ gia đình:
Từ năm 1995 – 2001: Tỷ lệ tiết kiệm của hộ gia đình trong GDP tăng từ 6,9%
lên 12,6%.
Từ năm 2001 – 2003: Tỷ lệ này có xu hướng giảm (do chính sách kích cầu của
chính phủ)
Từ năm 2003 – nay: Chu kỳ kinh tế tăng trưởng trở lại do đó tỷ lệ tiết kiệm của
hộ gia đình có xu hướng tăng trở lại.
Nhận xét: Trong 3 khu vực, hộ gia đình là khu vực thặng dư tiết kiệm nên là người
cho vay ròng
- Tiết kiệm và đầu tư của doanh nghiệp:
Trong 3 khu vực, khu vực doanh nghiệp là khu vực đi vay ròng nhiều nhất. Tỷ
lệ đầu tư trong GDP của doanh nghiệp đạt 20,4% trong giai đoạn 1995 – 2007, cao
hơn nhiều so với tỷ lệ đầu tư của nhà nước và hộ gia đình.
Trong 20,4% của tỷ lệ đầu tư trong GDP của doanh nghiệp, khu vực doanh
nghiệp tiết kiệm được 16,3% và đi vay 4,1%.
Mức chênh lệch tiết kiệm và đầu tư của khu vực trong doanh nghiệp giai đoạn
1995 – 1997 trung bình là 5,4% đã giảm xuống còn 3,1% thời kỳ 1997 – 2002 và
3,7% giai đoạn 2003 – 2007
Tỷ lệ tiết kiệm của các doanh nghiệp đã tăng nhanh dưới tác động của Luật

Doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp ra đời đã làm tăng đáng kể số lượng doanh nghiệp
trong nền kinh tế và đã tác động đến sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm của khu vực này.
- Tiết kiệm và đầu tư của Chính phủ:
Tỷ lệ tiết kiệm trong GDP của Chính phủ rất thấp, do ở Việt Nam ngân sách
nhà nước liên tục thâm hụt ở mức xấp xỉ 5% GDP/năm.
Tỷ lệ đầu tư của chính phủ so với GDP gần như tăng liên tục từ năm 1995 –
2007 (nguyên nhân là do chính phủ đang tích cực huy động các nguồn vốn vay trong
và ngoài nước nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư của mình).
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

14


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

2.2.2 Vai trò của lao động
Về cung cấp lao động cho sự phát triển thị trường trong nước và quốc tế, đến
năm 2005, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chiếm 53,4% dân số (trên 44 triệu người);
chất lượng cung lao động ngày càng cao, lao động qua đào tạo chiếm 25%, trong đó
19% qua đào tạo nghề.
Lao động là yếu tố dồi dào nhất của Việt Nam, hiện lại đang có xu hướng dư
thừa bởi số người đến độ tuổi bổ sung vào đội quân lao động hằng năm vẫn khá lớn
(hơn 1 triệu người). Tuy nhiên, yếu tố này đã không được sử dụng hiệu quả để tạo ra
tăng trưởng GDP lớn hơn. Nguồn nhân lực của nước ta đã khơng được sử dụng hết,
thậm chí lãng phí. Cụ thể là:
+ Tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao.
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo (tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề)
khơng có việc làm hoặc việc làm khơng đúng chun mơn cịn rất lớn, gây lãng phí rất

nhiều về chi phí đào tạo của gia đình và xã hội, dẫn đến cơ cấu lao động mất cân đối,
thừa thầy thiếu thợ. Nhiều lao động trẻ được đào tạo, có trình độ kỹ thuật, có sức khỏe
vẫn bị thất nghiệp. Ngồi ra, chương trình đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động. Học sinh học lý thuyết nhiều, nhưng khả năng vận dụng thực tiễn rất
yếu. Học sinh chuyên các ngành khoa học cơ bản không được khuyến khích nên thiếu
hụt nghiêm trọng. Như vậy, nguồn lực năng động nhất, cũng là lợi thế phát triển quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam đang bị lãng phí rất lớn, khó phục
vụ hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế, năng suất lao động của Việt Nam hiện rất
thấp so với các nước trong khu vực
Cơ cấu GDP và LĐ Việt Nam 2005(%)
Ngành

Tổng số

NN

CN

DV

GDP

100

20,5

41,0

38,5




100

56,8

17,9

25,3

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố
số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do nguồn lao
động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác,
do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nơng thơn cịn cao

THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

15


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

2.2.3. Vai trò của TFP
Để đánh giá tăng hiệu quả của việc sử dụng các yếu tố nguồn lực của sản xuất,
chúng ta tiến hành tính tốn năng suất của từng yếu tố nguồn lực, bên cạnh đó khi
nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế, ngoài việc nâng cao năng suất của các yếu
tố đó cịn làm tăng năng suất chung do hiệu quả của việc kết hợp các yếu tố nguồn lực
(như quản lý, công nghệ,… gọi chung là các nhân tố tổng hợp).

Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (năng suất các nhân tố tổng hợp
viết tắt tiếng anh là TFP) là tỷ lệ tăng lên của kết quả sản xuất do nâng cao năng suất
tổng hợp chung (năng suất tính chung cho cả vốn và lao động).
Đây là chỉ tiêu phản ánh đích thực và khái quát nhất hiệu quả sử dụng nguồn
lực sản xuất, làm căn cứ quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng cũng như tính
chất phát triển bền vững của kinh tế, là cơ sở để phân tích hiệu quả sản xuất xã hội,
đánh giá sự tiến bộ khoa học công nghệ của một ngành, một địa phương hay mỗi quốc
gia
Theo tính tốn ban đầu, ở Việt Nam hiện nay tốc độ tăng trưởng do các yếu tố
đầu vào cụ thể như sau: Số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số
lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%. Như vậy nếu tính
cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao
động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng
trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng
đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay.
Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng
trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát
triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao: TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở
nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông
tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR.
Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các
chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số
ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau:
Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều
so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G


16


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung
Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995);
cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995).
Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp
Hiệu quả đầu tư cịn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng
năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/vốn đầu tư (có nghĩa là 1
đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua
các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 cịn 3,0
đồng/đồng, 2001-2005 cịn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 cịn 2,46 đồng/đồng.
Năng suất lao động của tồn nền kinh tế thấp (năm 2007) mới đạt 25.886.000
đồng/người, của nhóm ngành nơng, lâm nghiệp - thuỷ sản cịn đạt thấp hơn chỉ có
9.607.000 đồng/người, ngay cả nhóm ngành cơng nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới
đạt 55.072.000 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159.000
đồng/người. (quy ra USD các số liệu tương ứng: khoảng 1.600 USD, 600 USD, 3.438
USD, và 2.385 USD).
Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (trên
14.600 USD), cịn thấp hơn cả mức bình qn đầu người của thế giới (khoảng 6.500
USD/người). Với năng suất thấp như trên thì giá trị thặng dư cịn đang rất nhỏ nhoi.
Dưới đây đi sâu tính tốn và phân tích tốc độ tăng TFP của công nghiệp Việt
Nam từ năm 1991 đến 2003 (xem bảng 2).
Bảng 2: Tính tốn tốc độ tăng TFP của công nghiệp Việt Nam
Tốc độ tăng (%)


Năm

GTTT TSCĐ

Hệ số đóng góp

Lao

Của

động

TSCĐ

Của
lao
động

Tốc độ tăng GTTT
do tăng
TSCĐ

LĐ đóng

đóng góp

góp

Tốc độ


Tăng TFP

i

iy

ik

iL

a

b

a ik

biL

iTFP

A

1

2

3

4


5

6=4x2

7=5x3

8=1-(6+7)

1991

12,96

12,28

-0,13

0,550

0,450

6,75

-0,06

6,27

1992

17,61


10,61

-0,49

0,548

0,452

5,81

-0,22

12,01

1993

14,20

12,92

3,72

0,547

0,453

7,07

1,69


5,45

1994

13,20

15,17

2,22

0,532

0,468

8,07

1,04

4,09

THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

17


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC


1995

13,02

17,18

7,56

0,520

0,480

8,94

3,63

0,46

1996

13,49

18,29

2,95

0,531

0,469


9,71

1,38

2,39

1997

12,69

17,47

2,26

0,528

0,472

9,22

1,07

2,39

1998

9,73

13,35


3,99

0,524

0,476

7,00

1,90

0,83

1999

8,99

12,53

6,17

0,525

0,475

6,58

2,93

-0,53


2000

13,78

10,90

11,83

0,520

0,480

5,67

5,68

2,43

2001

16,72

15,83

11,39

0,517

0,483


8,19

5,50

3,03

2002

13,77

13,94

12,24

0,511

0,489

7,12

5,98

0,67

2003

13,44

12,91


11,38

0,511

0,489

6,60

5,56

1,28

B/q 91-03

13,33

14,08

5,68

0,528

0,472

7,44

2,68

3,21


Với kết quả tính tốn tốc độ tăng TFP cũng như tốc độ tăng GTTT do tăng
TSCĐ và tăng lao động của cơng nghiệp trên đây có thể tính tốn tỷ phần đóng góp
của nó đối với tốc độ tăng giá trị tăng thêm của từng năm và bình quân giữa các năm
giai đoạn 1991-2003 (như bảng 3).
Bảng 3: Tỷ phần đóng góp của tốc độ tăng các nhân tố đến tốc độ tăng GTTT
Tỷ phần đóng góp trong kết quả tăng lên của GTTT
Tốc độ tăng
Năm

GTTT

Do tăng TSCĐ và LĐ
Chia ra do
Tổng số
Tăng LĐ
tăng TSCĐ

Tăng TFP

A

1

2 = 3+4

3

4

5


1991

12,96

51,65

51,11

-0,46

48,35

1992

17,61

31,78

33,02

-1,25

68,22

1993

14,20

61,64


49,76

11,87

38,36

1994

13,20

69,03

61,16

7,88

30,97

1995

13,02

96,49

68,61

27,88

3,51


1996

13,49

82,27

72,00

10,27

17,73

1997

12,69

81,12

72,70

8,42

18,88

1998

9,73

91,43


71,92

19,50

8,57

1999

8,99

105,87

72,23

32,64

-5,87

2000

13,78

82,36

41,14

41,22

17,64


THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

18


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

2001

16,72

81,87

48,97

32,90

18,13

2002

13,77

95,16

51,71


43,45

4,84

2003

13,44

90,48

49,09

41,40

9,52

B/q 91-03

13,33

75,90

55,77

20,12

24,10

Qua số liệu tính tốn được của các bảng 2 và 3 ta nhận thấy:
Công nghiệp Việt Nam từ năm 1991 đến 2003 có TFP ở phần lớn các năm tăng

lên (12 năm tăng và 1 năm giảm) song tăng không đều và tăng còn thấp. Năm 1992
tăng cao nhất (12,01%), tiếp đến năm 1991 (6,27%) và năm 1993 (5,45%), các năm
1995, 1998 và 2002 tăng ở mức dưới 1% (từ 0,46% đến 0,83%). Riêng năm 1999 tốc
độ tăng TFP giảm 0,53%. Tuy nhiên TFP của cơng nghiệp nên tính bình quân chung
giữa các năm thời kỳ 1991-2003 thì vẫn tăng (3,21%).
Xét theo xu thế tăng thì từ năm 1991-1997 TFP tăng khá hơn, đến năm 1998
giảm đi và đặc biệt thấp ở năm 1999, từ năm 2000-2003 TFP bắt đầu tăng lên nhưng
vẫn thấp hơn tốc độ tăng giai đoạn 1991-1997, và do vậy tốc độ tăng bình quân năm
thời kỳ 1996-2003 thấp hơn mức bình quân chung cả thời kỳ 1991-2003 (1,62% so
với 3,31%).
Xét về cơ cấu đóng góp đối với tốc độ tăng của giá trị tăng thêm ta thấy những
năm từ 1991 đến 1997 (trừ 1995) tăng TFP đóng góp khá lớn (từ 17,73% đến
68,22%). Năm 1998 đến 1999 đóng góp ít hơn (riêng năm 1999 đóng góp “âm”). Và
đến những năm 2000 trở đi tỷ lệ đóng góp có cao hơn nhưng vẫn kém những năm đầu.
Khi tính bình qn năm thời kỳ 1991-2003 của cơng nghiệp tăng do TFP có
mức đóng góp 24,10%; đứng vị trí thứ 2 sau mức đóng góp của tăng TSCĐ (55,77%)
và ở vị trí cuối cùng là mức đóng góp của tăng lao động (20,12%).
Có thể nói rằng trong hơn chục năm qua sản xuất của công nghiệp Việt Nam có
phần lớn các năm có tốc độ tăng GTTT đạt trên 10%. Duy có 2 năm 1998 và 1999 chỉ
tiêu này đạt 9,73% và 8,99% (do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu
vực) và cũng chính là 2 năm có TFP thấp. Riêng năm 1999 TFP giảm 0,53%. Trên cơ
sở tính tốn và phân tích tốc độ tăng TFP cho thấy tốc độ tăng trưởng về giá trị tăng
thêm trên đây của công nghiệp chủ yếu vẫn là do mở rộng quy mô sản xuất bằng cách
đầu tư thêm vốn tức là để làm tăng giá trị TSCĐ. Tác động của các yếu tố đổi mới sản
xuất, nâng cao trình độ khoa học cơng nghệ, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng
lao động, v.v... (các nhân tố chất lượng) có làm tăng TFP, tức là góp phần làm tăng giá
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

19



ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

trị tăng thêm, nhưng cịn ở mức khiêm tốn. Điều đó cũng có nghĩa chất lượng tăng
trưởng trong cơng nghiệp tuy đã có tiến bộ, song cũng cịn hạn chế. Việc đầu tư trong
sản xuất cơng nghiệp cịn nặng về đầu tư theo chiều rộng hơn là chú ý đến đầu tư theo
chiều sâu.
So với mức đạt được chung của nền kinh tế quốc dân, tốc độ tăng trong công
nghiệp cao hơn (3,21% so với 1,71%). Tuy nhiên, về cơ cấu đóng góp vào mức tăng
lên của kết quả sản xuất (giá trị tăng thêm đối với công nghiệp và GDP đối với nền
KTQD) thì tỷ phần tương đương nhau (24,10% so với 22,97%). Đồng thời có xu thế
biến động của tốc độ tăng TFP qua các năm cũng tương tự như nhau

2.3. Một số đánh giá việc sử dụng của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam hiện nay
Qua việc phân tích kể trên chúng ta có thể khẳng định rằng thêm một lần nữa,
nền kinh tế nước ta còn phát triển theo chiều rộng, hiệu quả sức canh tranh thấp, xuất
khẩu khó. Tuy nguồn vốn đầu tư tăng lên nhưng hiệu quả sử dụng vốn vẫn chưa cao:
Năm 2007, một đồng vốn đầu tư đã tạo ra được 2,48 đồng GDP, cao hơn các số
liệu tương ứng trong ba năm trước (năm 2004 là 2,46 đồng, năm 2005 là 2,45 đồng,
đến năm 2006 là 2,44 đồng), nhưng lại thấp hơn của các năm từ 2003 trở về trước
(năm 2003 là 2,56 đồng, năm 2002 là 2,68 đồng, năm 2001 là 2,82 đồng, năm 1999 là
3,05 đồng, năm 1998 là 3,08 đồng, năm 1995 là 3,16 đồng...).
Năm 2007, để tăng 1 đồng GDP phải tốn 2,72 đồng vốn đầu tư, thấp hơn 8 năm
trước đó, nhưng lại cao hơn các năm từ 1998 trở về trước. Nếu năm 2008 cũng vậy, để
tăng 208 nghìn tỷ đồng GDP theo dự kiến thì phải đầu tư tới 566 nghìn tỷ đồng, tăng
tới 22,5% so với năm trước. Vì vậy, cần phải tăng hiệu quả đầu tư lên, chẳng hạn để
tăng 1 đồng GDP chỉ cần đầu tư 2,60 đồng vốn, thì lượng vốn đầu tư cần có khoảng

541 nghìn tỷ đồng, tốn ít hơn nhiều so với mức 566 nghìn tỷ đồng ở trên.
Về nguồn lao động: Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng
yếu. Theo tính tốn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Việt Nam mới có
khoảng hơn 20% lực lượng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp trở lên tuy nhiên còn số
lao động đã qua đào tạo cũng khơng hồn tồn giỏi nghề. Trên thực tế, chưa có con số
thống kê chính xác về bao nhiêu phần trăm lao động đáp ứng được yêu cầu sử dụng.
Hiện chất lượng lao động Việt Nam còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Chính vì vậy,
năng suất của lao động VN kém lao động các nước trong khu vực ASEAN từ 2 đến 15
lần
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

20


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

Xem xét tốc độ tăng GDP và sự biến động của tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư trong
GDP cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam từ đầu thập niên 1990 gắn
liền với việc gia tăng mạnh mẽ của tỷ lệ tiết kiệm trong nước và đầu tư trong GDP.
Nếu như trong thời kỳ 1986 – 1990 tỷ lệ tiết kiệm trong nước và đầu tư thấp, chỉ lần
lượt là 2,4% và 12,6%, thì tốc độ tăng trưởng cũng chỉ đạt 4,3 %. Trong khi đó giai
đoạn 1991 – 1995 khi tỷ lệ tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư lên tới 14,7% và
22,3% thì tốc độ tăng GDP tăng mạnh lên tới 8,2%. Trong giai đoạn 1996 – 2000 tỷ lệ
tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư trong GDP đã đạt 25,9 % và 33,2 % tốc độ tăng
GDP giảm nhẹ xuống còn gần 7%. Đặc biệt trong giai đoạn 2001 – 2007 tỷ lệ tiết
kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng mạnh lên đến 32,1 % và 38,8 % thì
tốc độ tăng GDP là 7,62%. Sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1998 đến 2003
một phần là do cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực và do cơ chế chính sách

ngày càng khơng theo kịp với tình hình mới làm cho hiệu quả của vốn đầu tư giảm sút
nhanh, dẫn đến tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng nhanh trong khi tốc độ tăng GDP vẫn
chưa được phục hồi so với thời kỳ trước khủng hoảng.
Mặc dù đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng trong gian đoạn
1990 - 2007, nhưng tăng trưởng của Việt Nam những năm qua chủ yếu dựa vào những
nhân tố theo chiều rộng. Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện thể hiện qua sự
tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm, từ
4,28% thời kỳ 1992-1997 lên 22,6% thời kỳ 1998-2002 và 28,2% giai đoạn 2003 đến
nay, tuy nhiên, tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,73% và do yếu tố lao động
chiếm 19,07%; tức cả hai yếu tố này còn chiếm gần 3/4 tổng cả ba yếu tố tác động đến
tăng trưởng.

THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

21


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

So sánh với các nước trong khu vực thì tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng
hàng năm của Việt Nam còn thấp hơn nhiều, tỷ lệ này của Thái Lan là 35%, của
Philippin là 41%, của Indonesia là 43%.
Nguồn lực tăng trưởng của một số nước Đông Nam Á giai đoạn 1960 - 1994 (%)
Tên nước

Tốc độ tăng

Đóng góp của


trưởng GDP
Vốn vật chất

Vốn con người

TFP

Hàn Quốc

5,7

3,3

0,8

1,5

Singapore

5,4

3,4

0,4

1,5

Đài loan


5,8

3,1

0,6

2,0

Indonesia

3,4

2,1

0,5

0,8

MaLaysia

3,8

2,3

0,5

0,9

Thái Lan


5,0

2,7

0,4

1,8

- 1992 - 1997

8,8

6,1

1,4

1,3

- 1998 - 2007

6,44

3,7

1,29

1,44

Việt Nam:


Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cho thấy
vốn vẫn là động lực cơ bản cho tăng trưởng, đặc biệt là vốn nước ngoài. Do vậy sự
phát triển này là kém tính bền vững, phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực sẽ đặt các
nước đang phát triển như Việt Nam trước những nguy cơ tiềm tàng về suy thối kinh
tế khi nguồn vốn nước ngồi bị suy giảm. Vì vậy trong tương lai nước ta cần xem xét
điều chỉnh cơ cấu tác động của các yếu tố nguồn lực cho phù hợp.

THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

22


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN
LỰC TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
Để nền kinh tế Việt nam tiếp tục tăng trưởng cao và bên vững trong thời gian
tới, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp, trong đó có giải pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế.
Cốt lõi của vấn đề đó là giải quyết tăng trưởng kinh tế phải trên nền tảng coi
trọng chất lượng. Theo đó trong dài hạn cần từ bỏ quan điểm phải đạt được tốc độ
tăng trưởng nhanh theo mơ hình tăng trưởng theo chiều rộng, tăng trưởng nhờ tăng
vốn đầu tư, khai thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động mà chuyển dần sang mơ
hình tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Trước hết là đầu tư cho khoa học công
nghệ nhằm nâng cao trình độ khoa học cơng nghệ, nâng cao năng suất lao động và

hiệu quả sử dụng vốn.
Vì vậy, những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực để tăng trưởng kinh
tế trong thời gian tới là:

1/ Sử dụng hiệu quả nguồn vốn.
1.1. Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngồi:
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền
kinh tế Việt Nam được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh
doanh. Cần tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các
ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
Đa dạng hố hình thức và cơ chế đầu tư để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà
đầu tư nước ngoài, gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp, vào các ngành, các lĩnh vực
quan trọng của nền kinh tế, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.
Cần hoàn thiện luật pháp và chính sách, sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa
rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh, thực hiện các biện pháp thúc đẩy
giải ngân, không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, tác động xấu đến môi
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

23


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

trường, thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất... Về quy hoạch, hồn chỉnh quy
hoạch sử dụng đất, cơng bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ giải
phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
Về cải thiện cơ sở hạ tầng, sẽ tiến hành tổng rà sốt, điều chỉnh, phê duyệt và

cơng bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng.
Về giải phóng mặt bằng, UBND các tỉnh, thành phố cần chỉ đạo các cơ quan
chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư
đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai, hoặc chưa có kế hoạch sử dụng
hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn.
1.2. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư công:
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một trong những biện pháp cực kỳ
quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao một cách bền vững. Nhiều chuyên
gia trong lĩnh vực xây dựng, kinh tế xây dựng khi thảo luận về hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư nhà nước trong hội thảo do Tổng hội Xây dựng tổ chức ngày 4-12 tại Hà Nội
đều có chung quan điểm là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước hiện nay vẫn chưa
cao, đầu tư dàn trải đi kèm với tình trạng thất thốt vốn là một trong những lãng phí
lớn nhất.
Một trong những giải pháp cơ bản là Nhà nước cần phải tiếp tục giảm thiểu qui
mô khu vực thuộc Nhà nước, chỉ đầu tư vào những lĩnh vực tư nhân không được làm
hoặc không muốn làm, cịn những lĩnh vực nào tư nhân có thể làm tốt hơn thì cần phải
khuyến khích. Thúc đẩy cổ phần hóa tổng cơng ty, tập đồn kinh tế lớn cùng với đẩy
mạnh tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp
nhà nước.
Cần huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. đa dạng hố các hình
thức thu hút vốn đầu tư và loại hình đầu tư tận dụng tốt nội lực để xây dựng cơ sở hạ
tầng giao thông, năng lượng, thông tin, đầu tư cơ sở hạ tầng nơng thơn. Phát triển
mạnh và quản lý các hình thức đầu tư gián tiếp để đa dạng hoá nguồn đầu tư gắn với
việc áp dụng những công cụ quản lý có hiệu quả, bảo đảm an tồn và ổn định kinh tế
vĩ mô.Nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, tránh đầu tư
tràn lan, chồng chéo vào các dự án không mang lại hiệu quả.
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

24



ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN SAU ĐẠI HỌC

2. Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực.
2.1. Đối với khu vực hành chính nhà nước (HCNN).
Mặc dù phải có những thay đổi để theo kịp thay đổi của xã hội, việc quản lý lao
động khu vực này vẫn phải tn thủ mơ hình hành chính, nhằm đạt mục tiêu, chức
năng của cơ quan công quyền, đồng thời tạo động lực làm việc cho công chức. Muốn
vậy, cần có một số giải pháp sau :
Chuyển dần mơ hình quản lý mang tính hướng nội, khép kín sang mơ hình mở,
có nhiều sự trao đổi hơn với TTLĐ (thị trường lao động); Từng bước sử dụng chế độ
hợp đồng lao động đối với công chức theo chức danh; Phân định rõ và có qui chế quản
lý đối với mỗi loại cơng chức; Hồn thiện chế độ tuyển dụng công chức; Thực hiện
qui hoạch đào tạo cán bộ, công chức đang giữ vai trò quyết định trong bộ máy Nhà
nước; Thay đổi cơ bản chế độ chính sách lương và các chế độ đãi ngộ khác để mức
thu nhập công khai của công chức phải ở mức khá của xã hội; Đổi mới, nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức HCNN.
2.2. Đối với khu vực sự nghiệp.
Do đặc thù của khu vực này, tập trung vào chun mơn, nghề nghiệp, nên có
khác so với khu vực HCNN. Khu vực này có một số loại hình tổ chức vì lợi nhuận
như những doanh nghiệp, cịn lại đại bộ phận là các cơ sở sự nghiệp hoạt động phi lợi
nhuận, vì thế cần phải có giải pháp cụ thể sau :
Xây dựng kế hoạch dài hạn và kế hoạch cụ thể phát triển và quản lý NNL
(nguồn nhân lực) theo mục tiêu của đất nước; Cải cách quản lý lao động theo chế độ
hợp đồng lao động thay cho chế độ biên chế suốt đời như hiện nay; Phân phối thu
nhập theo trách nhiệm và theo kết quả lao động; Cải cách tích cực chế độ tiền lương
sao cho mức lương của cán bộ nghiên cứu có năng lực sáng tạo phải cao hơn các khu

vực khác; Đổi mới phong cách lãnh đạo cán bộ quản lý: mở rộng dân chủ, có chế độ
tuyển dụng cơng khai cho các chức danh, hình thành hệ thống thơng tin thông suốt,
hiệu quả. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, có qui trình cụ thể, khách quan để
đánh giá con người và NNL
2.3. Đối với khu vực SX – KD.
a. ở cấp vĩ mô : Gắn kết giữa qui hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước,
vùng, địa phương với qui hoạch phát triển NNL, đặc biệt là kế hoạch đào tạo nhằm
THAO LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN - NHÓM 5 LỚP G

25


×