Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

bài tập học kỳ luật hôn nhân gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80 KB, 9 trang )

BÀI TẬP HỌC KỲ LUẬT HƠN NHÂN GIA ĐÌNH
Đề 20. Phân tích và đánh giá các căn cứ ly hơn theo các trường hợp ly hôn trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014.
MỞ ĐẦU
Theo luật hơn nhân và gia đình 2014 kết hơn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ
chồng với nhau để chung sống và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc cịn ly hôn là
việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa
án. Có thể thấy, kết hơn là khởi đầu của hơn nhân cịn ly hơn là điểm cuối để kết thúc
hơn nhân. Khi cuộc sống gia đình giữa hai người khơng thể tiếp tục thì việc ly hơn là
cách tốt nhất cho cả hai, và những người có liên quan. Ly hơn cũng là cách để mỗi cá
nhân có thể tìm lại được một nửa kia của mình tốt hơn. Bằng những quy định của luật
hơn nhân và gia đình 2014 em xin chọn chủ đề ‘căn cứ ly hôn’ để phân tích làm rõ nội
dung vấn đề về chế định ly hôn.
NỘI DUNG
I.

Một số vấn đề về ly hôn và căn cứ ly hôn.

1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn.
a. Khái niệm ly hôn.
Hôn nhân được xác lập trên cơ sở tình u thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên,
trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn
sâu sắc đến mức họ khơng thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt ra để
giải phóng cho vợ, chồng và các thành viên khác thốt khỏi mâu thuẫn gia đình.
Vấn đề ly hơn được các quốc gia quy định khác nhau, một số nước theo đạo thiên chúa
họ cấm vợ chồng ly hôn, một số thì hạn chế ly hơn bằng những điều kiện nghiêm ngặt.
Như vậy cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn cũng đều xâm phạm đến quyền tự do dân chủ
của cá nhân. Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam cơng
nhận quyền tự do ly hơn chính đáng của vợ chồng, khơng cấm hoặc đặt ra những
những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của
vợ chồng, thể hiện ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn. Nhà nước bằng


pháp luật không thể cưỡng ép nam, nữ yêu nhau và kết hơn với nhau, thì cũng khơng
thể bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hơn nhân khi
tình cảm u thương gắn bó giữa họ đã hết và mục đích của hơn nhân đã không thể đạt
được, việc ly hôn là tất yếu xảy ra. Tuy nhiên, ly hôn dẫn đến sự ly tán gia đình, vợ,

1


chồng, con cái vì vậy khi giải quyết ly hơn cần đảm bảo quyền lợi của các thành viên
trong gia đình; nhà nước hay những người có liên quan. Có thể thấy ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án
(khoản 14 điều 3 luật hơn nhân và gia đình 2014).
b. Khái niệm căn cứ ly hơn.
Hơn nhân là hiện tượng mang tính xã hội mang tính giai cấp sâu sắc, ở mỗi chế độ
khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nước bằng pháp luật quy định chế độ
hôn nhân phù hợp với lợi ích của giai cấp mình, nhà nước xác định những trường hợp
được phép kết hôn và những trường hợp được phép ly hôn. Nhà nước quy định những
căn cứ để được kết hôn và những điều kiện để được ly hơn, ý chí của các bên khơng
phải là điều kiện quyết định để phá bỏ hôn nhân mà việc kết hôn hay ly hôn dựa trên
các quy định của pháp luật. Việc quy định những căn cứ ly hôn phải phù hợp bản chất
sự việc với thực trạng của thực tế hôn nhân, và phải xác định trong điều kiện nào thì
hơn nhân chấm dứt. Tịa án đưa ra xét xử ly hôn chỉ là công nhận một thực tế khách
quan là cuộc hơn nhân đó khơng cịn tồn tại. Chính vì thế mà căn cứ ly hơn là rất khó
nó địi hỏi rất khoa học, phù hợp với bản chất đạo đức nhà nước Xã hội chủ nghĩa, phù
hợp với thuần phong mĩ tục, phù hợp với ý chí, nguyện vọng đơng đảo của nhân dân.
Do đó căn cứ ly hơn là những tình tiết hay điều kiện pháp lý do pháp luật quy định và
Tòa án dựa vào những điều kiện pháp lý đó cho phép vợ chồng ly hôn.
2. Cơ sở để căn cứ quyết định ly hơn.
Hệ thống pháp luật Hơn nhân và gia đình của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay đã quy
định căn cứ ly hơn ngày càng hồn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp lí để tịa án giải quyết

các vụ án ly hôn.
Căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin, quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng
và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng và quyền tự do
ly hôn theo đúng bản chất của một sự kiện: Đó là hơn nhân "đã chết", sự tồn tại của nó
chỉ là bề ngồi và lừa dối. Đúng vậy nó khơng phải ý chí của nhà lập pháp, cũng
khơng phải sự tùy tiện của các cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định
được cuộc sống hôn nhân này "đã chết" hay chưa. Nhà lập pháp chỉ có thể xác định
những điều kiện bản chất của mối quan hệ, theo đó những trường hợp nào về mặt pháp
lý hơn nhân được coi là sự tan vỡ nghĩa là về thực chất, hơn nhân tự nó đã phá vỡ và

2


việc Tịa án cho phép phá bỏ hơn nhân chỉ là việc ghi biên bản công nhận sự tan vỡ
bên trong của nó và chỉ khi nào hơn nhân xét về bản chất khơng cịn là hơn nhân nữa,
Tịa án mới được xử cho ly hôn.
Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng.
Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 26), Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986
(Điều 40), Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 89) và hiện nay là Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định căn cứ ly hôn theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam trước đây
không quy định những căn cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất,
dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Nhưng với Luật hơn nhân và gia
đình năm 2014 đã có sự lồng ghép quy định về căn cứ ly hơn vào quy định về thuận
tình ly hơn cũng như ly hôn theo yêu cầu của một bên. Như vậy, căn cứ ly hôn theo
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 của Nhà nước ta được quy định dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm trong
mấy chục năm qua, từ khi Nhà nước ban hành Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959.
II.


Căn cứ ly hơn theo luật hơn nhân và gia đình 2014.
1. Căn cứ ly hơn trong trường hợp thuận tình ly hơn.

Theo điều 55 luật hơn nhân và gia đình 2014 ‘Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu
cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia
tài sản, việc trông nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án cơng nhận thuận tình ly hơn; nếu
khơng thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng khơng bảo đảm quyền lợi chính
đáng của vợ và con thì Tịa án giải quyết việc ly hôn’. Việc giải quyết ly hôn cần dựa
trên những điều kiện nhất định và phải được tiến hành ở Tịa án, pháp luật quy định
thuận tình ly hôn là để đảm bảo tự do của hai bên vợ chồng. Thuận tình ly hơn là
trường hợp cả hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân được thể hiện bằng ‘đơn
thuận tình ly hơn’ của vợ chồng.
Tự nguyện ly hôn là cả hai vợ chồng đều tự do trình bày nguyện vọng ý chí khơng bị
cưỡng ép, khơng bị lừa dối trong việc thuận tình ly hơn. Việc thể hiện ý chí phải phù
hợp với quy định pháp luật và đạo đức xã hội, đồng thời cả hai bên phải nhận thức
được hậu quả của việc ly hơn. Thuận tình ly hơn, ngồi ý chí thật sự tự nguyện xin
thuận tình ly hơn của vợ chồng, địi hỏi hai vợ chồng cịn phải có sự thoả thuận về việc

3


chia tài sản, việc trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo
quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án giải quyết việc ly hơn. Điều đó cho thấy
pháp luật hơn nhân Việt Nam có xu hướng bảo vệ bà mẹ trẻ em thuộc thế yếu trong
quan hệ hơn nhân gia đình. Việc ghi nhận của pháp luật đối với vấn đề bảo vệ quyền
lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ và trẻ em khi vợ chồng ly hơn nó thể hiện tính
tiếp nối truyền thống của dân tộc.
Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau về việc vợ, chồng là người trực

tiếp nuôi con, cũng như nếu vợ, chồng có đủ cơ sở để chứng minh việc chồng, vợ
không đảm bảo được các quyền lợi của con (như điều kiện về ni dưỡng, chăm sóc,
giáo dục, đặc biệt là các điều kiện cần thiết cho sự phát triển về thể chất, học hành và
các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần của con) trong khi đó, vợ hoặc chồng
lại đáp ứng được đầy đủ được những điều kiện này, thì Tịa án có thể xem xét, quyết
định cho vợ hoặc chồng được quyền nuôi con.
Trong thực tế có nhiều trường hợp các bên giả tự nguyện ly hôn và giả thỏa thuận ly
hôn nhằm lừa dối cơ quan có thẩm quyền vì một mục đích nào đó. Việc ly hơn “để đạt
được mục đích khác mà khơng nhằm mục đích chấm dứt hơn nhân” xem là hành vi ly
hôn giả tạo và bị xử phạt hành chính. Khoản 15 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 có quy
định về khái niệm ly hơn giả tạo: “Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh
nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích
khác mà khơng nhằm mục đích chấm dứt hơn nhân”. Hiện tượng ly hơn giả tạo nhằm
mưu cầu lợi ích riêng họ tự nghĩ ra nhưng mâu thuẫn và lý do chính đáng nhưng trên
thực tế họ lại khơng mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa họ không hề có
mâu thuẫn. Nếu khơng điều tra kỹ thì Tịa án có thể kết luận là họ đã có đủ căn cứ để
cơng nhận thuận tình ly hơn. Trong những trường hợp này Tòa án cần xử bác đơn xin
thuận tình ly hơn của đương sự đồng thời nghiêm khắc phê phán, giáo dục đương sự
về những hành vi sai trái đó. Như vậy, vấn đề xác định căn cứ ly hôn là sự tự nguyện
và tự thỏa thuận của các bên rất khó để xác định sự tự nguyện thực sự. Bởi vậy, Tòa án
cần đưa ra các quyết định chính xác để bảo vệ quyền lợi của các bên tránh trương hợp
các bên thuận tình ly hơn giả nhằm mục đích như: Chuyển hộ khẩu, phụ cấp người ăn
theo, nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người
khác.
2. Ly hôn theo yêu cầu của một bên.

4


Là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một

trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Điều 56 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một
bên như sau: ‘Khi vợ hoặc chồng u cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng thành
thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực
gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hơn nhân
lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn
nhân khơng đạt được. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án tun bố
mất tích u cầu ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn. Trong trường hợp có u cầu
ly hơn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tịa án giải quyết cho ly
hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia’.
Như vậy, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tịa án cần dựa vào một trong các
căn cứ sau đây:
Thứ nhất: Trường hợp khi vợ hoặc chồng u cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng
thành thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo
lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hơn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hơn nhân khơng đạt được. Đầu tiên, khi có u cầu ly hơn của vợ, chồng, Tồ án phải
tiến hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải khơng thành thì Tồ án cần xác định tình
trạng của quan hệ hơn nhân, xem có căn cứ ly hơn không để giải quyết. Việc giải quyết
ly hôn cần phải chính xác, nếu xét thấy đúng, kết quả đó sẽ phù hợp với nguyện vọng
của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình. Ngược lại, nếu
việc giải quyết khơng chính xác sẽ dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, phá huỷ một
cuộc hơn nhân cịn có thể cứu vãn được và gây ra hậu quả khơng đáng có. Mặt khác,
giải quyết ly hơn cũng địi hỏi sự linh hoạt trong việc vận dụng căn cứ ly hôn đối với
mỗi trường hợp cụ thể. Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung điểm mới khi
cho ly hơn khi có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa
vụ của vợ, chồng. Có thể nói rằng, luật hiện nay quy định rất rõ “bạo lực gia đình” là
căn cứ để giải quyết cho ly hơn. Bởi qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly
hơn của Tồ án cho thấy số vụ ly hơn có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao

nhất trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ là

5


nạn nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và
thể hiện tính chất nghiêm trọng, có nhiều nguyên nhân khác nhau như: Do cuộc sống
vật chất q khó khăn, ghen tng, nghi ngờ ngoại tình nên đã đánh đập nhau, cờ bạc,
nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ chồng đánh đập, hành hạ nhau. Đa
phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình trạng vợ chồng ly hơn, có trường hợp dẫn đến
án mạng. Ngồi ra cịn một số vi phạm khác, mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời
sống vợ chồng... Là lý do để ly hôn thì luật cũng quy định rõ ràng phải có cơ sở nhận
định chung rằng tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích
hơn nhân khơng đạt được thì mới giải quyết cho ly hơn.
Có thể thấy rằng việc đưa ra những nguyên nhân của hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được để cụ
thể hóa căn cứ cho ly hơn “vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm
nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu
của một bên. Đây là một quy định rất tiến bộ mang ý nghĩa quan trọng nhằm cụ thể
hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền con người và bảo vệ quyền con người.
Thứ hai: Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích u cầu ly
hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn.
Tun bố một người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ thể
hồn tồn khơng biết tung tích, cũng khơng rõ cịn sống hay đã chết. Theo quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều 68 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Khi một người biệt tích 02 năm
liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn khơng có tin tức xác thực về việc
người đó cịn sống hay đã chết thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan,
Tịa án có thể tun bố người đó mất tích’. ‘Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị

tuyên bố mất tích xin ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp
luật về hôn nhân và gia đình’.
Cũng theo Khoản 2 Điều 56 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định về
căn cứ cho ly hơn có đề cập tới trường hợp u cầu ly hơn khi một trong hai người mất
tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án tun bố mất tích
u cầu ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn.”. Trường hợp đồng thời u cầu Tịa
án tun bố mất tích và u cầu Tịa án giải quyết ly hơn, cần lưu ý Tòa án chỉ giải

6


quyết cho ly hơn có bằng chứng, chứng minh được chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai
năm trở lên kể từ ngày có tin tức cuối cùng về chồng vợ, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp thơng báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng
vẫn khơng có tin tức xác thực về việc người đó cịn sống hay đã chết. Việc tun bố cá
nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân
cũng như các chủ thể có liên quan. Việc xác định đúng điều kiện và hậu quả pháp lí
của các tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, đồng thời góp phần
thực hiện có hiệu quả nhưng quy định của pháp luật trong tuyên bố các cá nhân mất
tích. Trong quan hệ hơn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh
hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải giải
phóng vợ, chồng khi họ có yêu cầu được ly hơn với người đã bị tịa án tun bố mất
tích.
Thứ ba: Trường hợp có u cầu ly hơn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này
thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực
gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người
kia. Như vậy theo quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình thì có thể xin ly hôn thay
cho người thân và luật cũng quy định cụ thể về lý do xin ly hơn, trong đó bạo lực gia
đình là một lý do, căn cứ để người chồng hoặc người vợ có quyền u cầu tịa án cho
ly hôn. Cụ thể tại Khoản 2, Điều 51 trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 có quy

định như sau: ‘Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền u cầu tịa án giải quyết ly
hơn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia
đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tinh thần của họ’.
Thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền u cầu tịa án giải quyết ly
hơn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để cha, mẹ, người thân thích khác cũng có
quyền u cầu tịa án giải quyết ly hơn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng
thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Quy định này đã tháo gỡ cho
nhiều trường hợp mong muốn xin ly hôn thay cho người thân bị mất năng lực hành vi
mà không được do trước đây chỉ quy định việc ly hơn phải do chính đương sự yêu cầu,

7


trong khi họ lại bị mất năng lực hành vi dân sự dẫn đến khơng có năng lực hành vi tố
tụng dân sự để xin ly hơn. Chính điều này đã dẫn tới thực trạng có rất nhiều trường
hợp vợ hoặc chồng muốn ly hơn nhưng Tịa án khơng thể tiến hành giải quyết được, có
nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều năm với nguyên nhân duy nhất là do người vợ
hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự.
Đối với trường hợp này các nhà làm luật yêu cầu cha, mẹ, người thân thích khác của
vợ hoặc chồng cần phải chứng minh được việc người chồng hoặc vợ bị mất năng lực
hành vi dân sự phải là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Tuy nhiên, theo
quan điểm của người viết thì quy định này là khơng cần thiết bởi chỉ cần khi một bên
vợ, chồng bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình thì lúc này cuộc hơn nhân đã khơng cịn hạnh phúc, xét về góc độ
tình cảm thì mục đích ban đầu của hơn nhân không đạt được nên cần phải giải quyết ly

hôn cho hai bên khi có yêu cầu của người thân của họ, tránh sự ràng buộc, bế tắc, chứ
không cần thiết phải có hậu quả là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ
gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ như quy
định của luật. Vậy nên, nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
cũng như góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật thì các nhà lập pháp cần
xem xét lại quy định trên nhằm điều chỉnh một cách thấu đáo nội dung này.
Có thể thấy, căn cứ ly hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 là một chủ đề
nhận được rất nhiều sự quan tâm từ dư luận xã hội. Các căn cứ ly hôn này đã góp phần
giải quyết tốt nhiều vụ án ly hơn, giải phóng cho nhiều cuộc hơn nhân thốt khỏi
những bế tắc. Từ đó, ly hơn khơng chỉ đơn thuần là làm tan vỡ những mối quan hệ gia
đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên các cơ sở dân chủ, những cơ
sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh.
Kết luận
Trong cuộc sống hơn nhân gia đình ai cũng mong muốn gia đình vui vẻ, ấm no, hạnh
phúc, mỗi một gia đình mạnh thì xã hội sẽ mạnh, song thực tế hôn nhân không phải lúc
nào cũng thuận lợi có rất nhiều trường hợp vì một lý do nào đó hay hai bên thuận tình
ly hơn thì tịa án căn cứ nếu đủ điều kiện sẽ tiến hành cho ly hơn. Luật hơn nhân và gia
đình 2014 đã có những bước tiến bộ rất lớn giúp cho các bên đương sự nếu không thể

8


chung sống với nhau thì có thể tiến hành ly hôn mà không bị cản trở hay hạn chế điều
kiện gì.
Tài liệu tham khảo
Hướng dẫn học tập và tìm hiểu luật hơn nhân và gia đình Việt Nam;
Luật hơn nhân và gia đình: 1959, 1986, 2000, 2014;

9




×