Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Top 5 mẫu cảm nhận bài thơ Nói với con hay chọn lọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.96 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Nói với con</b>
<b>Mở bài cảm nhận Nói với con</b>


- Giới thiệu tác giả Y Phương và bài thơ Nói với con


+ Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày, thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong
sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.


+ Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức
sống mạnh mẽ của quê hương đất nước và dân tộc mình.


- Đánh giá, cảm nhận chung về bài thơ
<b>Thân bài cảm nhận Nói với con</b>
a) Mạch cảm xúc của tác phẩm


- Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, qua đó bộc lộ
niềm tự hào về sự sống bền bỉ của quê hương mình


- Bài thơ đi từ tình cảm gia đình, mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần
gũi thân thuộc nâng lên thành lẽ sống.


b) Cảm nhận về bài thơ


Tình yêu thương, sự che chở đùm bọc của gia đình và quê hương với đứa con


- Người cha nhắc nhở con về cội nguồn sinh dưỡng, cha muốn nhắc nhở đứa con nhớ và
hướng tới tình cảm gia đình, cái nơi ni dưỡng con trưởng thành.


+ Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng niu và mong chờ của cha mẹ


+ Sử dụng nhiều từ láy, kết hợp với nhịp thơ 2/3 tạo ra âm điệu tươi vui bằng những hình ảnh


cụ thể: chân phải - chân trái; tiếng nói - tiếng cười; một bước - hai bước...


-> Khơng khí ấm áp, quấn quýt và hạnh phúc. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười đều
được cha mẹ chăm chút, đón nhận.


- Người cha cho con biết niềm vui của lao động và tình nghĩa của quê hương
+ Con sẽ lớn lên trong câu hát, nhịp sống và lao động của người đồng mình


+ Tác giả diễn tả những động tác cụ thể trong lao động, vừa nói lên cuộc sống lao động gắn
bó, vừa hịa quyện niềm vui


+ Hình ảnh thiên nhiên che chở, nuôi dưỡng con về tâm hồn và lối sống


+ Người cha nhắc tới ngày cưới - ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời - đó là điểm tựa của hạnh
phúc


=> Người cha muốn nói với người con vẻ đẹp của vùng quê giàu truyền thống và nghĩa tình.
* Phẩm chất đáng quý, tốt đẹp và truyền thống văn hóa của người đồng mình


- Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ mà cao đẹp của quê hương với mong muốn con tiếp nối, phát
triển => Niềm tự hào của người cha


- Phẩm chất của những người đồng mình hiện dần qua lời nói tâm tình của người cha: tấm
lịng thủy chung với nơi chơn rau cắt rốn, một cuộc sống tràn ngập niềm vui và sự lạc quan.
+ Nghệ thuật: Sử dụng điệp từ, điệp ngữ và cách so sánh cụ thể kết hợp nhiều kiểu câu ngắn
dài khác nhau


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

* Ước muốn của cha


+ Mong con thủy chung với quê hương



+ Biết chấp nhận khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của mình


+ Người đồng mình mộc mạc, dung dị, giàu ý chí và niềm tin, họ có thể thô sơ da thịt nhưng
không hề nhỏ bé, yếu đuối về ý chí


+ Người đồng mình biết cách nâng cao quê hương, xây dựng và duy trì truyền thống phong
tục tập quán của mình


+ Người cha muốn nhắn nhủ con phải biết tự hào vào truyền thống tốt đẹp và lối sống nghĩa
tình của quê hương và người đồng mình


+ Cha mong mỏi đứa con sống cao thượng, tự trọng, chân thật dù mộc mạc, đơn sơ để xứng
đáng với người đồng mình


+ Con tự tin bước đi, bởi sau lưng con cịn có gia đình, q hương, bởi trong tim con sẵn có
những phẩm chất quý báu của người đồng mình


<b>Kết bài cảm nhận Nói với con</b>


- Bài thơ Nói với con giàu hình ảnh, mộc mạc mà vẫn thơ mộng khi Y Phương thấu hiểu và
thể hiện được hồn cốt, bản sắc của người dân tộc


- Người cha nói với con chính là trao gửi tới thế hệ tiếp nối về truyền thống, niềm tự hào, khả
năng sống bền bỉ của những con người dù “thô sơ”, “nhỏ bé” nhưng đầy tự trọng và kiên
định.


<b>2. Cảm nhận bài thơ Nói với con - Mẫu 1</b>


Viết về tình cảm gia đình, quê hương và ước nguyện của cha mẹ gửi vào những thế hệ sau có


nhiều tác phẩm. Có nhiều bài thơ đã trở nên quen thuộc với độc giả như "Q Hương" Tế
Hanh, của Hồng Trung Thơng. Mỗi nhà thơ ln tìm thấy cho mình những hình thức khác
nhau để diễn đạt tình cảm nguyên sơ mà chân thành ấy. Y Phương cũng góp vào đề tài này
bài thơ "Nói Với Con". Bởi bài thơ đi từ tình cảm riêng là tình cảm gia đình mà nâng lên
thành lẽ sống, thành tình yêu quê hương, đất nước.


11 câu thơ đầu bài thơ Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước
sâu sắc. 4 dòng thơ mở đầu mở ra khung cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc, rộn rã, đầy ắp
tiếng nói, tiếng cười:


<i>"Chân phải bước tới cha</i>
<i>Chân trái bước tới mẹ</i>
<i>Một bước chạm tiếng nói</i>


<i>Hai bước tới tiếng cười"</i>


Tuổi thơ có mỗi chúng ta đầy ắp những kỉ niệm. Bài thơ "Con Cò" của Chế Lan Viên ghi lại
khoảnh khắc đầu đời của con trẻ khi cịn nằm trong nơi:


<i>"Con còn bế trên tay</i>
<i>Con chưa biết con cò</i>
<i>Nhưng trong lời mẹ hát</i>


<i>Có cánh cị đang bay"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

đi của con trẻ có ánh mắt chăm chú dõi theo, có tình u thương vơ bờ của cha mẹ. Và cứ thế
con lớn lên trong tình u thương, chăm sóc của gia đình.


Những câu thơ tiếp theo, Y Phương gợi ra hình ảnh quê hương đẹp đẽ, thơ mộng, ân tình để
làm nổi bật vẻ đẹp của con người nơi đây, đồng thời bộc lộ tình yêu, niềm tự hào về quê


hương:


<i>"Người đồng mình yêu lắm con ơi</i>
<i>Đan lờ cài nan hoa</i>
<i>Vách nhà ken câu hát</i>


<i>Rừng cho hoa</i>


<i>Con đường cho những tấm lịng"</i>


Cụm từ "Người đồng mình" chỉ những người cùng sống chung một quê hương bản làng, suy
rộng ra là những người sống chung trên một đất nước, lãnh thổ. Cách gọi của người cha mộc
mạc, bình dị nhưng xiết bao ân tình đằm thắm, xiết bao nghĩa tình của người cha dành cho
con và cho người đồng mình. Người đồng mình là những người yêu lao động, cần cù lao
động họ đang lờ để đánh bắt cá dưới núi, dưới khe. Vách nhà được thưng bằng gỗ bằng tre để
che chắn gió mưa bão tố đổ về. Người đồng mình đâu chỉ cần cù lao động mà cịn có đơi bàn
tay khéo léo, óc sáng tạo, giàu cảm xúc, giàu trí tưởng tượng. Với họ nan vầu, nan tre đã trở
thành những nan hoa đẹp đẽ. Vách nhà đâu chỉ ken bằng gỗ mà còn bằng những câu hát then,
hát lượn ngọt ngào quyến rũ của người Tày. "Nan hoa", "câu hát" đâu chỉ là hình ảnh tả thực
mà cịn là hình ảnh ẩn dụ, thể hiện cuộc sống tươi trẻ, tinh thần lạc quan vui sống. Nhờ đó mà
họ biến cuộc sống lao động thành thơ, đẹp như thơ. Cuộc sống của người đồng mình gần gũi,
chan hịa, gắn bó với thiên nhiên. Hình ảnh "hoa" được nhắc tới vừa là hình ảnh tả thực vừa
là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho tâm hồn tươi trẻ phong phú tràn đầy lạc quan. Hình ảnh
"con đường" cũng vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Con đường ở đây
nối bản gần với bản xa, con đường lên nương, lên rẫy, con đường vào thung lấy nước. Tất cả
đều in dấu chân của người đồng mình. Con đường tựa như một nhịp cầu gắn kết những con
người quê hương. Tấm lòng cũng được coi là hình ảnh ẩn dụ, chính là tấm lịng của q
hương theo con đường gần, đường xa để đến với quê hương, đất nước mình. Điệp từ "cho"
nhắc đi nhắc lại hai lần nhấn mạnh vẻ đẹp giàu có, hào phóng, thơ mộng, giàu yêu thương
của thiên nhiên, núi rừng dành cho con và cho người đồng mình. Từ những câu thơ bình dị


đó, ta thấy người cha mong con giữ gìn, trân trọng những giá trị của quê hương, gia đình, của
dân tộc mình. Hai dịng thơ cuối kết thúc bằng hình ảnh cha mẹ:


<i>"Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới</i>
<i>Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời"</i>


Ngày cưới là ngày khởi đầu của một mái ấm, của tình u đơi lứa. Ngày cưới là ngày gặp gỡ
của những tấm lòng, của những con người quê hương. Tình cảm riêng đã hồ và tình cảm
chung, tình cảm gia đình đã hịa vào tình cảm quê hương. Đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh đứa
con, kết thúc bằng hình ảnh cha mẹ, mở ra bằng cội nguồn gia đình, kết thúc bằng cội nguồn
quê hương, gia đình và quê hương sẽ mãi mãi ln bên nhau, nâng đỡ con trong suốt hành
trình dài của cuộc đời.


Sang đến khổ thơ thứ hai Y Phương đã thể hiện lòng tự hào về quê hương và niềm mong ước
của người cha, con sẽ là người kế tục và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê
hương, đất nước. Mở đầu vẫn là lời gọi ra thiết của người cha:


<i>"Người đồng mình thương lắm con ơi</i>
<i>Cao đo nỗi buồn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chỉ một chữ "thương" mà chất chứa cảm xúc yêu thương, cảm thông sâu sắc của người cha
dành cho con và cho người đồng mình. Từ cảm thán "con ơi" cất lên ở cuối dòng thơ khiến
dòng thơ nghẹn ngào, rưng rưng. Hai dòng thơ tiếp theo diễn tả cuộc sống thiếu thốn, nhọc
nhằn, cơ cực của người đồng mình. Y Phương đã diễn tả cách nói mộc mạc của người miền
núi. Nỗi buồn vốn là một khái niệm trừu tượng, nỗi buồn ấy nhiều vô hạn không thể cân đong
đo đếm hết được, chỉ có thể lấy độ cao chất ngất của núi non mới có thể đo, đếm được. Người
cha buồn vì đó là một cuộc sống lao động thủ cơng thô sơ, lạc hậu, thiếu thốn, lam lũ, vất vả
và cực nhọc. Nỗi buồn của người đồng mình cao như núi nhưng ý chí và tầm vóc của người
đồng mình lại khơng kém phần mạnh mẽ Chỉ có thể lấy cái xa ngất, rộng dài của thiên nhiên
mới có thể đo được. Hai câu thơ như thành ngữ cô đọng, đối sóng nhau cùng Khắc hoạ, làm


nổi bật vẻ đẹp, ý chí bản lĩnh, tâm trí sống để vượt qua gian khổ thử thách.


Câu thơ "Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn" cất lên tha thiết sâu lắng, mang âm hưởng của núi
rừng khiến cho lời nhắc nhở của người cha thêm sâu sắc. Hai câu thơ tiếp:


<i>"Sống trên đá không chê đá gập ghềnh</i>
<i>Sống trong thung không chê thung nghèo đói"</i>


"Đá gập ghềnh", "thung nghèo đói" vừa là hình ảnh tả thực, vừa mang tính khái quát. "Đá gập
ghềnh" gợi cuộc sống không bằng phẳng mà gian khổ, lam lũ cực nhọc. Điệp ngữ "không
chê" cùng với kiểu câu "sống... không chê..." khiến cho âm hưởng câu thơ thêm mạnh mẽ,
thiết tha, hoà vào khát vọng của người cha. Vất vả cực nhọc là thế nhưng người đồng mình
vẫn sống lạc quan, khơng chê cuộc sống nghèo đói, vẫn thủy chung trước sau như một với
quê hương. Đó cũng là lời nhắn nhủ của người cha về một lẽ sống thủy chung, ân tình, ân
nghĩa, gắn bó với q hương, đừng phũ phàng phũ phàng, đừng quay lưng ngoảnh mặt.
Nhưng gắn bó với cuộc sống quê hương đói nghèo cơ cực đâu có phải là chuyện dễ dàng.
Hiểu được điều đó người cha mong con hãy sống lẽ sống của "sông" và "suối":


<i>"Sống như sông như suối</i>
<i>Lên thác xuống ghềnh</i>


<i>Không lo cực nhọc"</i>


Nghệ thuật so sánh mang đậm âm hưởng miền núi, gợi ra một lối sống hồn nhiên, bền bỉ,
mạnh mẽ, phóng khống, trong sáng. Chỉ Khi ấy con người mới không lo cực nhọc, không sợ
gian nan dẫu đời nhiều lần ghềnh thác. Điệp từ "sống" nhắc đi nhắc lại hai lần vang lên như
một lời thề, một lời quyết tâm. Thành ngữ đối sóng "lên thác, xuống ghềnh" cho thấy dù quê
hương có vất vả nhọc nhằn, nỗi buồn chất cao như núi, nhưng người đồng mình khơng bao
giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau cắt rốn, nơi cha mẹ đã từng cày xới vun
trồng và luôn biết vượt qua gian khổ bằng ý chí và nghị lực vững vàng. Gởi trong lời nói với


con, người cha mong con biết chấp nhận, biết vượt qua gian lao và thử thách bằng ý chí và
niềm tin, hãy thẳng lưng mà bước, hãy ngẩng đầu mà đi, đi cho "Chân cứng đá mềm".


Phẩm chất của con người quê hương được người ta ngợi ca qua cách nói đối lập tương phản
giữa hình thức bên ngồi và phẩm chất bên trong:


<i>"Người đồng mình thơ sơ da thịt</i>
<i>Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con</i>


<i>Người đồng mình tự đục đá kê cao q hương</i>
<i>Cịn q hương thì làm phong tục"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình. Chính họ là những người sáng tạo và lưu
truyền những phong tục, tập quán, tốt đẹp riêng của dân tộc mình và lấy quê hương làm chỗ
dựa cho tinh thần mình. Điệp ngữ "quê hương" nhắc đi nhắc lại hai lần nhấn mạnh niềm tự
hào vô bờ bến của người cha dành cho quê hương.


Bốn câu thơ cuối bài thơ là lời nhắn nhủ chân thành về lẽ sống:
<i>"Con ơi tuy thô sơ da thịt</i>


<i>Lên đường</i>


<i>Không bao giờ nhỏ bé được</i>
<i>Nghe con"</i>


Cụm từ "thô sơ da thịt" được lặp lại cùng với cách nói nhấn mạnh "không bao giờ nhỏ bé
được" bộc lộ tha thiết niềm mong ước của người cha. Niềm mong ước ấy được đặt trong lời
nhắn nhủ "Con ơi", "nghe con" khiến cho câu thơ mềm mại, giọng thơ tha thiết, ngọt ngào,
tình rhow lan toả thấm vào lịng người. Điều người cha muốn nói với con ngắn gọn, hàm súc
mà sâu sắc, có chút nghiêm nghị của mệnh lệnh trái tim. Dẫu thô sơ da thịt nhưng đừng tầm


thường về lẽ sống và tâm hồn. Hãy sống có niềm tin, có ý chí để khơng bao giờ gục ngã trên
mỗi chặng đường dài. Làm được điều đó là con đã kế tục truyền thống của người đồng mình
và quê hương.


Bài thơ viết theo thể thơ tự do phù hợp với tư duy của người miền núi, nhịp điệu thơ linh
hoạt, tạo ra sự cộng hưởng với những cung bậc cảm xúc khác nhau. Ngơn ngữ giản dị, trong
sáng, hình ảnh cô đọng, mộc mạc và vẫn phong phú.


Y Phương đã góp vào đề tài tình cha con cao q, tình yêu quê hương sâu sắc một áng thơ
hay. Bởi yêu gia đình, quê hương là tình cảm nguyên sơ nhất của con người. Quả thật:


<i>"Quê hương nếu ai không nhớ</i>
<i>Sẽ khơng lớn nổi thành người</i>
<b>3. Cảm nhận bài thơ Nói với con - Mẫu 2</b>


Trong thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám có những đóng
góp khơng nhỏ của thơ ca các dân tộc anh em. Nơng Quốc Chấn, Bàn Tài Đồn,… là lớp các
nhà thơ đi trước. Y Phương là một trong các nhà thơ tiêu biểu sau này. Thơ Y Phương nói
riêng và thơ các dân tộc thiểu số nói chung có những đặc điểm riêng rất dễ nhận ra. Đó là
cách nói, cách nghĩ bằng hình ảnh, mộc mạc, cụ thể, giàu sức khái quát và cũng giàu chất thơ
về gia đình, về quê hương, đất nước. Tuy vậy, ở mỗi nhà thơ hình thành một phong cách
riêng, chẳng hạn như ở Y Phương là chất suy tư giàu trải nghiệm về lẽ sống, về đạo lí làm
người, về sự gắn bó với quê hương, đất nước. Đó là chất giọng lắng sâu tuy là thủ thỉ tâm tình
mà đầy nội lực.


Sức thuyết phục, sự lan toả cứ hồn nhiên mà toả rạng không một chút kiểu cách, phô trương
hay lí luận dài lời. Kết cấu bài thơ vừa theo chiều dọc: đứa trẻ sinh ra, lớn dần lên đến lúc
trưởng thành đã có thể đi xa "ni chí lớn", vừa phát triển theo chiều ngang: đứa trẻ gắn bó
trong tình thương mến của gia đình, của q hương, cịn đến lúc có thể đi xa, hình ảnh q
hương vẫn như bóng với hình trở thành một thứ hành trang tinh thần vơ giá. Để tiện phân


tích, chúng ta tạm thời cắt ngang bài thơ, chia làm hai đoạn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Chân phải bước tới cha</i>
<i>Chân trái bước tới mẹ</i>


Câu thơ tưởng như chỉ là kể, tả ra xiết bao trìu mến, thân thương. Tấm lịng của mẹ, của cha
là cái đích để đứa con hướng tới. Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn nhiên như mặt trời khơng
bao giờ mọc từ hướng tây. Tiếng nói, tiếng cười là cái phía hướng đơng rạng rỡ. Hình ảnh cụ
thể mà rất giàu chất thơ là ở cách đo đếm chiều dài:


<i>Một bước chạm tiếng nói</i>
<i>Hai bước tới tiếng cười</i>


Hai thao tác tư duy không cùng trong một hệ thống, vừa ngộ nghĩnh vừa sáng tạo biết bao !
Không biết đó là sáng tạo của nhà thơ, hay người Tày ở Cao Bằng xưa nay nói thế, và nếu đó
là khẩu ngữ, một cách nói quen miệng dân gian mộc mạc thì chính dân tộc Tày của tác giả
vốn dĩ đã có một hồn thơ. Câu thơ có được cái ấm áp, ríu rít, ngọt ngào, một thứ âm vang mà
những người làm mẹ, làm cha ai mà không bồi hồi xao xuyến. Tuy vậy, dù tấm lịng cha mẹ
có độ bao dung rộng lớn đến đâu, đứa con rất cần nhưng vẫn là chưa đủ. Ở đây có một bầu
sữa tinh thần thứ hai, đó là quê hương. Quê hương hiện lên bằng ba yếu tố: rừng, con đường
và "người đồng mình". Rừng, con đường tuy chỉ là những hiện tượng gỗ, đá vô tri nhưng
cũng biết đem cho những thứ mà đứa trẻ cần để lớn:


<i>Rừng cho hoa</i>


<i>Con đường cho những tấm lịng</i>


Cái đẹp của thiên nhiên, khơng chỉ là màu sắc, cái nhìn thấy mà cịn cả "tấm lịng", một dạng
thức vơ hình, chỉ con người mới có thể cảm nhận được, câu thơ đã đi dần vào chiều sâu và sự
khái quát. Rừng thì chở che, con đường thì mở lối, nhưng có lẽ đáng u hơn vẫn là con


người xứ sở:


<i>Người đồng mình yêu lắm con ơi.</i>


Vậy cái đáng "u lắm" đó là cái gì nếu không phải là cốt cách tài hoa và tinh thần vui sống:
<i>Đan lờ cài nan hoa</i>


<i>Vách nhà ken câu hát.</i>


Thì ra dưới cái dáng vẻ "thơ sơ da thịt", một tâm hồn lãng mạn biết bao! Mạch thơ có sự đan
xen : q hương và gia đình cùng ni đứa trẻ lớn lên ở chặng đường đời đầu tiên của bé. Ý
thức về nguồn cội sau này là từ cả hai chung đúc lại giúp cho đứa trẻ trưởng thành đặt chân
lên con đường dài, rộng hơn kế tiếp.


Phần thứ hai của bài thơ là những lời trao gửi, dặn dò khi đứa trẻ đã "cao" hơn, dặm bước
cũng "xa" hơn, xa cái mái nhà yêu thương và núi rừng quê hương. Ta bắt gặp ở đây một lần
nữa cái cách nói rất khác lạ mà cũng rất hay:


<i>Cao đo nỗi buồn</i>
<i>Xa ni chí lớn.</i>


Lấy sự từng trải (buồn) để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa. Chỉ có điều so với
đoạn trước, câu thơ có phần nhọc nhằn hơn và do đó rắn rỏi cũng nhiều lên. Đoạn thơ biết đặt
ra những vấn đề hệ trọng hơn, vấn đề lẽ sống :


<i>Sống trên đá không chê đá gập ghềnh</i>
<i>Sống trong thung không chê thung nghèo đói</i>


<i>Sống như sơng như suối</i>
<i>Lên thác xuống ghềnh</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Ở đây, con người trưởng thành phải nhận ra hoàn cảnh. Những đá những thung, những thác
những ghềnh là cái nghèo, cái khó bao vây. Đó là những thử thách rất khó vượt qua nhưng lại
nhất thiết bằng nghị lực phải vượt qua. Biểu hiện trước hết của nghị lực là khơng được bi
quan, than thở, rồi sau đó, nói như người Kinh "chân cứng đá mềm". Cách nghĩ ấy, cách sống
ấy có cái cốt cách Việt Nam được diễn đạt bằng một giọng điệu riêng nhưng không phải là
không cứng cỏi. Ba từ "sống" đặt ở đầu câu nối tiếp nhau không chỉ như một lời răn dạy
thông thường. Nó thành kính thiêng liêng như việc giữ lửa và truyền lửa cho nhau, đó là vấn
đề sống chết. Nói đến nghị lực cũng là nói đến nhân cách làm người. Nhân cách ấy là không
chịu "nhỏ bé", phải ngẩng cao đầu như "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"…
Một lần nữa, quê hương hiện lên như một nguồn tiếp sức, nhưng không phải như thời bé thơ
chỉ có an ủi, vỗ về, mà là tư thế thẳng bước mà đi, nhằm thẳng mục tiêu mà tiến.


Về nghệ thuật bài thơ, cùng với cách nói, cách sáng tạo hình ảnh (như trên đã phân tích), cần
bổ sung về nhịp điệu, giọng điệu, thể loại thơ và các biện pháp tu từ. về nhịp điệu thơ lúc
nhanh, lúc chậm, chậm trong kể tả, nhanh đến dồn dập thiết tha trong khát vọng làm người,
khi mạch thơ chỉ cịn là một mũi tên chí hướng. Đặc biệt mật độ mau thưa khơng đều của câu
nói về "người đồng mình" như một nốt nhấn, tạo nên một tiết tấu tự nhiên phụ thuộc vào cảm
xúc và ý nghĩ của người cha trong cuộc đối thoại đơn phương (hình tượng đứa con không
xuất hiện). Nếu ở phần đầu, sự dịu dàng, âu yếm là âm điệu chủ thì sau đó phần lí trí đã được
nâng lên. Nhưng dù là ngọt ngào hay nghiêm túc thì ẩn chìm trong dó vẫn là một tiếng nói
thiết tha vừa thương yêu vừa hi vọng. Riêng về thể thơ, Nói với con được viết bằng một thứ
thơ khơng gị bó, độ dài ngắn của từng câu thơ không đều nhau. Thể thơ tự do này thích hợp
với phong cách trị chuyện hằng ngày, phù hợp với một lối tư duy bình dị, hồn nhiên khơng
cần đến sự cầu kì, đẽo gọt. Ngồi ra, cũng cần chú ý những biện pháp tu từ, ví dụ điệp từ
(trong nhiều trường hợp), biện pháp đối lập nhằm làm nổi bật ý thơ như "Người đồng mình
thơ sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con", ở đây có sự đối lập giữa thể xác và tinh thần.
Hoặc hình thức nối tiếp theo kiểu bắc cầu : "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương –
Cịn q hương thì làm phong tục". Những yếu tố về nghệ thuật ấy tự nó bổ sung cho nhau
như tấm vải nhiều màu, những chiếc túi thổ cẩm xinh xinh, một thứ "túi thơ" của người miền


núi.


<b>4. Cảm nhận của em về bài thơ Nói với con siêu hay</b>


Ngơ Thế Vinh cho rằng: “Lời là tiếng nói của con tim, văn chương là cái làm cho lời dài
thêm vậy”. Tức thơ ca nói riêng và văn học nói chung là nơi kí thác những tâm sự, những nỗi
niềm của trái tim thi nhân. Từ ấy, mỗi khi ngâm khẽ tiếng thơ ta luôn giác ngộ được đâu đây
một lời nhắn nhủ chân thành của chính người viết dành cho ai đó, cho nhân sinh và cho cả
cuộc đời. Ngược dòng thời gian trở về với địa hạt thơ ca năm 1980, có một thi phẩm đặc sắc
đã ra đời, đó là "Nói với con" của Y Phương. Bài thơ là một khúc nhạc đan xen nhiều cung
bậc, vừa mộc mạc, nhẹ nhàng vừa hàm súc, cô đọng, vừa thủ thỉ tâm tình, vừa triết lý sâu xa.
Y Phương đã gợi nhắc cho con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi sinh linh trên cõi đời này,
về vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình.


Y Phương là một ngịi bút xuất sắc và tiêu biểu. Tác phẩm của ông khẳng định được vị thế
riêng trong thơ ca hiện đại bởi một “chất giọng” đặc trưng của người Tày, vừa đậm đà bản
sắc “người đồng mình", vừa rộng mở, giao hịa với vùng văn hóa rộng lớn để hợp lưu thành
con sông văn chương Việt Nam. Nhà thơ Y Phương vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa,
cần mẫn gom nhặt và làm sống dậy những giá trị nhân văn trong truyền thống văn hóa của
dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

bút Y Phương đã khơi gợi trong lòng độc giả những xúc cảm dạt dào khi hướng về cội nguồn,
về gia đình, về mảnh đất mình sinh ra và vẻ đẹp của những con người nơi ấy.


Thi phẩm mở ra với khúc nhạc dạo đầu gợi lên hình ảnh một gia đình đầm ấm, hạnh phúc,
ngọt ngào yêu thương:


<i>"Chân phải bước tới cha</i>
<i>Chân trái bước tới mẹ</i>
<i>Một bước chạm tiếng nói</i>



<i>Hai bước tới tiếng cười"</i>


Xuyên suốt bốn câu thơ là những hình ảnh đối xứng "chân phải - chân trái", một bước - hai
bước", "tiếng nói - tiếng cười", "cha - mẹ". Bốn câu thơ dùng với 15 thanh trắc, như 15 phím
đàn tấu nên những âm điệu gân guốc. Ngâm khẽ tiếng thơ, bất chợt ta mường tượng đến cảnh
đứa trẻ chập chững đi những bước đầu đời, vấp ngã, ịa khóc rồi lại khúc khích đứng lên
trong vịng tay chở che dìu dắt, trong ánh nhìn trìu mến của song thân. Bên phải con là "tình
cha ấm áp như vầng thái dương", bên trái con là "nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra",
con bước đi trong vòng tay chăm chút, trong niềm mừng vui đón nhận của gia đình.


Mẹ cha cẩn thận đếm từng bước đi của con “một bước”, “hai bước” với hết thảy những nâng
niu, trong chờ, dõi theo từng cử chỉ, từng bước chân bé nhỏ. Thước phim được chuyển đến
cảnh đứa bé bi bo tiếng "cha", tiếng "mẹ" ngọng nghịu trong niềm tự hào, niềm vui rạo rực và
cảm xúc vỡ òa của mẹ cha. Con như sứ giả của hạnh phúc mà Thượng Đế đã ban tặng cho gia
đình mình, biết bao lo toan, mệt nhọc của cha mẹ đều vượt qua được là nhờ vào "tiếng nói",
"tiếng cười" của con.


Là một thi sĩ từng đi lính âm hưởng, trong thơ của Y Phương còn vang lên những tiếng "một
- hai", "một bước - hai bước" như chính khẩu hiệu đi đều của khúc ca hành quân. Tiếng thơ
cứ thế vấn vương, khơi gợi trong "ốc đảo" tâm hồn con thơ và bạn đọc muôn đời một điều
tâm niệm của người cha: gia đình là cội nguồn sự sống là chốn bình yên ln u thương con
vơ điều kiện, ln đón chào, ơm ấp con.


Gia đình trao cho con sinh mạng, và con lớn lên, trưởng thành còn nhờ vào cuộc sống lao
động, văn hóa của người làng mình, nhờ q hương thơ mộng và thiên nhiên sâu nặng nghĩa
tình:


<i>“Người đồng mình yêu lắm con ơi</i>
<i>Đan lờ cài nan hoa</i>



<i>Vách nhà ken câu hát</i>
<i>Rừng cho hoa</i>


<i>Con đường cho những tấm lòng</i>
<i>Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới</i>
<i>Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

yếu ớt cuối ngày ngất lịm phía sau lưng đồi, họ quây quần bên nhau trong một ngôi nhà rông
để cùng hát ca, nhảy múa, để cuộc sống thêm tràn ngập niềm vui. Lối liên tưởng “vách nhà
ken câu hát” cịn ẩn chứa một nét văn hóa phi vật thể của người dân tộc. “Vách nhà” là chứng
nhân cho tình u lứa đơi. Những đêm trăng sáng lở lửng trên đỉnh đầu, người con trai ngồi
ngoài vách, người con gái ở bên trong vách. Họ cùng nhau tâm sự những vui buồn của cuộc
sống, hát cho nhau nghe những bản tình ca tuổi trẻ, hát tràn đêm đến sáng bạch. Từ những
câu hát ấy, tình yêu được kết tinh, nghĩa vợ chồng son sắt được hình thành.


Khi viết về quê hương, nếu nhà thơ Tế Hanh nhớ về dịng sơng q xanh biếc "nước gương
trong soi tóc những hàng tre" thì Y Phương thì lại viết về núi rừng và những con đường nghĩa
tình. Rừng cho hương sắc của hoa, rừng che chở, cung cấp nguồn nhựa sống dồi dào và duy
trì sinh kế cho người dân tộc.


Với người dân chài:


<i>"Biển cho ta cá như lịng mẹ</i>
<i>Ni lớn đời ta tự buổi nào"</i>
<i>(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)</i>


Còn với người dân Tày, những cánh rừng hoa ban trắng xịe tinh khơi hay hồng tím nhẹ
nhàng đã làm đẹp cho cuộc đời và dạy cho họ biết yêu quý thiên nhiên. Dường như tất cả
những gì tinh túy, đẹp nhất mẹ thiên nhiên đều ưu ái ban tặng cho con người. Khơng phụ tấm


lịng thiên nhiên, người đồng mình đã sống hịa mình gắn bó và trân q rừng thiêng sơng
núi. "Con đường" cũng mở rộng vịng tay chào đón những đứa con về với làng, với bản, đón
chào "những tâm hồn" đơn hậu, bình dị, hồn nhiên, vơ tư. Nhờ nó mà con người có thể đến
gần với nhau. Vì thế, con đường là sợi chỉ đỏ kết nối tình cảm, cũng là sợi tơ duyên để nối kết
những tâm hồn, trong đó có cha và mẹ.


Hình ảnh “ngày cưới” là “ngày đầu tiên”, là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ngày
cưới - ngày mà lời ca của cha mẹ trong những đêm trăng tròn đã tạo nên tình yêu trọn vẹn.
Ngày cưới - ngày khởi đầu ngày đặt nền móng cho hạnh phúc gia đình. Nhìn con khơn lớn,
suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ muốn con biết chính quê hương đã tạo cho
cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu. Dặn dò con về quê hương, về “người đồng
mình “, nhà thơ “chắt” vào con ý thức nhân sinh đẹp đẽ, đó là tình u q hương, bản quán.
Thi sĩ đã nâng nâng niu, ôm ấp và thổi vào hồn thơ vẻ đẹp phẩm chất của người dân Tày:


<i>"Người đồng mình thương lắm con ơi</i>
<i>Cao đo nỗi buồn</i>


<i>Xa ni chí lớn"</i>


Mỗi lần nhắc đến "người đồng mình", trái tim Y Phương lại thổn thức cất tiếng "yêu lắm" và
"thương lắm". Thứ tình cảm ấy cứ tha thiết chân thành, ngân dài bất diệt trong xuyên suốt
một bài thơ và cả một đời thơ. Có lẽ từ "thương" mang trong mình một cung bậc cảm xúc da
diết, trìu mến hơn "yêu". “Thương” ấy còn ẩn chứa một cái gì đó nghẹn ngào, xót xa. Hình
ảnh sóng đơi "nỗi buồn - chí lớn" phúng dụ cho phẩm tính của người dân Tày. "Nỗi buồn"
gợi đến đời sống tâm hồn rộng mở của người đồng mình được dựng xây từ những nỗi niềm
trầm tư. Cịn "chí lớn" là ý chí quật khởi, khát vọng sống mãnh liệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Người đồng mình dù phải oằn mình trong nghèo khổ, gian nan thì tình cảm thủy chung gắn
bó với q hương, cội nguồn vẫn mãi vẹn nguyên vẹn toàn:



<i>"Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn</i>
<i>Sống trên đá khơng chê đá gập gềnh</i>
<i>Sống trong thung khơng chê thung nghèo đói</i>


<i>Sống như sơng như suối</i>
<i>Lên thác xuống ghềnh</i>


<i>Không lo cực nhọc"</i>


Ba chữ “dẫu làm sao” đặt ở đầu câu thơ làm nhịp thơ thoáng chốc ngập ngừng. "Dẫu làm
sao” chăng nữa, dẫu cuộc đời có “vạn biến” khó lường, "cha vẫn muốn" con giữ được tâm thế
“bất biến”, không được quên cội nguồn sinh dưỡng. Có lẽ cõi lịng người cha chứa đầy những
dự cảm, đau đáu, lo âu về cái thời kỳ mà "cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm
tiền bạc". Và nối tiếp dự cảm là khao khát, là lời nhắc nhở con cũng như căn dặn chính mình
phải biết tự hào, gìn giữ và lưu truyền nếp sống ngàn đời của tổ tiên.


Điệp từ “sống”, điệp cấu trúc cùng các hình ảnh "sống trên đá, sống trong thung" gợi lên cuộc
sống đầy những gam màu lao lực, gian khổ. Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" tạo nhịp vận
động khơng ổn định như chính cuộc sống bấp bênh của những người con bản làng thấm đẫm
mơi hơi trên từng thửa ruộng. Có những kiếp người "dầm chân trong đời nghèo”, triền miên
trong nỗi bâng khuâng "q tơi cịn nghèo lắm" (Tiếng hát tháng giêng) nhưng họ vẫn "không
chê" đá, nghĩa là không chê mảnh đất nghĩa nặng tình sâu. "Khơng chê" thung, nghĩa là
khơng chê cuộc sống lam lũ, nghèo khổ và "không lo", không ngại nhọc nhằn, thiếu thốn.
Với sự lạc quan, nghị lực cùng tình yêu xứ sở, đồng bào nơi đây tìm mọi cách để thích nghi
và vươn lên cái khắc nghiệt, để ươm mầm hạnh phúc và hy vọng. Một lòng dành trọn tâm tư
cho quê hương, nhà thơ Y Phương vẫn giữ nguyên vẹn những "rung động bằng trái tim suối
nguồn và suy tư bằng sừng sững đá”. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi đến sức
sống bền bỉ, sống giao hòa với thiên nhiên bốn bề.


Người đồng mình sống với tâm hồn tràn đầy sinh lực, rộng mở, lãng mạn và khống đạt như


hình ảnh đại ngàn của sơng núi. Tình cảm của họ tựa như dịng sông trong veo và ngọt lành
đã tưới mát những tâm hồn lạc lõng giữa muôn trùng nỗi buồn. Tiếng thác suối thì thầm vang
vọng, mang theo cả bóng dáng q hương khắc tạc vào linh hồn người Tày, giúp họ thêm
kiên định "sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lịng Thủ đơ..."


Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả đã ngợi ca nét đẹp tự lập từ cường và tinh thần tự tơn dân
tộc của người đồng mình:


<i>"Người đồng mình thơ sơ da thịt</i>
<i>Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con</i>


<i>Người đồng mình tự đục đá kê cao q hương</i>
<i>Cịn quê hương thì làm phong tục."</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Hình ảnh "tự đục đá" gợi về một nét văn hóa gắn liền với cuộc sống của "người đồng mình".
Đó là việc họ đẽo đá kê chân cột nhà, làm nên những lối đi nghĩa tình... Sự liên hồn của ba
thanh trắc "tự - đục - đá" tạo nên thứ âm điệu trúc trắc nhằm tái hiện nỗi nhọc nhằn của
“người đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương trên đá. Sự liên hoàn của các thanh bằng
“kê - cao - quê - hương” lại mở ra hình ảnh một thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê
hương giữa mênh mang đất trời.


Bằng chính đơi bàn tay khéo léo cùng tinh thần tự lực tự cường, họ đã xây đắp và nâng đỡ
quê hương thăng hoa trên những nấc thang phát triển. Âm điệu chuyển từ trúc trắc đến nhẹ
nhàng tựa như một thước phim về hành trình của quê hương từ thuở “khai thiên lập địa” đầy
khó nhọc, nặng nề đến khi ung dung, khoan khoái đứng vững trên những “gập ghềnh” của đá.
Chính cuộc hành trình phảng phất những giọt mồ hôi, nước mắt ấy đã làm nên truyền thống,
làm nên phong tục cho mảnh đất quê hương. Và những truyền thống tốt đẹp của bản quán là
nền tảng, là điểm tựa tinh thần vững chắc để từ đó ta được lớn lên, được trưởng thành, được
"sống đàng hoàng như một con người".



Bốn câu thơ ngắn dài đan xen ở cuối thi phẩm vừa khép lại "khúc nhạc đàn tính" - Nói với
con, vừa khơi gợi trong lịng người đọc biết bao suy tư về lời thủ thỉ thiết tha, chân tình của Y
Phương dành cho con:


<i>“Con ơi tuy thô sơ da thịt</i>
<i>Lên đường</i>


<i>Không bao giờ nhỏ bé được</i>
<i>Nghe con.”</i>


Tiếng gọi "con ơi" được lặp đi lặp lại trong bài thơ như chan chứa niềm mong mỏi rằng lời
dạy của cha sẽ mãi bên con, cùng con vượt qua sự đời "thương hải tang điền". Ý thơ “Tuy thô
sơ da thịt” một lần nữa được xướng lên càng trở nên da diết, sâu sắc hơn. Có lẽ dụng ý của
nhà thơ là muốn mượn cái hình thức giản dị bề ngồi của thơn làng đơn sơ để gợi nhớ đến
truyền thống vĩ đại của quê hương, khắc sâu trong con những phẩm chất cao đẹp của “người
đồng mình”.


Rồi một mai này đây, con chẳng còn chập chững những bước đi đầu đời, con bắt đầu khăn
gói "lên đường", va vấp với xã hội ngoài kia. Rồi một mai này đây, cha thấy bóng lưng đứa
trẻ năm nào đang rảo bước trên con đường đời, con đường của chân trời mới, con đường dẫn
đến thế giới của "người trưởng thành". Mong rằng khi ấy, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng,
không được "ôn nghèo kể khổ", yếu mềm buông xi trước những thách thức của cuộc đời.
Cách nói “nghe con” như một lời khun chí tình dành cho con, cũng như thế hệ trẻ được
ni nấng trong tình thương của bn làng. Hãy nhớ rằng gia đình và q hương luôn dõi mắt
theo những bước chân của con như một người cha, ln dang rộng vịng tay ơm con vào lòng
như một người mẹ, để chữa lành những vết xước trong con, để con có thêm dũng khí, sức
mạnh và niềm tin. Bởi vậy, con hãy sống sao cho xứng đáng với truyền thống của quê hương,
với cái nôi linh thiêng của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Chất thơ sung mãn, lối viết khống đạt giàu hình ảnh, giàu sắc thái dung hịa con người với tự


nhiên đã tạo cho "Nói với con" của Y Phương một sức sống bền bỉ. Sức sống ấy khơng chỉ ở
ngơn từ, mà nó đã bật trào ra khỏi con chữ và phập phồng trên trang giấy. Tiếng thơ là lời răn
dạy của người cha, mong rằng dẫu mai này con có đi vào biển người tấp nập, dấn thân vào
nơi hào nhống của đơ hội, con cũng phải biết "uống nước nhớ nguồn", biết rằng mình sinh ra
là nhờ cái nơi hạnh phúc của gia đình, nhờ những truyền thống tốt đẹp của quê nhà. Cha cũng
mong con phải khắc cốt ghi xương hai tiếng "quê hương" vào tâm hồn và trái tim như Xuân
Quỳnh từng viết:


<i>"Mỗi người có một quê</i>
<i>Ngày dại thơ để ở</i>
<i>Tuổi thiếu niên để yêu</i>


<i>Và lớn lên để nhớ…"</i>


"Nói với con" đã lẳng lặng trở thành một bài thơ đời. Để rồi có những phút ngã lịng, ta vịn
vào thi phẩm để thêm yêu gia đình, để biết tự hào, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
của văn hố dân tộc ta.


<b>5. Cảm nhận bài thơ Nói với con ngắn gọn</b>


<i>"Q hương là gì hở mẹ</i>
<i>Mà cơ giáo dạy phải yêu</i>


<i>Quê hương là gì hở mẹ</i>
<i>Ai đi xa cũng nhớ nhiều".</i>


Ai cũng có một quê hương, nơi đầu tiên đón nhận tiếng khóc của ta và chào đón ta vừa lúc lọt
lịng. Nghĩ về q hương, trong mỗi người lại gợi lên một hình ảnh riêng nhất, đẹp nhất xen
lẫn một niềm xúc cảm chân thành lẫn tự hào. Bởi thế, dù đã có rất nhiều người nói về q
hương mình, làm thơ về q hương nhưng quê hương trong Nói với con của Y Phương vẫn


mang lại cho ta niềm xúc động sâu lắng.


Có lẽ, ai cũng thế, những gì người ta thường gợi để nhớ về quê hương là những gì chân chất,
mộc mạc, giản dị nhất. Nếu Đỗ Trung Quân gắn quê hương với hình ảnh "chùm khế ngọt",
"đường đi học", là "con diều biếc"... thì Y Phương đã chỉ cho con:


<i>"Người đồng mình yêu lắm con ơi</i>
<i>Đan lờ cài nan hoa</i>
<i>Vách nhà ken câu hát</i>


<i>Rừng cho hoa</i>


<i>Con đường cho những tấm lịng".</i>


Đó là một vùng quê núi rừng còn chưa phát triển, nhưng con người thì vơ cùng đáng q,
miền đất giàu truyền thống văn hố và nhất là mảnh đất ni dưỡng tâm hồn, tấm lòng chất
phác thiện lương. Những người đồng mình thương lắm nhưng cũng lớn lao đầy khí phách
trong cả nỗi buồn và chí hướng (Cao đo nỗi buồn; Xa ni chí lớn). Q hương trong Nói với
con có gì riêng nhưng cũng có cái gì đó rất chung.


Nhưng có lẽ, điều in sâu đậm nhất trong lịng mỗi đứa con (và người đọc chúng ta) là những
lời dặn dò, khuyên bảo của người cha. Đứa con trước cha, trước q hương ln mãi là một
hình ảnh u thương, bé bỏng nhất và lúc nào cũng cần được chờ che, dạy dỗ. Bài học của
cha luôn là động lực giúp con khôn lớn, cứng cỏi trước cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Sống trên đá không chê đá gập ghềnh</i>
<i>Sống trong thung khơng chê thung nghèo đói</i>


<i>Sống như sơng như suối</i>
<i>Lên thác xuống ghềnh</i>



<i>Khơng lo cực nhọc</i>
<i>Người đồng mình thơ sơ da thịt</i>


<i>Chẳng mấy ai bé nhỏ đâu con.</i>


Chính giọng điệu của đoạn thơ đã gieo vào lòng người cảm xúc về những lời căn dặn đầy
thân thương, chân thành, tha thiết. Dù hồn cảnh sống có thế nào thì con người ln phải
vượt lên hồn cảnh để mà sống. "Nỗi buồn" sẽ làm cho con người ta biết sống chịu đựng, ý
chí sẽ rèn luyện cho con người ta ln nỗ lực vươn tới, đi lên. "Cao đo nỗi buồn/ Xa ni chí
lớn" là những câu thơ có ý nghĩa như một lời động viên, là động lực mà người cha muốn
truyền cho con, giúp con luôn vững bước, đi xa hơn với những quyết định trong cuộc sống
của mình.


Mong con ln giữ bên mình niềm tin vào cuộc sống. Sống ở đời sẽ không tránh được nỗi
buồn, người biết sống cũng phải là người ln "ni chí lớn" để làm cho cuộc đời, cuộc sống
một điều gì có ý nghĩa. Đó cũng là kì vọng về tầm kích của con trong bước đường đời gian
nan.


"Cha" khơng biết nói gì hơn, người không thể thay thế cuộc đời, bước đi của con, người chỉ
biết khuyên con: "Dẫu làm sao?". Dẫu trên đường đời thắng lợi hay thất bại, khó khăn, vất vả
thì điều quan trọng là con phải biết chấp nhận và đừng bao giờ gục ngã. Khó khăn, thử thách
là nơi để rèn luyện tâm tính. Phải "sống như sông như suối" dẫu gặp "thác, ghềnh" ngăn cản
vẫn trôi chảy vượt qua. Nhưng điều quan trọng nhất mà người cha dạy con là không vong
bản, không quay mặt lại với mảnh đất đã ni mình khơn lớn. Đoạn thơ cho ta cái cảm giác
về ánh mắt nheo nheo của cha nhìn con, khuyên bảo con bằng tất cả sự ân cần, vỗ về, sẵn
sàng làm chỗ dựa vững chãi nhất, là vịng tay ln dang rộng cho con khi con cần niềm động
viên, an ủi.


Quê hương dẫu là vùng rừng núi hoang sơ còn nhiều gian nan, khổ cực, đói nghèo nhưng con


người - "người đồng mình" đã tự khẳng định bằng sức sống, nghị lực, ý chí và niềm tin, là
chân dung dũng sĩ:


<i>Người đồng mình thơ sơ da thịt</i>
<i>Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con</i>


<i>...</i>


<i>Con ơi tuy thô sơ da thịt</i>
<i>Lên đường</i>


<i>Không bao giờ nhỏ bé được</i>
<i>Nghe con.</i>


Đi xa, sống ở đâu, hãy luôn là người đồng mình, xứng đáng là người đồng mình khơng bao
giờ nhỏ bé.


</div>

<!--links-->

×