Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Pháp luật và giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.72 KB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Ngành: LUẬT KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: TH.S ĐÀO THU HÀ
Sinh viên thực hiện: ĐIÊU NGỌC TRANG
MSSV: 1511270648

Lớp: 15DLK03


TP. Hồ Chí Minh – 2018


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy, cô cùng Ban lãnh
đạo khoa Luật trường Đại học Cơng nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (HUTECH) đã
tạo điều kiện cho em được học tập và hồn thành chương trình của mình với khóa
luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật và giải quyết tranh chấp thừa kế theo di
chúc”.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Th.S cô Đào Thu Hà - Giảng
viên trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành tốt khóa luận này. Cơ đã tận tình giúp đỡ, chỉ
dạy em những kiến thức, kinh nghiệm quan trọng cần có để hồn thành tốt khóa luận
vừa qua.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn đến Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Chánh văn phịng ông Võ Chí Thiện, cùng các anh chị làm
việc tại cơ quan đã tạo điều kiện cho em có cơ hội nghiên cứu và hồn thành tốt
chương trình thực tập. Từ đó đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm mới làm hành trang
cho công việc của em sau này.
Với những hiểu biết về kiến thức cịn nhiều thiếu xót, phạm vi nghiên cứu cịn
bị hạn chế nên bài khóa luận này khơng thể khơng tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong bên phía nhà trường chỉ bảo và đóng góp thêm cho em để em có điều kiện để
bổ sung, nâng cao khả năng nghiên cứu của mình ngày càng tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Điêu Ngọc Trang


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ............................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu ................................................................. 2
3.1. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 2
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 3
5. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................... 3
6. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................................... 3
6.1.Ý nghĩa lý luận ...................................................................................................... 3
6.2. Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................................. 3
7. Bố cục của đề tài ......................................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ ...................................................... 5
1.1. Khái niệm chung về thừa kế, quyền thừa kế .................................................... 5
1.1.1. Khái niệm ........................................................................................................ 5
1.1.1.1. Khái niệm về thừa kế ..........................................................................................5
1.1.1.2. Khái niệm về quyền thừa kế ................................................................................5
1.1.1.3. Mối liên hệ giữa quyền thừa kế và quyền sở hữu ...............................................6

1.2. Khái niệm, đặc điểm di chúc .............................................................................. 8
1.2.1. Khái niệm của di chúc .................................................................................... 8
1.2.2. Đặc điểm của di chúc ..................................................................................... 8
1.3. Các nguyên tắc cơ bản về thừa kế...................................................................... 9
1.4. Thừa kế theo di chúc ......................................................................................... 12
1.4.1. Khái niệm ...................................................................................................... 12
1.4.2. Người lập di chúc ......................................................................................... 12
1.4.3. Người thừa kế theo di chúc ........................................................................... 14
1.4.4. Người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc ........................................ 15
1.4.5. Điều kiện có hiệu lực của di chúc ................................................................. 17

1.4.6. Hình thức di chúc .......................................................................................... 19
1.4.7. Hiệu lực của di chúc ..................................................................................... 20


1.5. Những điểm khác giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 .......... 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 28
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VIỆC GIÁM SÁT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ................. 29
2.1. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc trong thủ tục tố
tụng dân sự ................................................................................................................ 29
2.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc .............................. 29
2.1.2. Đương sự trong giải quyết tranh chấp ......................................................... 31
2.1.3. Trình tự tố tụng ............................................................................................. 31
2.2. Thực tiễn việc giám sát giải quyết tranh chấp theo di chúc tại Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ..................................................... 32
2.3. Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả việc giám sát giải quyết
tranh chấp thừa kế theo di chúc. ............................................................................. 41
2.3.1 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc giám sát giải quyết tranh chấp thừa
kế theo di chúc ........................................................................................................ 41
2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện ..................................................................................... 43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 45
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 47


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một chế định xuất hiện từ khi xã hội lồi người mới được hình
thành. Thừa kế được hiểu là việc để lại và chuyển dịch của cải, tài sản của người đã
chết cho người còn sống trong gia đình, dịng họ, gia tộc theo truyền thống cũng như

phong tục tập quán của từng dân tộc trên thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói
riêng. Người được thừa hưởng tài sản có nghĩa vụ duy trì, phát triển những giá trị vật
chất, tinh thần mà thế hệ trước đã để lại. Đến nay, quan hệ thừa kế vẫn là quan hệ
pháp luật phổ biến trong xã hội. Vì xã hội ngày càng phát triển nên giá trị tài sản làm
ra cũng sẽ tăng lên theo đó, từ đó dễ dẫn đến các tranh chấp về tài sản thừa kế cũng
sẽ tăng lên đáng kể. Để hạn chế những tranh chấp về thừa kế trong đời sống xã hội,
thì cần có những bộ luật riêng để có thể giải quyết những tranh chấp thừa kế, vì vậy
mà luật pháp của các nước trên Thế giới nói chung và luật pháp Việt Nam nói riêng
đã có những quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật về thừa kế nhằm đạt
được những mục đích nhất định.
Tại Việt Nam, trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
qua các thời kỳ đều quy định: Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản được
nhà nước bảo hộ. Vì thế mà Bộ luật Dân sự đã đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết
của xã hội đặt ra trong giai đoạn hiện nay về việc giải quyết các tranh chấp thừa kế
theo di chúc. Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra nhiều bất cập và khó khăn trong việc
giải quyết phân chia thừa kế theo di chúc. Những khó khăn đó được thể hiện ở nhiều
dạng tranh chấp như tính hợp pháp của di chúc, điều kiện của người lập di chúc, ý chí
của người lập di chúc, hình thức của di chúc, hiệu lực của di chúc, …
Trong thực tiễn thực hiện quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế
theo di chúc có rất nhiều bất cập. Từ đó dẫn tới việc có nhiều dạng tranh chấp di sản
thừa kế xảy ra. Chẳng hạn như do các cơ quan Nhà nước và các cá nhân có thẩm
quyền vẫn cịn nhận hạn chế về trình độ chun mơn cũng như cách giải quyết vụ
việc, nên cùng một vụ án tranh chấp về quyền thừa kế lại có nhiều hướng đề ra cách
giải quyết khác nhau. Từ những vấn đề tồn tại trong việc giải quyết các tranh chấp
thừa kế sẽ ảnh hưởng tới tình cảm gia đình, gây mất niềm tin đến cơ quan chức năng
và ảnh hưởng tới đời sống kinh tế - xã hội đất nước.

1



Xuất phát từ những vấn đề nên trên việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng giải
quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc” tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh nhằm nghiên cứu rõ hơn về các quy phạm pháp luật về thừa kế theo
di chúc được quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam. Việc nghiên cứu đề tài còn
nhằm chỉ ra những nguyên nhân của vấn đề để từ đó đưa ra những giải pháp góp phần
hồn thiện các quy định về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở nước ta, việc nghiên cứu về vấn đề thừa kế theo di chúc nói chung và nghiên
cứu về các tranh chấp về thừa kế nói riêng đã có từ rất lâu. Từ xưa, vấn đề này đã
được các nhà làm luật nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế cho các tranh
chấp thừa kế xảy ra trong xã hội; đồng thời giúp nâng cao trình độ hiểu biết của cán
bộ nhà nước có thẩm quyền để có thêm nhiều cách giải quyết vụ án thừa kế hiệu quả
hơn. Nhưng song song đó vẫn cịn tồn tại nhiều bất cập trong luật pháp nước ta cũng
như thực tiễn đời sống và nó chỉ mới dừng lại ở quá trình nghiên cứu một cách khái
quát, chưa đi sâu vào thực tiễn. Vì vậy, đề tài nghiên cứu: “Pháp luật về giải quyết
tranh chấp thừa kế theo di chúc” sẽ kế thừa và bổ sung lý luận về tranh chấp thừa
kế theo di chúc.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu một số khái niệm khoa học về thừa kế theo di chúc
- Nghiên cứu các nguyên tắc về thừa kế theo di chúc
- Nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc của Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế theo Bộ luật Dân sự 2015
- Phân tích nguyên nhân dẫn đến tranh chấp
- Phân tích thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế
2



4. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu này được sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu và tìm
ra giải pháp giải quyết các vấn đề:
- Phương pháp thu thập tài liệu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: nghiên cứu những tư liệu có sẵn từ những vụ án, vụ việc tại
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Khoảng 6 tháng (từ tháng 07/2018 đến tháng
12/2018).
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1.Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu này sẽ nêu ra được những khái niệm pháp lý về thừa kế,
thừa kế theo di chúc, tranh chấp thừa kế theo di chúc. Đồng thời nêu ra được những
nguyên nhân về những bất cập của các quy phạm pháp luật và giải pháp để giải quyết
các vụ án, vụ việc liên quan.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ và hồn thiện việc giải quyết các tranh
chấp thừa kế theo di chúc, phục vụ cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng và Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói chung cũng như các
các cấp có thẩm quyền nâng cao trình độ lý luận.
7. Bố cục của đề tài
Bài báo cáo thực tập này gồm có phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận
và các tài liệu tham khảo. Trong phần nội dung gồm 2 chương lớn:
Chương 1: Lý luận chung về thừa kế
3


Chương 2: Thực tiễn giám sát việc giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc và một
số giải pháp, kiến nghị


4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ
1.1. Khái niệm chung về thừa kế, quyền thừa kế
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về thừa kế
Thừa kế là một loại quan hệ xã hội, được xuất hiện đồng thời với quan hệ sở
hữu, tồn tại và phát triển cùng với xã hội lồi người từ khi lồi người mới hình thành.
Vì vậy, thừa kế là một chế định dân sự, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
việc di dời tài sản của người đã chết sang người còn sống có cùng chung huyết thống
với họ theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi và phương thức bảo
vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Thừa kế còn là một phạm trù kinh tế được tồn tại vĩnh viễn ở trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng, kể cả khi xã hội chưa có nhà nước và pháp luật. Theo
đó, người được hưởng thừa kế phải có nghĩa vụ duy trì, bảo vệ và phát triển tài sản
của người chết để lại.
Quan hệ thừa kế ngày trước là một quan hệ xã hội, nhưng được pháp luật điều
chỉnh và trở thành quan hệ pháp luật. Quan hệ ấy quy định các quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể liên quan đến quan hệ thừa kế.
Có hai dạng thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm về quyền thừa kế
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản được pháp luật các nước ghi
nhận. Tuy vậy nó thể hiện tùy vào tình hình kinh tế - xã hội của các nước, vì mỗi
quốc gia có những hình thái và những thể chế chính trị khác nhau nên pháp luật về
quyền thừa kế được quy định cũng sẽ khác nhau. Quyền thừa kế có mối quan hệ chặt
chẽ và tác động qua lại với quyền sở hữu. Pháp luật các nước quy định mỗi công dân
đều có quyền sở hữu tài sản và từ đó cũng cho họ có quyền để lại tài sản của mình

cho người sau.

5


Quyền thừa kế là một chế định của pháp luật dân sự, bao gồm tổng hợp các
quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra và thừa nhận quá trình dịch chuyển tài sản
của người chết cho người còn sống theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
Người có quyền thừa kế theo quy định của pháp luật có thể là một cá nhân hoặc một
tổ chức. Mọi cá nhân đều được bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người
khác và quyền được hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật1. Nghĩa là, những
người để lại di sản cũng như người thừa hưởng di sản không phụ thuộc vào mức độ
năng lực hành vi dân sự. Người có hay khơng có năng lực hành vi dân sự hoặc khơng
đầy đủ đều có quyền để lại và thừa hưởng di sản. Trong trường hợp này, người giám
hộ sẽ giúp những người này các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi tài sản của họ.
1.1.1.3. Mối liên hệ giữa quyền thừa kế và quyền sở hữu
Quyền thừa kế
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân đã xuất hiện từ
thời xa xưa khi thế giới đang dần được hình thành. Đó là quyền được pháp luật thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng ghi nhận trong luật thừa kế. Vì vậy, ở mỗi chế
độ khác nhau, ở mỗi nền kinh tế từng thời kì khác nhau mà quyền thừa kế được quy
định cũng khác nhau. Điều đó cho thấy, quyền thừa kế có một quan hệ đặc biệt với
quyền sở hữu để đảm bảo tài sản của người chết để lại vẫn được bảo tồn và phát triển.
Thừa kế được hiểu đơn giản đó là sự kế quyền đối với tài sản của người còn
sống được người chết để lại, nghĩa vụ của họ là phải duy trì và phát triển tài sản thừa
kế đó. Việc thừa kế tồn bộ hay một phần quyền thừa kế là do người chết định đoạt
trước khi chết và cũng còn phải phụ thuộc vào quy định của pháp luật nước ta.
Ở thời xa xưa, những giai cấp tư bản và những giai cấp bóc lột chiếm hữu đa
số quyền và tư liệu sản xuất của người dân trong xã hội; vì vậy, di sản mà họ để lại
cho con, cháu không chỉ là tài sản, tư liệu sản xuất mà còn là quyền lực về kinh tế,

chính trị để duy trì được sự áp bức, bóc lột của các giai cấp đó đối với nhân dân lao
động. Vì thế, ở các chế độ xã hội khác nhau thì thừa kế được coi là phương thức để
duy trì và phát triển chế độ sở hữu đó. Sự kế thừa, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ người này sang người khác là một quy luật khách quan. Nó là một phạm trù
pháp lý chỉ việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Vì vậy quyền thừa kế trong điều kiện nước ta được thể hiện để
1

Điều 610 Bộ luật Dân sự 2015

6


củng cố cho quyền sở hữu và để bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người chưa thành
niên cũng như người đủ thành niên nhưng khơng có khả năng lao động hoặc mất khả
năng lao động.
Quyền sở hữu
Quan hệ sở hữu có vai trị đặc biệt to lớn đối với sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế của thế giới nói chung cũng như kinh tế Việt Nam nói riêng. Vì nó là một
quan hệ xã hội cần thiết giúp quyết định tính chất và nội dung cơ bản của các quan
hệ kinh tế khác là quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chính vì vậy, vấn đề sở hữu
luôn được ghi nhận một cách đặc biệt trong Hiến pháp nước ta. Từ đó pháp luật nước
ta đã quy định về quyền sở hữu của công dân nước ta một cách rất khái quát và chi
tiết.
Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý chỉ các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản được pháp luật điều chỉnh, là các
quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của mình. Tài sản và quyền sở hữu tài sản đóng vai trị đặc
biệt quan trọng trong pháp luật nước ta.
Mối liên hệ giữa quyền thừa kế và quyền sở hữu

Quyền thừa kế và quyền sở hữu là những quyền cơ bản của mọi công dân được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Song đó cả hai đều có tính mật thiết với nhau, vì việc
hình thức sở hữu một tài sản ra sao thì việc đó nó sẽ liên quan đến việc quyết định
thừa kế như thế nào. Vì quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt2. Khi một người sở hữu mà có cả ba quyền trên thì khả năng sở hữu
một là tài sản là tuyệt đối nên trước khi chết có tồn quyền đối với tài sản đó. Trước
khi chết, người đó để tại tài sản cho người thân hoặc những người mình muốn để lại
di sản, thì những người được hưởng di sản được hưởng di sản với những quyền tuyệt
đối như người để lại di sản từng sở hữu.
Quyền thừa kế là được thừa kế lại những di sản do người chết để lại mà theo
đó đồng nghĩa với việc quyền và nghĩa vụ của người chết đối với tài sản sẽ được
chuyển sang cho người hưởng di sản một cách tuyệt đối. Nên khi đó, người hưởng di
sản cũng sẽ có cả quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản
2

Chương XIII Bộ luật Dân sự 2015

7


của người chết để lại cho mình. Trừ một số trường hợp trước lúc chết hoặc trong di
chúc của người chết để lại có căn dặn về tài sản đó không được mua bán, không được
trùng tu, không được hủy hoại tài sản,... thì trong những trường hợp đó quyền của
người hưởng di sản sẽ bị hạn chế lại một phần3.
1.2. Khái niệm, đặc điểm di chúc
1.2.1. Khái niệm của di chúc
Theo Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí
của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.”
Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người (là người để lại di chúc) cho một
người khác trước khi chết, với mục đích nhằm định đoạt tài sản của mình cho người

đó bằng cách thơng qua hình thức văn bản, cịn được gọi là di chúc bằng văn bản hoặc
bằng di chúc miệng.
1.2.2. Đặc điểm của di chúc
- Di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc
Đây là một hành vi pháp lý đơn phương của một cá nhân trong việc định đoạt
tài sản của mình cho một người khác trước khi chết, mà không cần phải thỏa thuận
với người được nhận di sản hay khơng cần biết họ có nhận hay không.
- Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc để lại cho người
khác sau khi chết
Trường hợp một người chết không để lại di chúc, thì di sản của người đó để
lại sẽ được chia theo pháp luật, và chia theo hàng thừa kế các phần bằng nhau. Nhưng
trường hợp, trước khi chết người đó có để lại di chúc thì di sản của người đó sẽ chia
cho những người được quyền hưởng di sản được nói đến trong di chúc. Và điều khác
đối với thừa kế theo pháp luật là người lặp di chúc có tồn quyền định đoạt tài sản
của mình cho một người bất kì, khơng cần thiết là người có huyết thống, ruột thịt và
khơng cần chia ra những phần bằng nhau mà có thể chia theo ý của mình. Và người
lập di chúc có quyền tước quyền hưởng di chúc của một người nào đó hoặc hạn chế
quyền sở hữu của họ. Ví dụ như di sản để lại là căn nhà và người lặp di chúc mong
3

Chương XIII Bộ luật Dân sự 2015

8


muốn là con họ sống trên mãnh đất đó và không được bán, vậy người lặp di chúc đã
tước đi quyền định đoạt tài sản của người đó, người có chỉ chiếm hữu và sử dụng di
sản để lại. Nếu một di chúc mà nội dung của nó khơng bao gồm mục đích định đoạt
tài sản cho người khác trước khi chết thì đó khơng được xem là di chúc.
- Di chúc có hiệu lực khi người lập di chúc chết

Đây là đặc điểm nổi bật có thể thấy chỉ có ở đặc điểm của di chúc. Khác với
tất cả các hợp đồng dân sự khác, hiệu lực của hợp đồng chỉ phát sinh khi cả hai đã
thỏa thuận được các điều khoản trong hợp đồng. Còn đối với di chúc, mang tính cá
nhân, và tồn quyền định đoạt đối với tài sản của mình, có thể sửa đổi, bổ sung hoặc
hủy bỏ di chúc. Hơn thế nữa mục đích của việc lập di chúc là mong muốn người được
hưởng di sản kế thừa tài sản của họ sau khi chết. Nên để di chúc có hiệu lực thì người
lập di chúc đã chết mới làm phát sinh hiệu lực của di chúc.
1.3. Các nguyên tắc cơ bản về thừa kế
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì mọi cá nhân có quyền để lại di
chúc và định đoạt tài sản của mình cho người khác nhưng ngồi ra Bộ luật Dân sự
cũng đưa ra những nguyên tắc về quyền thừa kế như sau:
“Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của cá nhân”4
Chiến thắng Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trong Bản Tuyên
ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước tồn dân tộc, có khẳng định đây
là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, mọi cơng dân sống tại đất nước Việt
Nam đều có quyền bình đẳng và quyền được bảo hộ. Trong quyền bảo hộ không thể
không kể đến quyền thừa kế tài sản của một cá nhân. Pháp luật nước ta luôn đảm bảo
quyền để lại di sản và quyền thừa kế của các cá nhân trong cộng đồng nhằm giúp cho
xã hội ngày càng phát triển và văn minh hơn.
Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân để lại di chúc đều được bảo hộ, định đoạt
khối tài sản của mình sau khi người ấy chết thông qua việc lập di chúc. Và nếu cá
nhân khơng lập di chúc thì tài sản, di sản cũng sẽ được giải quyết theo quy định của
pháp luật. Vì vậy, người thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật đều

4

Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015

9



được pháp luật nước ta đảm bảo việc thừa hưởng di sản của người chết để lại. Qua
đó di sản thừa kế sẽ được chia theo hai phương pháp sau:
- Thứ nhất di sản được định đoạt theo ý muốn, ý nguyện cuối cùng của người
để lại thừa kế được nêu trong di chúc.
-Thứ hai, nếu di sản khơng có định đoạt trong di chúc trước thì sẽ được định
đoạt theo pháp luật quy định.
“Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế”5
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều cuộc cải cách
đột phá từ các chính sách pháp luật, song song đó cũng đã đạt được rất nhiều thành
tựu quan trọng. Trong đó, là vấn đề bình đẳng của mọi cá nhân trên đất nước Việt
Nam. Nguyên tắc trên thật sự thể hiện rõ nét được bản chất của mối quan hệ dân sự,
đặc biệt là trong quan hệ thừa kế. Vì nó là cơ sở giúp xác định được những người
trong cùng một hàng thừa kế có thể hưởng di sản ngang nhau. Ngồi ra, nó cũng là
cơ sở để cơng dân có thể nhanh chóng xóa bỏ được các tư tưởng lạc hậu từ thời ông
cha ta như: trọng nam khinh nữ, tư tưởng giữa vợ và chồng trong các chế định thừa
kế,...
Nguyên tắc này được triển khai từ quyền cơ bản của cơng dân Việt Nam nói
chung được thể hiện trong Hiến pháp Việt Nam, bên cạnh đó, nó cũng được quy định
rõ tại Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng,
không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hồn cảnh
kinh tế, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xử khơng bình
đẳng với nhau”. Ở Bộ luật Dân sự 2015 cũng đã thể hiện rõ quy định mà pháp luật
Việt Nam dành cho công dân về quyền để lại di sản của mình và quyền thừa hưởng
di sản của người chết để lại, tất cả đều được bình đẳng.
Bộ luật Dân sự cũng quy định mọi cá nhân không phân biệt nam nữ, tuổi tác,
tôn giáo, dân tộc, địa vị xã hội, …chỉ cần người đó có tài sản thì người đó có quyền
để lại di sản. Và người được chỉ định trong di chúc thì người đó sẽ được hưởng di
sản, trừ một số trường hợp người được chỉ định trong di chúc không được hưởng di
sản theo Bộ luật Dân sự 2015 quy định. Và ở Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy

định về việc hưởng di sản của những người không nằm trong di chúc nhưng vẫn được
5

Điều 610 Bộ luật Dân sự 2015

10


hưởng một phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật
nếu di sản được chia theo thừa kế hoặc nếu họ nằm trong trường hợp không được
người lập di chúc cho hưởng tài sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần
ba suất, đó là:
- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
- Con chưa thành niên mà khơng có khả năng lao động.
Thông qua nguyên tắc này, mọi cá nhân thuộc quyền thừa kế có thể đảm bảo
được quyền và lợi ích chính đáng của mình trong mối quan hệ thừa kế. Thêm vào đó,
khi tham gia vào quan hệ thừa kế thì các bên liên quan đều phải gánh vác trách nhiệm
với nhau dựa trên cơ sở bình đẳng.
“Ngun tắc tơn trọng quyền định đoạt của người có tài sản, người hưởng di
sản”6
Nguyên tắc này nhằm để nhấn mạnh việc một cá nhân nào để lại di chúc cũng
đều được pháp luật tơn trọng và bảo hộ. Đó là di sản thừa kế có thể được chia dựa
trên ý chí của người lập di chúc hoặc chia theo pháp luật nếu người có tài sản khơng
để lại di chúc. Song đó, pháp luật ln đặt ra sự ưu tiên đi kèm với sự tôn trọng về
quyền định đoạt tài sản của một cá nhân cho một cá nhân khác được hưởng thừa kế,
mà khơng có một cá nhân hay nhà nước có thể xen vào. Trong mọi trường hợp, cá
nhân đều có quyền định đoạt tài sản riêng của mình cho bất cứ ai và được hưởng bao
nhiêu tùy vào ý chí của người để lại di chúc.
Theo quy định của pháp luật tại Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về
thừa kế: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản

của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật” thì phải được mọi người, pháp luật tơn trọng và khơng ai có quyền thay
đổi ý kiến của người đó. Thêm vào đó, nếu người chết để lại di chúc là hợp pháp thì
việc tiến hành mở thừa kế theo di chúc sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật,
theo ý nguyện của người để lại di chúc trong việc phân chia tài sản của họ trước khi
chết. Bên cạnh đó thì tại Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về việc người

6

Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015

11


thừa kế có quyền từ chối nhận di sản nhưng trừ trường hợp việc từ chối đó là trốn
tránh nghĩa vụ với người để lại di sản.7
Nếu trong trường hợp, người để lại di sản quá lạm dụng đến nguyên tắc trên,
làm ảnh hưởng đến những cá nhân có thể được hưởng di sản theo đúng pháp luật thì
cần có sự can thiệp của pháp luật để tránh xảy ra những tranh chấp về thừa kế.
1.4. Thừa kế theo di chúc
1.4.1. Khái niệm
Theo quan điểm của Ăng-ghen: “Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người
chết cho người còn sống”. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản của người trước
khi chết để lại theo một trình tự được pháp luật quy định. Pháp luật cho phép những
người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải có nghĩa vụ thực hiện những
mong muốn của người chết để lại.
Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí
đó được thể hiện sau khi chúng ta chết.”
Nói tóm lại Bộ luật Dân sự của các nước phương Đông và phương Tây nói
chung, cũng như Việt Nam nói riêng thì di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm

chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết8. Bên cạnh đó, thừa kế theo di
chúc là việc để lại tài sản và việc thừa hưởng tài sản theo ý chí của người chết được
thể hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Người để lại di chúc phải là người có ý chí
tự nguyện, sáng suốt, minh mẫn để đảm bảo đúng quy định của pháp luật về thừa kế.
Thừa kế theo di chúc là một trong hai hình thức thừa kế nhằm đảm bảo cho tài sản
của người chết được định đoạt theo ý muốn của họ, nhưng sự định đoạt đó chỉ hợp
pháp khi thực hiện đúng các điều kiện do pháp luật quy định. Thừa kế theo di chúc
được pháp luật của các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng ghi
nhận và đảm bảo quyền của người để lại thừa kế và người được nhận thừa kế.
1.4.2. Người lập di chúc
Quyền để lại di chúc là quyền cơ bản được pháp luật Việt Nam công nhận và
bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi người dân đối với những tài sản hợp
7
8

Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015
Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015

12


pháp của họ. Do đó bất kì ai cũng có quyền quyết định đối với tài sản thuộc sở hữu
riêng của mình. Vì vậy, mọi cá nhân có quyền lập di chúc để lại tài sản của mình cho
người khác sau khi chết, nếu khơng để lại di chúc thì tài sản đó sẽ được chia theo
pháp luật9.
a. Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định chỉ người thành niên mới có quyền lập di
chúc, ngồi ra người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi muốn lập di chúc
phải được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó10. Vì chỉ khi đạt
đến một độ tuổi theo pháp luật quy định (từ mười tám tuổi trở lên) thì con người mới

có đủ nhận thức để điều khiển hành vi của mình11.
Ngồi ra, đối với những người đã thành niên nhưng lại bị mắc bệnh tâm thần
hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì
những người này không được lập di chúc. Nếu những người này lập di chúc thì di
chúc đó khơng phát sinh hiệu lực pháp luật.
Như vậy, những người thành niên bị mất quyền lập di chúc khi họ là người:
mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác; không thể nhận thức được hành vi của
mình; khơng thể điều chỉnh được hành vi của mình12.
Người từ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi dù là người chưa thành
niên nhưng họ vẫn có những nhận thức nhất định. Trên thực tế, thì một trong số họ
đã có được một tài sản nhất định bằng việc đi làm thêm hoặc do người có tài sản để
lại di chúc cho họ. Để đảm bảo được quyền định đoạt của những người đó thì pháp
luật đã cho phép họ được lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ
đồng ý.
b. Yêu cầu về nhận thức của người lập di chúc
Nghiên cứu cho rằng độ tuổi và nhận thức có quan hệ mật thiết với nhau đối
với mỗi con người. Vì khi ấy con người mới có đủ khả năng nhận thức để điều chỉnh
được hành vi dân sự của mình, trừ trường hợp một người bị bệnh tâm thần hoặc các

Điều 610 Bộ luật Dân sự 2015
Khoản 2 Điều 625 Bộ luật Dân sự 2015
11
Khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015
12
Điểm a khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015
9

10

13



bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Người từ đủ
mười tám tuổi trở lên là người thành niên, khi đó họ mới có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự, trừ trường hợp họ mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự 13. Từ đó cho
thấy, khả năng nhận thức của một người và độ tuổi là hai tiêu chí quan trọng để xác
định được năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Từ đó cho thấy rằng, ý thức của một người khi lập di chúc là rất quan trọng.
Người ấy phải là người đủ tuổi thành niên, có sự sáng suốt, minh mẫn nhất định trong
hành động và suy nghĩ của mình. Như vậy, một người được coi là có năng lực hành
vi dân sự khi người đó làm mọi việc bằng khả năng của mình, và chính hành vi đó
người đó đã xác lập và quyết định quyền và nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ thừa kế,
người lập di chúc đã xác lập việc để lại di sản và hưởng di sản của mình cho người
khác được chỉ định trong di chúc. Vì vậy, việc họ minh mẫn để xác lập quyền thừa
kế đó dành cho ai, cho ai cho bao nhiêu,... là việc quan trọng.
Đối với những người đã thành niên nhưng mắc các bệnh tâm thần và các bệnh
khác không thể làm chủ được hành vi của mình thì khơng được quyền lập di chúc.
Nếu họ lập di chúc thì di chúc ấy cũng không được pháp luật công nhận.
1.4.3. Người thừa kế theo di chúc
Khác với thừa kế theo pháp luật, nếu thừa kế chia theo pháp luật thì bắt buộc
những người được hưởng thừa kế là những người có quan hệ hôn nhân (hôn nhân là
quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn), quan hệ huyết thống (huyết thống là mối
quan hệ của những người có cùng dịng máu được xác định qua các giấy tờ như giấy
khai sinh, hộ khẩu, giấy xét nghiệm ADN), quan hệ nuôi dưỡng (là sự quan tâm, chăm
sóc, ni dưỡng của những người có thể khơng cùng quan hệ huyết thống hoặc quan
hệ hơn nhân) đối với người có tài sản để lại mới được hưởng di sản theo hàng thừa
kế14. Còn đối với di chúc, người để lại di chúc có thể để lại tài sản cho bất kỳ người
nào mà họ muốn, không phải phụ thuộc vào hàng thừa kế, cũng khơng cần phải máu
mủ, ruột thịt. Vì di chúc thể hiện quyền định đoạt tài sản của người để lại tài sản.
Ngoài ra, người được hưởng tài sản pháp đáp ứng đủ các điều kiện thì mới được


13
14

Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015
Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015

14


hưởng tài sản hợp pháp theo quy định pháp luật15. Và người được hưởng tài sản có
nghĩa vụ bảo vệ, duy trì,... tài sản của người chết để lại.
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế
hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ
chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế16. Có hai loại thừa
kế theo quy định của Nhà nước là thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc,
nhưng do người thừa kế theo di chúc được xác định bởi ý nguyện của người lập di
chúc nên có phạm vi rộng hơn.
Nếu người trước khi chết có để lại di sản, tài sản của mình bằng di chúc thì tài
sản ấy chắc chắn sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Nếu khơng có di chúc thì sẽ được chia thừa kế theo pháp luật và theo hàng thừa kế
như pháp luật quy định17.
Nói tóm lại, người thừa kế là những người được hưởng di sản theo di chúc
theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là tổ chức hoặc cá
nhân hay bất kì một ai đó tùy thuộc vào ý muốn của người để lại di chúc. Nhưng
người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ gia đình, huyết
thống, hơn nhân, nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. Giữa những người này có
các quyền và nghĩa vụ pháp lý với nhau, người thừa kế thì có quyền sở hữu di sản
thừa kế, nhưng đồng thời họ phải thực hiện những nghĩa vụ tài sản cũng như duy trì,

bảo vệ và phát triển tài sản của người để lại di sản.
1.4.4. Người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc
Từ những bộ luật thời xa xưa như Bộ luật Hồng Đức (năm 1943), Bộ luật Gia
Long (năm 1815), Bộ Dân luật Bắc kỳ (năm 1931),... đã đề cập đến quyền bảo vệ
người có tài sản và để lại cho người thừa kế của mình. Những quy định về pháp luật
thừa kế trong Bộ luật Dân sự cũng như những bộ luật xưa đã góp cơng sức lớn trong
việc ổn định và phát triển đời sống xã hội trong nhiều thế kỷ qua. Bởi đơn thuần giá
trị tài sản để lại thường là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, cổ phần,
... là những thứ có giá trị lớn chứ không phải là những tài sản phục vụ sinh hoạt tiêu

Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015
Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015
17
Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015
15
16

15


dùng hàng ngày cho nên dẫn đến việc tranh chấp về thừa kế ngày càng tăng cùng với
đó là những tranh chấp vơ cùng phức tạp. Ngồi thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo
di chúc, thì “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc” cũng là một vấn
đề quan trọng khá phức tạp của chế định thừa kế.
Pháp luật Việt Nam rất tôn trọng và bảo vệ người có tài sản để lại di chúc cho
người thừa kế. Đặc điểm của di chúc là thể hiện quyền định đoạt của người để lại tài
sản nên họ có thể lựa chọn bất kỳ ai dù cá nhân hay tổ chức để họ để lại tài sản là cá
nhân, tổ chức đó. Nhưng xét về góc độ pháp lý và đạo lý, ơng bà ta có câu: “Con
người có tổ có tơng. Như cây có cội như sơng có nguồn”. Khơng những con cái, thế
hệ sau có nghĩa vụ đối với cha mẹ, ông bà mà cha mẹ, ông bà, những thế hệ trước

cũng phải có một phần “nghĩa vụ” đối với con cháu của họ. Bởi vì có những trường
hợp mà người để lại di chúc khơng để lại tài sản cho những người mà họ có “nghĩa
vụ” đối với con cháu của họ. Pháp luật Việt Nam chỉ can thiệp vào khi người có tài
sản lạm dụng quyền chuyển giao tài sản của mình và khơng cho những người thân
theo hàng thừa kế thứ nhất của mình. Cho nên từ Bộ luật Dân sự 2005 đến Bộ luật
Dân sự 2015 đã quy định thêm về điều này để làm hạn chế một phần quyền của cá
nhân trong việc lập di chúc. Đó là người để lại tài sản bắt buộc để lại một phần di sản
của người đó cho những người theo quy định.
Có thể thấy, những người được hưởng di chúc không phụ thuộc vào nội dung
di chúc đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Đây là sự kết hợp giữa thừa kế theo di chúc
và thừa kế theo Pháp luật. Tuy nhiên, không phải tất cả ai trong hàng thừa kế thứ nhất
cùng thỏa mãn điều kiện được hưởng di sản, mà họ phải đáp ứng được điều kiện theo
pháp luật đưa ra. Thực chất, việc quy định này nhằm bảo vệ lợi ích của nhưng người
thừa kế theo Pháp luật hàng thứ nhất, có quan hệ hơn nhân và quan hệ huyết thống
vói người lập di chúc phù hợp với phong tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Pháp luật Việt Nam đề ra những quy định về thừa kế nhằm bảo vệ những người
có tài sản để lại tài sản cho người họ muốn nhận thừa kế. Vì vậy, người lập di chúc
có thể lựa chọn bất cứ chủ thể nào có mối quan hệ với mình để thừa hưởng di sản.
Nhưng có một số trường hợp người để lại di sản khơng cho những người có quan hệ
huyết thống với mình được hưởng di sản, khi ấy pháp luật có quyền can thiệp vì người
để lại di chúc quá lạm dụng quyền chuyển giao tài sản của mình tới quyền lợi đương
nhiên của người thân thuộc gần gũi với mình. Vì vậy, từ những Bộ luật Dân sự trước
đến nay đều quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
16


Việc quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc mục
đích là để bảo vệ lợi ích của những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất, có
quan hệ huyết thống, hơn nhân với người lập di chúc. Họ là những người có quyền
được hưởng hai phần ba một suất của người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp

di sản đó được chia theo chúc mà người lập di chúc không cho họ hưởng thừa kế theo
di chúc hoặc hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba một suất của người thừa kế theo
pháp luật. Điều 644 quy định rằng người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
di chúc là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất là cha, mẹ, vợ, chồng,
con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng khơng có khả năng lao động của
người để lại di sản18. Nhưng không phải tất cả những người này đều là người được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, mà để nhận được phần di sản
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì những người này phải thỏa mãn
được những điều kiện:
- Người lập di chúc không cho họ hưởng di sản hoặc cho phần di sản ít hơn
hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật.
- Không thuộc trường hợp những người từ chối nhận di sản theo Điều 620 Bộ
luật Dân sự 2015.
- Khơng thuộc trường hợp những người khơng có quyền được hưởng di sản
theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015.
Trên thực tế thì một cá nhân có quyền tặng cho tài sản của mình cho bất kì ai.
Tuy nhiên khi họ chết đi, khi đó họ chưa hoàn thành được nghĩa vụ cho những người
thân, vì vậy mà việc để lại tài sản cho những người đó là điều phù hợp đạo đức cũng
như pháp luật. Nếu sự định đoạt của người để lại chúc khơng phù hợp với tinh thần
nhân đạo nói trên thì Pháp luật nên hạn chế nó.
1.4.5. Điều kiện có hiệu lực của di chúc
Một di chúc lập ra, không phải mặc nhiên sẽ có hiệu lực, vì có thể nó sẽ vi
phạm những điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội hoặc vi phạm các quy
định của pháp luật quy định. Vì thế, để một di chúc có hiệu lực thì phải đảm bảo đủ
các điều kiện sau:

18

Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015


17


- “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép;19”
Yếu tố minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc là yếu tố quan trọng, vì người minh
mẫn, làm chủ được hành vi của mình, biết được mình đang làm gì thì mới có thể được
chấp nhận. Vì khi một người bị hạn chế, hay mất năng lực hành vi dân sự thì yếu tố
minh mẫn, sáng suốt của những người này khơng có, họ khơng làm chủ được hành vi
của mình vì thế nếu luật cho phép họ được lập di chúc là một điều vô cùng phi lý. Vì
di chúc thể hiện tính tự nguyện, đơn phương của bên lập di chúc. Tự nguyện cũng
được hiểu theo nghĩa là làm theo ý chí của bản thân mình, mình nghĩ ra và thực hiện
nó. Đây là yếu tố khi xét xử gây nhiều khó khăn cho Tịa án, nên khi tranh chấp xảy
ra, các đương sự cần nêu rõ bằng chứng, chứng minh cho lời khai của mình xem
người lập di chúc có tự nguyện hay khơng, có vấn đề về tinh thần hay thể chất không.
Lừa dối, đe dọa, cưỡng ép là những hành vi cố ý nhằm mục đích người lập di
chúc phải thực hiện theo ý muốn của người đe dọa. Vì đây là hành vi cố ý gây thiệt
hại cho không những người lập di chúc mà còn ảnh hưởng đến người thừa kế di chúc.
Vì người chết thì khơng đem tài sản theo được, nên khi bị đe dọa ảnh hưởng đến tính
mạng, sức khỏe thì đó là ảnh hưởng lúc bấy giờ, cịn khi về sau thì nó ảnh hưởng đến
những người có quyền được hưởng di sản đó. Làm mất đi tính minh bạch, mất đi tính
độc lập ý chí của người để lại di chúc, nên di chúc được lập trong những tình huống
này đều vơ hiệu, khơng phát sinh hiệu lực pháp luật
- “Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật.20”
Tuy di chúc là sự định đoạt của cá nhân và pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ,
nhưng nội dung của di chúc phải phù hợp với luật, không vi phạm điều cấm của luật.
Nhưng ở đây, luật lại không quy định điều cấm trong nội dung di chúc là gì, chưa nêu
ra được những trường hợp cụ thể để chứng minh về điều này. Và hình thức của di
chúc cũng đã được quy định kỹ tại Điều 627 luật này, và pháp luật Việt Nam quy

định hình thức về di chúc là điều kiện bắt buộc để di chúc có hiệu lực. Mỗi hình thức
của di chúc đều có cách xác định riêng. Pháp luật đưa ra nhiều hình thức để phù hợp
với hoàn cảnh của người để lại di chúc có thể chọn cách lập phù hợp.

19
20

Điểm a khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015
Điểm b khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015

18


- “Người làm chứng cho việc lập di chúc21”
Để đảm bảo được tính hợp pháp cao, di chúc bằng văn bản thì có thể đến văn
phịng cơng chứng hoặc chứng thực, nhưng nếu là di chúc miệng thì để đảm bảo được
tính khách quan và minh bạch, thì khi người lập di chúc miệng cần ít nhất hai người
làm chứng và sau khi người lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng
ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ22. Và có những trường hợp cần hai người làm
chứng như: di chúc có người viết hộ, di chúc của người khiếm khuyết thể chất hoặc
mù chữ. Vì đây là những trường hợp khơng tự mình lập và cần người lập thay, vì thế
pháp luật đã quy định những người sau sẽ không được quyền làm chứng: người thừa
kế theo di chúc hoặc pháp luật của người lập di chúc, người có quyền, nghĩa vụ tài
sản liên quan tới nội dung di chúc, người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi23.
Những người có liên quan đến di sản hoặc quyền đối với di sản khi làm chứng
có thể sẽ làm mất đi tính khách quan của di chúc, họ có thể sửa đổi di chúc theo ý
riêng của họ vì đó là những lợi ích thuộc về họ. Cho nên pháp luật nghiêm cấm những
cá nhân có liên quan đến nội dung hay liên quan đến di sản của người lập di chúc để
lại đều khơng có quyền làm chứng cho việc lập di chúc.

1.4.6. Hình thức di chúc
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng
văn bản thì có thể di chúc bằng miệng24.
Di chúc bằng văn bản là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết và có
thể thể hiện dưới các dạng sau:
- Di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng
Người lập di chúc phải tự viết tay, không được đánh máy và phải ký vào bản di chúc.
Nội dung của di chúc phải phù hợp với các quy định của pháp luật, theo Điều 631 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.

Điều 637 Bộ luật Dân sự 2015
Khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015
23
Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015
24
Điều 627 Bộ luật Dân sự 2015
21
22

19


- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Để đảm bảo tính xác thực của di chúc, thì người lập có thể nhờ ít nhất một hoặc hai
người làm chứng về việc lập di chúc25.
- Di chúc bằng văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực
Để bản di chúc có tính xác thực cao thì người lập di chúc có thể u cầu cơng chứng
hoặc chứng thực, khi ấy bản di chúc có tính pháp lý cao do phù hợp với các quy định
của pháp luật phòng khi xảy ra tranh chấp.
Di chúc miệng hay còn được gọi là di chúc ngôn, là loại di chúc được thể hiện

bằng lời nói của người cịn sống trong việc định đoạt tài sản của mình cho người khác
sau khi chết26. Di chúc miệng chỉ được công nhận với những điều kiện về hình thức
và thủ tục rất nghiêm ngặt và chỉ trong những trường hợp đặc biệt27.
- Người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 thì khơng có quyền lập di chúc miệng. Còn
người từ đủ 18 tuổi trở lên tại thời điểm lập di chúc phải hoàn toàn minh mẫn và sáng
suốt
- Người lập di chúc phải thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước hai người
làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc
điểm chỉ. Và những người làm chứng này phải phù hợp với quy định của pháp luật28.
- Sau 3 tháng, kể từ thời điểm lập di chúc miệng mà người lập di chúc còn
sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Nói tóm lại, trong những trường hợp thơng thường thì pháp luật chỉ thừa nhận
hình thức di chúc bằng văn bản vì nó thể hiện rõ ràng ý chí của người lập di chúc, là
cơ sở rõ ràng để phân chia di sản.
1.4.7. Hiệu lực của di chúc
Di chúc dù được lập bằng văn hay bằng lời nói đều thể hiện ý nguyện của một
người trước khi chết về tài sản của họ cho một cá nhân nào đó sau khi họ chết. Tuy

Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015
Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015
27
Điều 629 và Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015
28
Khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015
25
26

20



×