Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN bồi dưỡng t̀nh yêu thơ ca cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.02 KB, 20 trang )

1

I/TÊN ĐỀ TÀI:
BỒI DƯỠNG TÌNH YÊU THƠ CA CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
II/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ngày nay, trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện hóa đất nước, hầu hết học
sinh lơ là trong việc học văn chương, theo xu hướng của xã hội là trọng tâm xây
dựng và phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy ở một số địa phương, học sinh từ
Tiểu học đã rầm rập đầu tư vào các chương trình học thêm vi tính, ngoại ngữ và
những phân môn trực tiếp áp dụng vào các nghành khoa học cơng nghệ. Thơ ca
nói riêng và văn chương nói chung đang đứng bên bờ vực thẳm. Trong thực tế
cho thấy sách thơ không được yêu chuộng. Người đọc thơ ngày càng khan hiếm.
Nhà thơ phải làm thêm nhiều khác mới có thể ổn định được cuộc sống. Điều này
là nguy cơ dẫn đến cuộc sồng ngày càng mất đi chất thơ từ đó có thể dẫn đến cạn
kiệt về tâm hồn mà chỉ biết sống quan trọng về vật chất.
Thơ ca là lời hay ý đẹp, là nghệ thuật của ngơn từ và cũng chính là nghệ
thuật của cuộc sống. Là những người yêu thơ ca, ai cũng tha thiết mong mình có
được nghệ thuật sử dụng trong ngôn từ, trong giao tiếp để tạo ra được những lời
hay ý đẹp khi giao tiếp hoặc ngay từ khi mới bắt đầu cầm bút. Đó chính là cái
đích để hướng tới. Để đạt được cái đích ấy khơng thể tự nhiên mà có được, yêu
thơ, hiểu thơ, làm được thơ hay là cả một quá trình rèn luyện lâu dài trong cuộc
sống của người yêu thơ ca nói riêng và u văn chương nói chung, bằng tất cả
tình u của mình. Đối với học sinh có năng khiếu về thơ ca, điều ấy lại càng đòi
hỏi cao hơn. Bởi chính các em đã có những kiến thức ban đầu, nó là cơ sở, là
điểm xuất phát khởi đầu, giúp các em biến những hiểu biết của mình thành
những con người có tài năng kiệt xuất nhất. Kiến thức về thơ ca không giới hạn,
ngôn từ không bao giờ cạn, người học cứ thế mà lớn lên trong tâm hồn, trong tư
duy, trong tình cảm, trong ứng xử cuộc sống.
Theo “ Chiến lược con người” mà Đảng đã vạch ra đường lối và định hướng
rất đúng đắn là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, nhà
trường của chúng ta hướng đến phát triển tối đa những năng lực tiềm ẩn trong


mỗi học sinh. Ở trường Tiểu học đồng hành với nhiệm vụ phổ cập Tiểu học, việc
chăm lo phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu để trở thành học
sinh giỏi góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước, được xem là nhiệm vụ cần thiết
và quan trọng.
Hệ thống giáo dục phổ thông của Việt Nam bắt đầu từ cấp Tiểu học, đều
sử dụng Tiếng Việt làm ngơn ngữ chính thức, trong đó hàm lượng thơ ca chiếm
trong các các phân mơn Tiếng Việt là khơng nhỏ. Bất kì ở phân mơn Tiếng Việt
nào, Tập đọc, Luyện từ và Câu, Chính tả… ta cũng đều gặp mặt sự hiện diện của


2

thơ ca. So với văn xi thì thơ ca dễ gây cảm xúc, dễ thấm sâu , nhớ lâu, lắng
đọng trong lịng người đọc hơn.
Bồi dưỡng tình u thơ ca là bồi dưỡng năng khiếu Tiếng Việt. Đó chính
là bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, yêu con người lao động, yêu thiên
nhiên, góp phần bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ mơi trường sống…từ đó mà học sinh
càng thêm yêu Tiếng Việt của mình.
Bồi dưỡng tình yêu thơ ca khơng đơn thuần chỉ là biết thơ ca mà cịn hiểu
rõ hơn cách dùng từ, nghệ thuật ngôn từ, cách bắt nhịp trong thơ, nắm được các
thể thơ thường gặp, nắm được âm điệu, màu sắc, tính tư duy trừu tượng, ca ngợi
cái hay cái đẹp, phê phán thói hư tật xấu của cuộc sống.
Mục đích sâu sắc hơn là làm cho mỗi học sinh sống phải có hồn, phải có
cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống, cũng như biết ứng xử hay trong giao tiếp,
biết bày tỏ quan điểm của mình trước xã hội.
Chính vì những lý do trên mà tôi quyết định chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm cho năm học : 2014- 2015 là: “ Bồi dưỡng tình yêu thơ ca cho học sinh
Tiểu học”.
III/ CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Thơ ca phải bám sát vào cuộc sống thì mới tồn tại và mới lơi cuốn được

người đọc . Cái hay nhất của thơ ca là phải lột tả được những điều đáng khen và
đáng chê trong lòng dân tộc, từ đó giúp cho xã hội và con người cần phải làm gì
và làm như thế nào để tiến đến hoàn thiện, Điều này gọi là vốn sống. Vốn sống
và vốn thơ ca nói riêng hay văn chương nói chung cũng có nhiều điểm tương
đồng. Vốn sống khơng nhất thiết biểu lộ bằng lời mà đa phần biểu lộ qua sự nhận
biết về tri thức và kiến thức trong mỗi con người còn vốn thơ ca là vốn của nghệ
thuật ngôn từ, nghệ thuật hành văn. Một phần của vốn sống có sự hiện diện của
vốn thơ ca.
Mục tiêu của việc bồi dưỡng tình yêu thơ ca trong nhà trường Tiểu học
không phải là để tạo ra các nhà thơ, nhà ngôn ngữ học mặc dầu trong thực tế,
trong số học sinh có năng khiếu về thơ ca, văn chương sẽ có những em trở thành
những tài năng văn học và ngơn ngữ học. Mục đích chính của việc làm này là bồi
dưỡng lẽ sống, tâm hồn và khả năng tư duy năng lực ngôn ngữ cảm thụ văn học
cho học sinh góp phần hình thành con người Việt Nam hiện đại. Sống có văn
hóa, có đạo đức biết ứng xử tốt đẹp trong giao tiếp.
IV/ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Từ khi dạy Tiểu học đến nay đã 20 năm nghề tôi thường xuyên phát hiện học
sinh rất yêu thơ ca nhưng rất ngại học văn . Tại sao vậy? Vì lý do văn chương


3

nói một cách tổng thể là khó học hơn các mơn học khác nếu học sinh khơng có
năng khiếu. Cịn đối với những em có năng khiếu thì có phần đỡ hơn nhưng vẫn
ngại ngùng, khó khăn khi làm bài tập làm văn,
Nếu hỏi: Các em các có u thích các bài thơ trong sách này khơng? Thì
100% trả lời có. Nhưng nếu hỏi các em có u thích học văn khơng thì đa số im
lặng.
Qua khảo sát đầu năm tơi có bảng số liệu thống kê như sau:
Lớp

Tổng số Thích
Thích
Làm Đọc
Chuyển Vận dụng
học sinh thơ ca
học văn được diễn
được
vào bài tập
Nói
các
cảm
thơ
Luyện từ
chung
bài

sang
và Câu và
tập
hiểu
văn
Tập làm
về
nhanh xi
văn.
thơ
được
nội
dung
thơ

5/2
23
23
5
10
10
15
17
Chắc ai cũng hiểu việc học văn thật là rộng và cô đọng của việc học văn làm
được bài tập làm văn, mà đa số học sinh làm bài tập làm văn lại không đạt yêu
cầu. đây là một vấn đề nan giải và trách nhiệm của thầy cơ giáo chúng ta phải
biết tìm ra phương pháp dạy học phù hợp hơn. Với tôi thì chọn một điểm để dẫn
dắt làm lan tỏa ra tổng thể. Nên tôi chọn cách hãy tạo cho học sinh yêu thích thơ
ca rồi từ thơ ca dẫn dắt các em yêu thích văn chương, làm được bài văn. Nó cũng
chẳng khó khăn gì khi chuyển thể thơ ca thành văn xi rồi hình thành kĩ năng
làm Tập làm văn. Dù là thơ ca hay văn xi thì tất cả chúng đều nằm trên một
con đường đó là con đường đi tìm ngơn ngữ nói , đọc và viết, ngơn ngữ nói, đọc
và viết có được thì dù là văn hay thơ cũng đều có thể làm được khi ta nắm được
cấu tạo của bài.
V/ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
A/ NẮM VỮNG CÁC NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC:
1. Nắm vững các nguyên tắc dạy học tiếng Việt thông qua thơ ca:
+ Nguyên tắc phát triển lời nói ( Nguyên tắc giao tiếp, nguyên tắc thực hành)
+ Nguyên tắc phát triển tư duy.


4

+ Nguyên tắc chú ý đến đặc điểm tâm sinh lí và trình độ tiếng mẹ đẻ của học
sinh.

2. Các phương pháp thường sử dụng trong việc dạy bồi dưỡng tình u
thơ ca:
+ Phương pháp phân tích ngơn ngữ.
+ Phương pháp rèn luyện theo mẫu.
+ Phương pháp giao tiếp.
Chú trọng trong đề tài này là:
+ Sự chi phối nguyên tắc giao tiếp, nguyên tắc tích hợp đến nội dung và phương
pháp dạy học hình thành kĩ năng cảm nhận, đọc hiểu thơ ca.
+ Vận dụng sử dụng các phương pháp đặc trưng ( Luyện phát âm giọng điệu thơ
theo mẫu , phân tích nhịp thơ, đọc diễn cảm thơ, học thuộc lòng đoạn thơ hay…)
hướng dẫn học sinh các bài tập về thơ như đã nêu trên qua việc phân tích mục
tiêu, cơ sở ngơn ngữ và thiết kế bài tập.
3. Thực hiện giao tiếp, ứng dụng vào việc dạy các dạng thơ:
+ Vận dụng kĩ năng quan sát, kĩ năng xây dựng hệ thống câu hỏi, tìm ý trong dạy
học các bài tập rèn luyện về thơ. Hướng dẫn thực hành một số kiểu bài tập có
liên quan đến thơ, bài tập nói, đọc diễn cảm thơ, bài tập chuyển thơ sang văn bản
văn xi.
+ Đặc trưng của tính giao tiếp thể hiện qua một số đoạn thơ diễn bằng lời như
qua thơ chuyển thành văn, qua thơ kể lại câu chuyện ( VD: Nàng tiên ốc lớp 4).
B/ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Để đạt được nội dung và mục tiêu bồi dưỡng tình yêu thơ ca cho học sinh
giúp các em học giỏi môn Tiếng Việt cần đặt ra những nhiệm vụ và nội dung cơ
bản sau đây:
1. Phát hiện những học sinh có tình u thơ ca trong giờ học:
Chương trình tiếng việt khơng dạy riêng mơn thơ ca và cách làm bài thơ. Thơ
ca chỉ được lồng vào các bài dạy trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và Câu,
Chính tả…
Để phát hiện học sinh có khả năng ham thích thơ ca ta phải tìm ra những
biểu hiện của học sinh qua các bài dạy. Các em có lịng say mê thơ ca, có hứng
thú với nhịp điệu thơ, giọng điệu thơ, các em ham đọc thuộc lòng những bài thơ,



5

ghi chép những câu thơ hay, các em có những phẩm chất tư duy cần cho sự phát
triển năng lực đọc hiểu bài thơ. Đây là những phẩm chất tư duy có tính thống
nhất nhưng khơng đồng nhất, tư duy phân loại, phân tích, trừu tượng hóa, khái
qt hóa… rất có khả năng học tốt thơ ca dẫn đến học giỏi văn.
Năng lực tư duy của thơ ca thể hện ở năng lực quan sát hay nhận xét liên
tưởng một sự vật hoặc một vấn đề nào đó. Như Trần Đăng Khoa khi nhìn cây
dừa đã liên tưởng: “ Tàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh. Ai mang nước ngọt
nước lành. Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa”…Có khả năng tư duy nghệ thuật
cũng có nghĩa là khi tiếp cận thơ ca phải biết tiếp nhận khác so với logich thơng
tục của đời thường. Đó là khả năng nghe được, đọc được những gì bí ẩn dưới
những chuổi âm thanh, ẩn dưới các dịng chữ. Ví dụ: Những em học sinh có năng
lực khi đọc hai câu thơ: “ Con xót lịng mẹ hái trái bưởi đào. Con nhạt miệng có
canh tơm nấu khế”. ( Mẹ- Bằng Việt TV 4 tập II). Sẽ hiểu được rằng hai câu thơ
này đã nói một cách đầy hình ảnh, cụ thể vừa khái quát hóa một điều: Mẹ lúc nào
cũng sẵn sàng chăm sóc con . Lo lắng cho con , sẵn sàng làm tất cả những gì con
cần. Trong khi đó, một số em khác khơng có khả năng tư duy nghệ thuật, chỉ biết
hiểu một cách “thật thà”, theo lối thường, không hiểu được nội dung hai câu thơ
này lại thắc mắc tại sao lại xót lịng cho ăn bưởi? Như thế thì mẹ chỉ làm cho con
xót lịng thêm. Từ đó cho thấy học sinh có khả năng tiếp nhận ngôn từ, cách diễn
đạt của thơ ca, biết phát hiện những tín hiệu nghệ thuật ngơn từ và đánh giá được
chúng trong việc biểu lộ nội dung qua sự hiểu nói viết học thuộc và nhớ nhanh
những câu thơ, đoạn thơ hay cả bài thơ. Để phát hiện học sinh có năng lực thơ ca
nói riêng hay văn chương nói chung cần có sự điều tra bằng các phép đo nhằm
khảo sát, tìm hiểu về hứng thú, khả năng tư duy và ngôn ngữ của các em. Để tìm
hiểu và cần phải theo dõi chặt chẽ khi trẻ đọc thơ, người giáo viên có nhiệm vụ
theo dõi để nắm quá trình học tập của trẻ, phát hiện những biểu hiện đáng chú ý

về tình yêu thơ ca của trẻ, tìm hiểu hứng thú qua bài tập đọc là thơ, hay các bài
tập tìm từ, tìm nghệ thuật so sánh nhân hóa trong bài thơ… để có phương pháp
bồi dưỡng cho trẻ.
2. Bồi dưỡng hứng thú thơ ca cho học sinh:
Hứng thú có vai trị quan trọng trong học tập và làm việc, khơng có việc gì
người ta khơng làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. Cũng nói : “ Thiên tài
nảy nở từ tình yêu đối với cơng việc” ( M.Gorki). Vì vậy, bồi dưỡng hứng thú
học tập rất quan trọng. Hứng thú không tự nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu
khơng được duy trì cũng có thể bị mất đi. Khơng có con đường nào khác để làm
nảy sinh và duy trì hứng thú của học sinh với tình u thơ ca ngồi cách giúp các
em thấy được vẻ đẹp và khả năng kì diệu của thơ ca . Từng giờ, từng phút trong
bài giảng thơ ca, người GV đều hướng đến hình thành và duy trì hứng thú cho


6

học sinh. Ví dụ: Chúng ta đã học rất nhiều bài thơ viết về mẹ. “ Bao tháng bao
năm mẹ bế con trên đôi tay mềm mại ấy”( Lớp 1). “ Mẹ là ngọn gió của con suốt
đời” ( Lớp 2). Hôm nay chúng ta lại học một bài thơ có tựa đề “Mẹ” của nhà thơ
Bằng Việt. các em cùng thầy xem bài “Mẹ” này có khác gì với những bài về mẹ
các em đã học. Khơng có cách gì tạo hứng thú thơ ca cho trẻ ngồi con đường
cho trẻ tiếp xúc trực tiếp, càng nhiều càng tốt các tác phẩm thơ, những thể loại
thơ hay ngôn ngữ mẫu mực vì: “ Khơng làm thân với văn thơ thì khơng nghe
thấy được tiếng lịng chân thật của nó.” ( Lê Trí Viễn). Hứng thú với thơ ca cịn
được tạo ra bằng cách kể cho các em nghe về cuộc đời riêng của các nhà thơ nổi
tiếng và nếu có thể các em gặp trực tiếp họ, tổ chức các cuộc nói chuyện thơ
cũng như các hình thức ngoại khóa Tiếng Việt khác.
3. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh thông qua thơ ca.
Giáo viên cần tổ chức đọc diễn cảm trong giờ dạy học thơ, nói chuyện về
nhà thơ, thi đọc diễn cảm, học thuộc lòng các đoạn , bài thơ. Vốn sống cũng

được bồi dưỡng một cách gián tiếp qua sách vở bởi những kinh nghiệm của đời
sống, những thành tựu văn học, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ
trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại trong sách vở.
Nếu khơng chịu học, chịu đọc thì học sinh khơng thể tiếp thu được nền văn minh
của lồi người. Đọc nhiều các em sẽ được tăng khả năng giao tiếp lên nhiều lần,
từ đây các em biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ của
tự nhiên, xã hội , biết giao tiếp với thế giới nội tâm của người khác, hiểu được tư
tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc tác phẩm thơ ca, các em không
chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà cịn rung động tình cảm, nảy nở những ước
mơ tốt đẹp, được khơi dạy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như
được bồi dưỡng tâm hồn: Qua bài “mẹ ốm” cậu bé đã làm rất nhiều việc: “ Mẹ
vui con có quản gì. Ngâm thơ, kể chuyện rồi thì hát ca. Mình con diễn kịch giữa
nhà. Một mình con đóng cả ba vai chèo”. Đó chính là tự học, học nữa, học mãi.
Giáo viên cần xây dựng hứng thú với thói quen đọc thơ, học thuộc lịng bài thơ,
tìm hiểu nội dung ý nghĩa của bài thơ. Từ đó tạo cho học sinh vốn sống, tầm
nhìn, hiểu rộng hơn, giúp các em có khả năng phát triển sức sáng tạo… Giáo
viên cần giáo dục cho các em: Kiên trì chịu khó, khơng chỉ học để giải trí, mà
đọc có suy nghĩ, liên hệ, rút ra những bài học bổ ích.
4. Bồi dưỡng kiến thức kĩ năng Tiếng Việt thông qua thơ ca:
Đây là việc làm hết sức quang trọng nhằm nâng cao trình độ Tiếng Việt cho
học sinh. Thông qua các việc làm cụ thể là:


7

a/ Bồi dưỡng kiến thức kĩ năng về từ ngữ:
Được chú trọng ngay từ khi học sinh mới và lớp 1, từ mức độ đơn giản đến
phức tạp hơn.
Ở lớp Một việc học thơ bắt đầu từ việc nghe thầy cô đọc và việc quan tâm
thường xuyên của bố mẹ ở nhà thơng qua lời nói, cử chỉ, hành động và việc làm

đã hình thành cho các em sự hào hứng trong việc học thơ. Từ đây các em dễ
dàng cảm nhận thơ ca một cách nhanh nhẹn.
Ví dụ: Qua bài Đi học ( Tiếng việt 1 – Tập 2 – Trang 130)
“ Hôm qua em tới trường
Mẹ dắt tay từng bước
Hơm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp
…………………..
Hương rừng thơm đồi vắng
Nước suối trong thầm thì
Cọ xịe ơ che nắng
Râm mát đường em đi”
(Minh Chính)
Nếu hỏi ngày hơm qua em đi học và ngày hôm nay em đi học có gì khác
nhau?
Nhiều học sinh có năng khiếu thơ ca sẽ nhanh chóng trả lời là: Hơm qua đi
học có mẹ dắt tay đi, cịn hơm nay thì em đi một mình vì hơm nay mẹ bận lên
nương. ( Sự quan tâm của bố mẹ và những gì em nhìn thấy là ở đó). Ngồi điều
bé thuộc nhanh bài thơ, qua thơ còn cho bé lớn hơn lên về tâm hồn và nhận thức
( Từ chỗ mẹ dắt tay, đến tự đi học. Khi tự đi thì sẽ hiểu có mẹ bé vui như thế
nào? Tình cảm u thương mẹ được nảy sinh trong tâm hồn bé.). Có thể củng cố
từ ngữ qua việc tìm từ có vần ương ( Trường, đường…)
Hay
Ví dụ: Qua bài Câu đố ( Tiếng Việt 1- Tập 2 – Trang 155)
“ Nhỏ như cái kẹo
Dẻo như bánh giầy
Ở đâu mực giây
Có em là sạch.”
( Đố là cái gì?)
Ruột dài từ mũi đến chân

Mũi mịn ruột cũng dần dần mịn theo.
( Đố là cái gì?)


8

Khi giáo viên chưa kịp mở sách thì chắc hẳn các em đã thuộc rồi. Từ đây
cho thấy bé yêu thơ như thế nào? Từ đây từ ngữ : Cục tẩy, cây bút được khắc
sâu qua câu đố.
Ở lớp Hai việc bồi dưỡng tình yêu thơ ca bắt đầu được nâng dần lên qua
những dạng bài tập về thơ. Dựa vào thơ các em được hình thành kĩ năng viết và
sát lỗi chính tả.
Ví dụ: Bài tập 2: Điền vào chỗ trống: l hay n: ( Tiếng việt 2 – tập 2 – Trang122)
“Một cây …àm chẳng …ên non
Ba cây chụm lại …ên hòn …úi cao
Nhiễu điều phủ …ấy giá gương
Người trong một …ước phải thương nhau cùng.”
Từ ngữ được củng cố là: Làm, nên, núi, lấy, nước.
Ở lớp Ba thì mức độ cao hơn ban đầu hình thành từ kiến thức thơ sang
kiến thức văn xuôi bằng cách làm cách nối thành câu đơn giản. Hay tìm biện
pháp nhân hóa, so sánh.
Ví dụ: Qua bài : Em thương ( Tiếng việt 3 tập 2 – Trang 74)
“Em thương làn gió mồ cơi
Khơng tìm thấy bạn, vào ngồi trong cây
Em thương sợ nắng đông gầy
Run run ngã giữa vườn cây cải ngồng.”
Em thấy làn gió và sợi nắng trong bài giống ai? Hãy nối A và B cho thích hợp?

Làn gió
giống như một người bạn ngồi trong vườn cây

Sợi nắng
giống một người gầy yếu
Giáo viên cần giống một bạn nhỏ mồ cơi
cho học sinh
nhận thấy tình cảm u thương sâu sắc của tác giả với các bạn nhỏ mồ côi cha
mẹ. Từ đây từ: “Ngọn gió mộ cơi, sợi nắng đơng gầy” được khắc sâu kiến thức.
Cịn ở lớp 4 lớp 5 thì mức độ khó hơn, địi hỏi học sinh phải tập trung suy
nghĩ, phải tư duy và trừu tượng.
Phần bồi dưỡng thơ ca trọng tâm trong đề tài này là tập trung ở lớp 4 và 5 vì
ở lớp 4,5 học sinh đã học được rất nhiều kiến thức như: Nhân hóa, so sánh ,
nghĩa đen, nghĩa bóng, từ đồng âm, tượng thanh, tượng hình… rất phù hợp trong
việc bồi dưỡng tình u thơ ca cho các em.
Ví dụ: Trong các từ của câu thơ:
“ Dân dâng một quả xơi đầy
Bánh chưng mấy cặp bánh giầy mấy đơi”
Có những từ nào là từ ghép và những từ ghép đó thuộc từ ghép loại gì?


9

Với những yêu cầu này, trước khi phân loại từ theo cấu tạo. Học sinh phải
vạch được đúng ranh giới từ. Ở ví dụ trên nếu học sinh được mỗi tổ hợp quả xôi,
bánh giầy, bánh chưng là một từ thì sẽ khơng xếp chúng vào từ ghép để phân loại
tiếp mà cho đó là hai từ đơn. Vì vậy, lúc này vấn đề mấu chốt lại là vấn đề phân
cắt các đơn vị từ.
Ví dụ: xác định danh từ, tính từ, động từ trong hai câu thơ sau của Bác Hồ.
“ Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”
Hướng dẫn:
Danh từ: Rừng, Việt Bắc, vượn, chim, ngày.

Động từ: Hót, kêu
Tính từ: Thật, hay
Có thể hướng dẫn học sinh phân loại từ đồng âm khác nghĩa trong bài dạy
luyện từ và câu ở lớp 4.
Ví dụ: Trong các câu thơ sau đây của Bác Hồ nghĩa của từ “Xn” in đậm có gì
khác nhau.
+ Xn này kháng chiến đã năm xuân
+ Sáu mươi tuổi hãy cịn xn chán
So với ơng Bành vẫn thiếu niên.
+ Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.
Hướng dẫn:
Trong câu thơ “ Xuân này kháng chiến đã năm xuân”, xuân ở đầu chỉ mùa
xuân, xuân phía sau chỉ 5 năm.
Trong câu: “ sáu mươi tuổi hãy cịn xn chán”, Xn có nghĩa là trẻ trung,
đầy sức sống.
Trong câu: “ Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”, xuân chỉ sự tươi đẹp,
đầy triển vọng.
Hoặc có thể cho học sinh tìm ra nghĩa bóng trong đoạn thơ sau:
“ Cái chai khơng đầu
Mà sao có cổ
Bảo rằng ngọn gió
Thì gốc ở đâu?
Răng của chiếc cào
Làm sao nhai được
Mũi thuyền rẽ nước
Thì ngửi cái gì
Cái ấm khơng nghe
Tai sao mọc được
Ở trong chiếc bút



10

Lại có ruột gà
Trong mũi người ta
Có ngay lá mía”.
Hướng dẫn: trong đoạn thơ của Quang Huy, các từ sau được dùng với
nghĩa bóng: Cổ ( Chai), ngọn (gió), răng (cào), mũi (thuyền), tai (ấm), ruột gà
(của cây bút máy), lá mía ( trong mũi).
Trong bài dạy về từ loại là tính từ ta có thể dùng đoạn thơ sau để cho học
sinh tìm.
Ví dụ:
“ Việt Nam đẹp khắp trăm miền
Bốn mùa một sắc trời riêng đất này
Xóm làng, đồng ruộng, rừng cây
Non cao gió dựng, sơng đầy nắng chang
Sum sê xoài biết cam vàng
Dừa nghiêng, câu thẳng, hàng hàng nắng soi”
Hướng dẫn: các tính từ đó là: Đẹp, sắc, cao, biếc, vàng, nghiêng, thẳng.
b/ Bồi dưỡng nghệ thuật ngôn từ:
Qua thơ ca các nghệ thuật nhân hóa, so sánh hay từ tượng thanh, tượng hình,
điệp ngữ được sử dụng một cách rõ nét vì vậy trong mỗi bài dạy người giáo viên
cần dùng thơ ca để cung cấp tình u nghệ thuật ngơn từ cho học sinh.
Ví dụ: Trong bài Cô giáo lớp em ( Tiếng việt 2, tập 1), nhà thơ Nguyễn Xn
Sanh có viết:
“ Cơ dạy em tập viết
Gió đưa thoảng hương nhài
Nắng ghé vào cửa lớp
Xem chúng em học bài”

Em hãy cho biết khổ thơ trên đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nổi bật ?
Biện pháp nghệ thuật đó giúp em thấy được điều gì đẹp đẻ của các bạn học sinh?
Hướng dẫn: Nhân hóa: (Đưa, ghé, xem.)
Điệp ngữ được sử dụng trong thơ ca thường để nhấn mạnh hoặc nêu toát lên
được vấn đề.
Ví dụ: Trong bài thơ: Hạt gạo làng ta ( TV5, tập 2) nhà thơ Trần Đăng Khoa
có viết:
“ Hạt gạo làng ta
Có bảo tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ


11

Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy.”
Hãy nêu rõ tác dụng của điệp ngữ và hình ảnh đối lập được sử dụng trong
đoạn thơ trên?
Hướng dẫn: Đoạn thơ được sử dụng điệp ngữ “có” nhằm nhấn mạnh khó khăn
của thiên nhiên, sử dụng hình ảnh đối lập “Cua ngoi lên bờ” nhưng “Mẹ em
xuống cấy”, nhằm gợi tả hình ảnh lao động vất vả của mẹ. Đồng thời nhấn mạnh
giá trị to lớn của hạt gạo được làm ra. Phép so sánh và nhân hóa được thể hiện
trong thơ ca là cho bài thơ trở nên hay, hấp dẫn lôi cuốn người đọc. Vì vậy trong
bài dạy thơ ca, đặc biệt là những bài thơ có sử dung nghệ thuật so sánh, nhân hóa
người giáo viên cần tổ chức cho học sinh tìm tịi khám phá nét hay nét đẹp trong
bài thơ ấy.
VD: Trong bài thơ: “ Cây dừa” của nhà thơ Trần Đăng Khoa ( Tiếng Việt 2,

tập 1) có đoạn:
“ Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh…”
Theo em phép so sánh và nhân hóa được thể hiện trong những từ ngữ nào ở
đoạn thơ trên? Thử phân tích cái hay của phép nhân hóa và so sánh được sử dụng
trong đoạn thơ trên.?
Hướng dẫn: Phép nhân hóa được thể hiện trong các từ ngữ: Dang tay đón
gió, gật đầu gọi trăng. Các từ ngữ này có tác dụng làm cho vật vơ tri là cây dừa
cũng có những biểu hiện tình cảm như con người. Dừa cũng mở rộng vịng tay
đón gió, cũng gật đầu mời gọi trăng lên. Qua cách nói nhân hóa, cảnh vật trở nên
sống động, có đường nét hình khối, có sức gợi tả, gợi cảm cao. Phép so sánh
được thể hiện trong các từ ngữ : Quả dừa ( Giống như) đàn lợn con, tàu dừa
(Giống như) chiếc lược. Cách so sánh ở đây bất ngờ, thú vị thể hiện sự liên
tưởng, tưởng tượng phong phú của tác giả. Cách so sánh này cũng có tác dụng
làm cho cảnh vật trở nên sống động, có đường nét, hình khối, có sức gợi tả gợi
cảm cao.
Hay:
“ Đêm đêm tiếng thập tiếng thình
Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non”
Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì trong câu thơ : “ Đêm đêm tiếng thập,
tiếng thình”. Nói rõ cái hay của biện pháp nghệ thuật ấy. Câu: “Cối gạo đầy cả
nghĩa tình nước non”. Ý nói gì?
Hướng dẫn: Trong câu thơ: “Đêm đêm tiếng thậm tiếng thình.”, tác giả tác giả sử
dụng biện pháp nghệ thuật chơi chữ. Cụ thể thậm thình vừa là những tiếng tượng



12

thanh gợi tả tiếng chày giã gạo vọng lại từ thời vua Hùng, lại vừa là hai tiếng
trong địa danh Thậm Thình thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. ( Tục
truyền nơi đây vua Hùng dựng lầu và đặt kho lúa).
Câu thơ: “ Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non” diễn tả ý: Lòng dân ta tha
thiết yêu nước. Theo lời phán bảo của vua Hùng, nhân dân đã dựng lều giã gạo,
ngày đêm giã gạo và hình ảnh “Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non” là tượng
trưng cho tấm lịng, tình cảm của người dân đối với đất nước, với vua Hùng.
Hay: trong bài Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy ( TV5, Tập 1) có đoạn:
“ Bảo bùng thân bọc lấy thân
Tay ơm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hởi người.”
Trong đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng cách nói gì để ca ngợi phẩm chất tốt
đẹp của tre: Sự đùm bọc, đoàn kết, cách nói này hay chỗ nào?
Hướng dẫn: Trong đoạn thơ này tác giả đã sử dụng cách nói nhân hóa để nói
về những phẩm chất tốt đẹp của tre, sự đùm bọc, đồn kết. Nhân hóa ở đây là
gán cho tre những đặc tính của người: Những thân tre bao bọc, che chở cho
nhau, tay ơm tay níu nhau quấn quýt, họ hàng nhà tre sống quay quần, ấm cúng
bên nhau.
Cách nói nhân hóa làm cho cảnh vật rở nên sống động. Những cây tre như
những sinh thể mang hồn người. Cách nói này giúp tác giả thể hiện được hai
tầng nghĩa, vừa nói được những phẩm chất tốt đẹp của cây tre Việt Nam, lại vừa
nói được những phẩm chất, những truyền thống tốt đẹp, cao đẹp của con người
Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
c/ Bồi dưỡng nét đẹp và sự hình thành vốn sống cho học sinh.
Qua thơ ca người giáo viên cần cho học sinh phát hiện vẻ đẹp trong thơ từ
vẻ đẹp đó góp phần hình thành vốn sống cho học sinh.
Ví dụ: trong bài Dừa ơi ( TV5, tập 1) nhà thơ Lê Anh Xuân có viết:

“ Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
Như dân làng bám chặt quê hương”
Em hãy cho biết hình ảnh cây dừa trong đoạn thơ trên nói lên những điều gì
đẹp đẽ về người dân miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ?
Hướng dẫn: Nêu được những điều đẹp đẽ về người dân miền Nam trong
kháng chiến chống Mĩ ( Qua hình ảnh cây dừa trong đoạn thơ)
Câu: “Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút” có ý ca ngợi phẩm chất kiên cường,
anh dũng, hiên ngang, tự hào trong chiến đấu.


13

Câu “Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng”, ý nói phẩm chất vô cùng trong sáng,
thủy chung, dịu dàng, đẹp đẽ trong cuôc sống.
Các câu: “Rễ dừa bám sâu vào lịng đất- Như dân làng bám chặt q hương”.
Ý nói phẩm chất kiên cường bám trụ, gắn bó chặt chẻ với mảnh đất quê hương
miền Nam.
Bồi dưỡng vẻ đẹp và vốn sống cho học sinh thông qua thơ ca bắt nguồn từ
nhiều khía cạnh có thể là một trong những sự việc rất gần gũi mật thiết xung
quanh cuộc sống của các em, từ đó tác động trực tiếp vào tâm trí của học sinh.
Ví Dụ: Trong bài Nghe thầy đọc thơ (Tv 4, tập 1) nhà thơ Trần Đăng Khoa
viết;
“ Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghe vọng sông xa
Êm êm như tiếng của bà năm xưa
Nghe trăng thở động tàu dừa”
Theo em cuộc sống quanh ta được gợi lên như thế nào trong tâm trí cậu học

trị khi nghe thầy giáo đọc thơ?
Hướng dẫn: Cuộc sống quanh ta được hiện lên trong tâm trí cậu học trị bao
gồm:
-Các hình ảnh: Nắng chói chang, cây cối xanh tươi
-Các âm thanh: Tiếng mái chèo quẫy nước, khua nước vọng lại từ một dịng sơng
hiện về trong kí ức; tiếng ru à ơi của bà ru cháu trong những năm tháng cậu học
trò cịn thơ bé, tiếng tàu dừa cựa mình dưới ánh nắng khuya.
Cuộc sống được gợi lên, gợi ra có sự kết nối quá khứ và hiện tại.
Hay: Trong bài thơ: Đàn bê trên đồng cỏ hồng hơn của Nguyễn Đức Mậu có
đoạn:
“ Đàn bị trên đồng cỏ xanh xanh
Gặm cả hồng hơn, gặm buổi chiều sót lại”
Đọc hai dịng thơ trên, em thấy có gì mới lạ, có gì hay không?
Hướng dẫn: Cái mới lạ đồng thời cái hay của hai dịng thơ chủ yếu được biểu
hiện ở cách nói gặm cả hồng hơn, gặm buổi chiều sót lại. Cảnh thực mà nhà thơ
miêu tả ở đây là: Chiều muộn, hồng hơn bng xuống, nhưng đàn bị vẫn mãi
miết gặm cỏ, nói cách khác đàn bị gặm cỏ trong cảnh hồng hơn, cảnh chiều
muộn. Cảnh thực đó được tái hiện qua sự tưởng tượng của nhà thơ. Ở đây đàn bị
khơng chỉ gặm cỏ mà gặm cả hồng hơn đang trùm lên đồng cỏ. Gặm cả những
tia nắng cuối cùng cịn sót lại trên đồng cỏ, cảnh vật hịa quyện vào nhau thật thơ
mộng.
Qua thơ ca người giáo viên cần giáo dục cho trẻ biết thể hiện những việc
làm cụ thể để giúp đỡ gia đình đồng thời phải biết thể hiện những tình cảm yêu
thương cũng như trách nhiệm của bản thân đối với người thân.


14

Ví dụ: Qua bài thơ: Quạt cho bà ngủ của nhà thơ Thạch Quỳ( TV2, tập 1) có
đoạn:

“ Bàn tay bé nhỏ
Vẫy quạt thật đều
Ngẩn nắng thiu thiu
Đậu trên tường trắng
Căn nhà đã vắng
Cốc chén nằm im
Đôi mắt lim dim
Ngủ ngon bà nhé.”
Trong hai khổ thơ trên , mọi vật được nói tới có nét chung gì? Tình cảm
của người cháu thương bà được thể hiện như thế nào?
Hướng dẫn: Mọi vật được được nói tới trong hai khổ thơ có nét chung là: Dưới
hơi mát nhè nhẹ từ bàn tay vẫy quạt của cô bé, mọi vật xung quanh dường như
cũng buồn ngủ lây ( Nắng thiu thiu, căn nhà vắng, cốc chắn nằm im…)
Tình cảm của người cháu thương bà được thể hiện rất rõ nét, qua một số
chi tiết: Cô bé ngồi quạt rất lâu để cho bà ngủ, vì bà đang ốm mệt, đang cần yên
tỉnh. Cơ bé dường như dồn tình thương u đối với bà vào trong bàn tay vẫy quạt
rất đều đặn, rất kiên trì của mình.
Vốn sống của học sinh phải được gắn kết với những sự vật xung quanh
cuộc sống của các em như con sơng, hàng tre… Để từ đó giáo viên giáo dục sự
thân thiện của con người với môi trường sống, giáo dục cho học sinh biết cách
bảo vệ mơi trường, thể hiện tình u q hương, đất nước.
Ví dụ: Mở đầu bài thơ : Nhớ con sơng quê hương, nhà thơ Tế Hanh viết:
“ Quê hương tôi có con sơng xanh biếc
Nước gương soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lịng sơng lấp lống”.
Đoạn thơ trên có những hình ảnh nào đẹp? Những hình ảnh ấy giúp em cảm
nhận điều gì?
Hướng dẫn: Nêu được hai hình ảnh đẹp:
+ Hình ảnh con sơng xanh biếc có nước trong như mặt gương để những hàng tre

soi bóng.
+ Hình ảnh lịng sơng lấp loáng phản chiếu ánh nắng trưa hè.
Nêu được cảm nhận qua hai hình ảnh trên:
Con sơng q hương có vẻ đẹp quyến rũ lịng người. Tình u q hương
tha thiết của tác giả.
4. Bồi dưỡng cách chuyển từ đoạn thơ, bài thơ sang văn xuôi.


15

( Đây là việc làm quan trọng trong việc hình thành kĩ năng viết văn của học
sinh cũng là kết quả cuối cùng của việc học thơ).
Giáo viên cần tổ chức dạy học phù hợp từ nói sang viết theo sơ đồ sau: Đọc
bài thơ, đoạn thơ – Diễn tả bài thơ, đoạn thơ bằng lời – viết lại bằng văn xuôi
cho đầy đủ ý của bài, kết hợp với kĩ năng sử dụng từ ngữ.
Để làm tốt được điều này người giáo viên cần đàm thoại xẻ nhỏ bài thơ thành
các câu hỏi nhỏ cho học sinh trả lời bằng miệng rồi viết lại bằng văn xi.
Ví Dụ: tập làm văn:
“ Chiều kéo lên một mảng trời màu biển
Mây trắng giăng, bao con sóng vỗ bờ
Diều no gió những cánh buồm hiển hiện
Biển bên trời ,em bé bỗng reo to”.
Em hãy viết một đoạn văn ( Khoảng 5-10 dòng) tả trời chiều theo ý đoạn thơ
trên?
Hướng dẫn: Để làm được việt này giáo viên cần:
1/ Lập hệ thống câu hỏi nhỏ, tổ chức trả lời bằng văn xuôi các câu có đầy đủ chủ
ngữ, vị ngữ.
- Trời chiều được tả ở đâu?
- Cảnh đó được tả trực tiếp hay gián tiếp?
- Trời xanh như cái gì? Lớp mây trắng như thế nào?

- Cánh diều được tả như thế nào?
- Người ta so sánh cảnh bầu trời với cảnh gì?
- Em thấy cảnh đó như thế nào?
- Bày tỏ tình cảm của em trước cảnh đó?
2/ Hệ thống câu trả lời thành đoạn văn có đầy đủ ý nghĩa của đoạn văn tả cảnh.
Hướng dẫn: Cảnh trời chiều ở một làng ven biển thật là đẹp đẽ và thơ mộng. Trời
thì trong xanh như màu nước biển. Lớp lớp mây trắng trơi bồng bềnh trên bầu
trời như từng đợt sóng vỗ bờ trên mặt biển. Những cánh diều no gió đang lơ
lững, chao lượn trên bầu trời trông giống như những cánh buồm trên biển cả…
Khung cảnh bầu trời làm ta liên tưởng tới khung cảnh của biển cả. Trước mắt ta
bầu trời như một cảnh biển ở trên cao. Một cảnh tượng thật là đẹp và thú vị đã
gợi lên cho người xem một sự liên tưởng phong phú bất ngờ. Em yêu biển, yêu
trời, yêu nước Việt Nam ta n bình và no ấm.
Hay:
“ Hơm nay, sáng mồng hai tháng chín
Thủ đơ hoa, vàng nắng Ba Đình
Mn triệu tim chờ… chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!
…Người đứng trên đài lặng phút giây


16

Trơng đàn con đó vẫy hai tay
Cao cao vầng trán ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây.”
( Theo chân Bác- Tố Hữu)
Dựa vào nội dung bài thơ và trí tưởng tượng của mình. Em hãy viết một
đoạn văn tả lại quang cảnh Quảng trường Ba Đình, Hà Nội trong ngày Bác Hồ

kính yêu lần đầu tiên xuất hiện trước đông đảo quần chúng nhân dân đọc Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam (2-9-1945).
Như vậy vấn đề ra đề ở đây giáo viên đã ghi đầy đủ gợi ý như câu hỏi, dựa
vào đó học sinh đọc câu hỏi mà làm bài không cần phải lập hệ thống câu hỏi mất
thời gian.
Hướng dẫn: Dưới trời thu trong xanh, nắng thu vàng óng ánh quảng trường
Ba Đình ngập tràn cờ hoa, với một biển người đến dự mít tinh, đang hồi hộp, náo
nức đón chào giây phút thiêng liêng: Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cả biển người cùng hơ vang Hồ Chí
Minh Mn Năm! Khi thấy Bác Hồ cùng Chính Phủ bước ra lễ đài.
Đứng trên lễ đài Bác Hồ rất cảm động chứng kiến cảnh tượng hàng vạn
người đại diện cho đồng bào cả nước đang khao khát độc lập, tự do đã tụ hội về
đây để chứng kiến sự ra đời của nước Việt Nam độc lập.
Hay:
Qua bài : Trước cỗng trời TV 5 tập 1 trang 80.
“Nhìn ra xa ngút ngát
Bao sắc màu cỏ hoa
Con thác réo ngân nga
Đàn dê soi đấy suối
Giữa ngút ngàn cây trái
Dọc vùng rừng nguyên sơ
Không biết thực hay mơ
Ráng chiều như hơi khói.
Những vạt nương màu mật
Lúa chín ngập lịng thung
Và tiếng nhạt ngựa rung
Suốt triền rừng hoang dã
Người Tày đi khắp ngả
Đi gặt lúa trồng rau
Những người Giáy người Dao

Đi tìm măng, hái nấm
Vạt áo chàm thấp thống
Nhuộm xanh cả nắng chiều
Và gió thổi suối reo


17

Ấm giữa rừng hoang giá.”
( Trước cổng trời TV 5 tập 1 trang 80)
Tả lại vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ?
Câu hỏi gợi mở để HS viết được đoạn ăn xi:
- Tác giả nhìn từ đâu để viết bài thơ này?
- Những hình ảnh nào được tả trong bài thơ?
- Không gian nơi đây gợi cho em cảm giác gì?
Gợi ý: Từ cổng trời nhìn ra, qua màn sương khói huyền ảo có thể thấy một
khoảng không gian mênh mông, bất tận, những cánh rừng ngút ngát ngàn cây trái
và muôn vàn sắc màu cỏ hoa, những vạt nương, những lịng thung lúa đã chín
vàng màu mật đọng, khoảng trời bồng bềnh mây trơi, gió thoảng. xa xa kia là
thác nước trắng xóa đổ xuống từ trên núi cao, vang vọng, ngân nga như khúc
nhạc của đất trời. Bên dòng suối mát uốn lượn dưới chân núi, đàn dê thong dong
soi bóng mình xuống đáy nước. Khơng gian nơi đây gợi vẻ ngun sơ, bình n
như thể hàng ngàn năm nay vẫn như vậy, khiến ta có cảm giác như được bước
vào cõi mơ.
5. Bồi dưỡng kĩ năng đọc diễn cảm, học thuộc lòng đoạn thơ, bài thơ.
Giáo viên cần tạo hứng thú cực đỉnh trong dạy có nội dung thơ ca bằng cách
đọc diễn cảm thể hiện rõ nét trầm, lắng, biểu cảm, diễn cảm, nhịp điệu của thơ.
Tính hùng hồn, khí phách của thơ. Đỉnh cao hơn nữa là giáo viên trực tiếp ngâm
thơ trong phần củng cố bài dạy để lột tả hết khả năng cảm thụ thơ ca cho học
sinh. Trước hết giáo viên cần ngâm mẫu rồi tổ chức cho học sinh ngâm theo

( Điều này khơng áp đặt). Bình chọn bạn có giọng đọc thơ hay, thể hiện đầy đủ
tình cảm, tư tưởng qua lời đọc.
VI/ Kết quả nghiên cứu:
Qua một măn trời xây dựng đề tài và thực hiện bồi dưỡng cho học sinh tình
yêu thơ ca qua hàng loạt các dạng bài tập khác nhau trong SGK, cùng với việc tổ
chức thi đọc hay, thi đọc diễn cảm, ngâm thơ, hát thơ, học thuộc lịng thơ…tơi
nhận thấy việc dạy thơ thật hấp dẫn và lôi cuốn học sinh, học sinh yêu thơ đó
cũng đồng nghĩa với việc đưa các em vào tình yêu quê hương đất nước, yêu con
người lao động và biết quý trọng thành quả lao động , từ đây góp phần hình
thành nhân cách cho học sinh, biết sống đẹp và khát vọng vươn tới những gì đẹp
đẽ nhất trong cuộc sống.
Kết quả khảo sát lần 2 như sau ( Bám sát theo thông tư 30, khảo sát bằng
nhận xét khả năng phát triển của học sinh và kết quả là:
Qua khảo sát lần 2 tơi có bảng số liệu thống kê như sau:


18

Lớp

Tổng số Thích
học sinh thơ ca

Thích
học văn

5/2

23


20

23

Làm được các Chuyển Vận dụng
bài tập về thơ được
ngôn ngữ
thơ
vào bài tập
sang
làm
văn,
văn
Luyện từ
xuôi
và Câu.
23
20
23

VII/Kết luận:
Sự thành công trong việc giảng dạy là phụ thuộc vào mức độ áp dụng các
phương pháp dạy học của giáo viên, bồi dưỡng tình yêu thơ ca là nhằm phát triển
tư duy ngôn ngữ và niềm say mê, u thích Tiếng Việt. Có thể nói, bồi dưỡng
tình u thơ ca với tư cách là dạy một kỹ năng về sử dụng ngơn ngữ. Trong q
trình dạy, người giáo viên cần phải giáo dục cho học sinh biết yêu Tiếng Việt
bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh,
sự phong phú về ngữ điệu của Tiếng Việt thông qua sức truyền thụ của mình và
tự thảo luận nhóm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong các bài tập
dạng thơ.

Việc bồi dưỡng tình yêu thơ ca cho học sinh trong trường Tiểu học là
việc làm cần thiết và cấp bách, các trường phải có định hướng về kế hoạch
để tạo tiền đề, cơ sở vững chắc cho việc học văn ở những lớp trên.
VIII/ Đề xuất kiến nghị:
-Cần làm thêm sách thơ như hệ thống các bài thơ từ lớp 1 đến lớp 5 cho học sinh
tiểu học làm cẩm nan.
-Cần tổ chức cho học sinh thi viết thơ hoặc tổ chức làm báo tường ca ngợi quê
hương đất nước, ca ngợi cuộc sống ấm no, biểu lộ tình u thầy cơ giáo có giải
thưởng cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh…
-Tổ chức thi giao lưu thơ ca cho HS dân tộc ,đọc diễn cảm thơ, ngâm thơ trong
nhà trường tiểu học, cấp huyện, tỉnh…
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm : “ Bồi dưỡng tình yêu thơ ca cho học sinh
tiểu học” mà tôi đã xây dựng nên, chắc sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong bạn đọc gần xa chân thành góp ý để xây dựng đề tài được hoàn chỉnh
hơn. Lời chân thành cảm ơn sâu sắc.
Xã Ba ngày 27 tháng 3 năm 2015


19

LÊ MINH PHÀN
IX/ Phụ Lục: ( Bỏ Qua)

X/ Tài liệu tham khảo:
STT Tên tài liệu
1
Sách
Tiếng
Việt (Tập 1,2)
các

lớp
1,2,3,4,5
2
Sách
Tiếng
Việt
Seqap
( Tập 1,2) các
lớp 1,2,3,4,5
3
Thông tư 30

XI/ Mục lục:

Tên tác giả
Nhà xuất bản
Năm xuất bản
Nguyễn Minh Nhà xuất bản giáo
Thuyết ( Chủ dục
biên)
Trần Mạnh Nhà xuất bản giáo 2011
hưởng ( Chủ dục
biên)
Đánh giá xếp Nhà xuất bản giáo 28/8/2014
loại học sinh dục
tiểu học


20


STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Tên tiêu đề
Tên đề tài
Đặt vấn đề
Cơ sở lí luận
Cơ sở thực tiển
Nội dung nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Kết luận
Kiến nghị
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
Mục lục

Trang
1
1-2
2

2-3
3- 16
16-17
17-18
17-18
19
19
20



×