Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

GIỚI THIỆU VÀ TÌM HIỂU NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN, GIÁ TRỊ ĐẶC HỮU CỦA HỆ THỐNG CÁC ĐẢO VÀ QUẦN ĐẢO Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.66 KB, 43 trang )

Mơn: Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch
GIỚI THIỆU VÀ TÌM HIỂU NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN, GIÁ TRỊ ĐẶC
HỮU CỦA HỆ THỐNG CÁC ĐẢO VÀ QUẦN ĐẢO Ở NƯỚC TA
I.

KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG ĐẢO VÀ QUẦN ĐẢO VIỆT NAM.
Nước Việt Nam chúng ta bao gồm phần đất liền hình chữ S và các vùng biển, thềm
lục địa rộng gấp nhiều lần so với diện tích đất liền. Trong vùng biển, nước ta lại có các
đảo ven bờ, nhiều đảo và quần đảo xa bờ rất quan trọng như: quần đảo Hoàng Sa, quần
đảo Trường Sa, quần đảo Thổ Chu, đảo Bạch Long Vĩ...
Mỗi 1 hòn đảo là 1 thế giới thu gọn và tượng trưng cho từng đặc điểm riêng biệt về
phong cảnh đẹp đẽ và tài nguyên giàu có của biển. 3 ngàn hịn đảo là 3 ngàn cảnh sắc huy
hoàng và kho tàng quý báu của đất nước ta. Có người đã nói một cách tượng hình rằng
đất nước Việt Nam lưng tựa vào dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, 2 tay ôm lấy 2 quần đảo
tuyệt đẹp, ở phía đơng bắc và phía tây nam 2 chân đạp trên 2 quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Trước khi tìm hiểu về các đặc điểm cơ bản, giá trị đặc hữu của hệ thống đảo và quần
đảo nước ta, hãy cùng xem lại khái niệm về đảo và quần đảo.
Theo như công ước về Luật biển năm 1982, tại Điều 121, “ đảo” được định nghĩa
như sau: “Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thuỷ triều lên vùng đất này
vẫn ở trên mặt nước”.
Tại Điều 46, “ quần đảo” được xác định là “ một tổng thể các đảo, kể cả các bộ
phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và thành các phần tự nhiên khác có liên quan
với nhau đến mức tạo thành về thực chất một tổng thể thống nhất về địa lý, kinh tế và
chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử”.

I.1.

Vị trí địa lý và phân loại.
• Vị trí địa lý
Vùng biển nước ta có trên 4000 hịn đảo lớn nhỏ trong đó:


+ Vùng biển Đơng Bắc có trên 3.000 đảo.
+ Bắc Trung Bộ trên 40 đảo.
1


+ Còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa ở giữa biển Đông.
Phân loại:
+) Căn cứ vào vị trícủa đảo và quần đảo nước ta:
a. Hệ thống đảo gần bờ:
- Theo các nhà khoa học, là hệ thống đảo, quần đảo phân bố trên thềm lục địa, kể từ sát bờ


cho tới những đảo xa nhất là Bạch Long Vỹ, Hòn Hải, Bảy Cạnh, Thổ Chu, Phú Quốc,..
Theo định nghĩa về đảo nhỏ của UNESCO ( < 2000 km2 là đảo nhỏ, < 100 km2 là
đảo rất nhỏ) thì chỉ trừ 3 đảo Phú Quốc, Cái Bầu và Cơn Đảo là loại nhỏ, cịn lại tất cả
các đảo ở Việt Nam đều thuộc loại rất nhỏ. Cũng theo đó Việt Nam có tổng diện tích các
đảo gần bờ là khoảng 1720 km2 trong đó có 3 đảo lớn và 21 đảo trung bình và 60 đảo
nhỏ. Mặc dù số đảo ven bờ nhiều nhưng cũng chỉ có diện tích > 1 km2 là những đảo đủ
lướn để có thể sử dụng thuận lợi trong quốc phòng và phát triển kinh tế biển và quốc
phòng. Chúng chỉ chiếm 3,03 % số đảo ven bờ nhưng lại chiếm 92,78% tổng diện tích
-

các đảo.
Ven bờ Bắc Bộ tập trung nhiều đảo nhất tới 83,7% tổng số đảo
Ven bờ Bắc Trung Bộ có ít đảo nhất, chỉ tới 2% tổng số đảo.
Ven bờ Nam Trung Bộ và Nam Bộ tương đương nhau về số lượng đảo ( khoảng 7%)
nhưng về mặt diện tích thì các đảo ven bờ Nam Bộ lại khá tương đương với Bắc Bộ,
chiếm 40,3% tổng diện tích các đảo, còn đảo ven bờ Nam Trung Bộ chỉ chiếm 10% tổng


-

diện tích các đảo.
Các tỉnh có nhiều đảo nhất là Quảng Ninh (74,94%), Hải Phòng ( 8,76%), Kiên Giang

-

( 5,73%), Khánh Hoà ( 3,82%),..
Điều kiện tự nhiên trên các đảo đa dạng. Địa hình các đảo chủ yếu là đồi núi thấp trên đá
vôi, đá bazan và trên đá trầm tích có thế nằm khác nhau, với sườn dốc khoảng 15-35 độ.

-

Độ cao phổ biến của các đảo vào khoảng 100-200m.
Khí hậu các đảo ven bờ tương đối điều hoà hơn so với đất liền. Lượng mưa và độ ẩm của

-

các đảo vùng Nam Trung Bộ thấp hơn các vùng khác.
Các tài nguyên dạng khoáng sản, nước ngọt, đất canh tác trên các đảo là rất hạn chế.Một
số ít đảo có triển vọng dầu khí, có than với trữ lượng không lớn, vật liệu xây dựng như
cát, cao lanh. Tầng đất trên các đảo mỏng, thường xuyên bị rửa trơi nên nghèo chất dinh
dưỡng. Chỉ 20% diện tích tự nhiên có khả năng nơng nghiệp.
2


-

Thực, động vật trên các đảo nói chung phong phú, có nhiều lồi cây, con q hiếm. Trên
đảo có nhiều cây lấy gỗ, thuốc,quả, cây cảnh, cây làm thức ăn cho người và gia súc. Sinh

vật ở đảo, vùng biển quanh đảo phong phú và có giá trị kinh tế cao. Ngồi các sinh vật

-

phù du cón hàng trăm lồi động vật đáy.
Tiềm năng du lịch của các đảo ven bờ là thế mạnh nổi trội. Ở cả 3 vùng biển Bắc Bộ,
Trung Bộ và Nam Bộ hiện nay đều có nhiều khu du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng với các
đảo thuộc Vịnh Hạ Long, quần đảo Cát Bà, Hòn Mê, Cồn Cỏ và các đảo trong vịnh Vân

Phong, Cam Ranh, Côn Đảo,Phú Quốc,…
b. Hệ thống đảo xa bờ :
- Việt Nam có 2 quần đảo xa bờ là Hồng Sa và Trường Sa với trên 168 đảo, đá và bãi.
Trong đó Hồng Sa trên 37 đảo. Con số này chưa phải số liệu cuối cùng vì hiện nay
-

(2014) chưa có số liệu chính thức.
Một nghiên cứu địa chất về các rạn san hơ ở quần đảo Hồng Sa của nước ngồi cho biết
ở đây có tất cả 31 đảo, trong đó có 3 đảo rộng hơn 1,5 km2, 8 đảo thuộc cấp 0,1-0,5 km2,

-

5 đảo trong khoảng 0,05-0,09 km2, còn lại là các đảo nhỏ hơn 0,05 km2.
Ở Trường Sa tuy số lượng đảo, đá, bãi nhiều nhưng cũng chỉ có 16 đảo và diện tích tổng

-

cộng của các đảo đó chỉ khoảng 180 ha, tức 1,8 km2
Hai quần đảo xa bờ của nước ta được tổ chức thành 2 huyện đảo: Huyện đảo Hoàng Sa
được thành lập năm 1982 thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng và từ ngày 23/1/1997 trực
thuộc thành phố Đà Nẵng, huyện đảo Trường Sa được thành lập ngày 9/12/1982 trực


I.2.

thuộc tỉnh Đồng Nai, nay trực thuộc tỉnh Khánh Hồ.
Vai trị và tầm quan trọng của đảo, quần đảo nước ta.
* Về chính trị:
Việt Nam là một quốc gia tiếp giáp với biển, có vị trí địa-chính trị đặc biệt quan
trọng trong giao lưu quốc tế. Vai trị quyết định tới địa chính trị chính trên biển Việt Nam
cần nhấn mạnh tới vai trò của hệ thống đảo ven bờ và các quần đảo Hoàng Sa,Trường Sa.
Ở nước ta, 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa có vị trí chiến lược hết sức quan
trọng. Hai quần đảo này nằm rải rác,kéo dài từ bắc xuống nam, ở ngay giữa biển Đơng
như tấm bình phong che chở cho lãnh thổ Việt Nam. Hai quần đảo này khơng những nằm
ở vị trí tiền tiêu “ bảo vệ sườn đông của tổ quốc, bảo vệ vùng biển, các hải đảo ven bờ mà
còn giống như trại quan sát nổi theo dõi, kiểm sốt tồn bộ vùng biển Tổ quốc”.

3


Dải ven biển nước ta, hệ thống đảo ven bờ là phần lãnh thổ quan trọng ảnh hưởng
đến kinh tế-xã hội-chính trị của đất nước. “ Dải ven biển Việt Nam là một hành lang phía
đơng của bán đảo Đong Dương, hành lang này kéo dài theo phương bắc-nam trên 2000
km, không những là cửa mở, mặt tiền của các nước thơng thương với thế giới bên ngồi
và hội nhập quốc tế mà còn là cửa ngõ đi ra biển của nhiều quốc gia và lãnh thổ phương
Tây”. Vị trí địa lý của các đảo, quần đảo ảnh hưởng đến sự vững chắc của hệ thống quốc
phòng an ninh, cũng như thuận lợi để nước ta giao lưu kinh tế với các nước láng giềng.
* Về kinh tế:
Biển đảo là một phần lãnh thổ có vai trị lớn ảnh hưởng trực tiếp đến nề kinh tế
quốc dân. Công-nông-ngư là 3 ngành của kinh tế Việt Nam. Nguồn sản lượng động, thực
vật biển cùng trữ lượng khoáng chất trong biển là nguồn lợi về kinh tế nếu biết khai thác
đúng mực để không tác động đến cảnh quan tự nhiên. Đảo kết hợp với các dải ven biển là

cơ sở để phát triển các dịch vụ biển cũng như dịch vụ du lịch. Các dải ven biển gắn với
hệ thống đảo và quần đảo nước ta như: Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long với du lịch Quảng
Ninh và Hải Phòng; Hòn Tre, Hòn Mun với du lịch Nha Trang; Phú Quốc đối với du lịch
Kiên Giang,…
Ở các đảo và dải biển ven bờ thường hình thành các ngư trường rộng lớn, là tiềm
năng để phát huy khả năng đánh bắt thuỷ hải sản. Nhờ vậy, lượng hải sản thu bắt được
nhiều có thể đem bán ngồi thị trường hay xuất khẩu. Thu nhập nhờ hoạt động này chiếm
1 phần lớn tỉ trọng GDP ở Việt Nam
* Tạo nên nét đặc sắc trong văn hố Việt Nam:
Mơ hình văn hố của cư dân Bách Việt đã chi phối sâu sắc cuộc sống của người dân
trên mọi miền đất nước.Tuy nhiên, từ lâu người Việt cổ cũng đã nhận biết được một nền
văn hố mới có ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống của một bộ phận người dân ở Việt
Nam, đó là văn hoá biển đảo. Từ việc sinh sống dựa vào nguồn tài nguyên biển đảo, các
lớp ngư dân đã hình thành và tích luỹ vơ vàn các giá trị văn hố từ đời này sang đời khác.
Cũng vì sự gắn kết giữa biển và đảo ấy đã hình thành nên các nét đẹp văn hố mà nổi bật
trong đó là tín ngưỡng của người dân vùng ven biển hay các huyện đảo: tín ngưỡng thờ
Cá Ơng, tục thờ Tứ vị Thánh Nương, tục thờ Cơ Bác. Bên cạnh đó cũng có những kiêng
I.3.

kị từ việc chế tạo cơng cụ, chuẩn bị ra khơi, ra khơi và khi về bến.
Đặc điểm của hệ thống đảo và quần đảo Việt Nam.
4


Nhìn chung, hệ thống đảo và quần đảo Việt Nam có các đặc điểm sau:
- Hệ thống đảo, quần đảo Việt Nam giàu tài nguyên sinh vật.
- Kinh tế đảo, quần đảo có xu hướng tăng nhờ hoạt động kinh doanh du lịch và
các dịch vụ biển.
- Hệ thống đảo, quần đảo Việt Nam có tiềm năng về việc khai thác các nguồn
khoáng sản hay các nguồn năng lượng trên biển như sóng, gió,..

1.4. Giá trị đặc hữu của hệ thống đảo, quần đảo Việt Nam.
- Giá trị về cảnh quan, tài nguyên sinh vật
+ Tài nguyên sinh vật đảo
Động, thực vật trên các đảo tuy không phong phú như trên đất liền nhưng thường là
những loại quý hiếm, có giá trị kinh tế và giá trị về khoa học về nguồn gen và đa dạng
sinh học của chúng.
Đặc biệt là nguồn lợi hải sản, sinh vật trên bãi triều và vùng biển quanh đảo rất
phong phú và có giá trị kinh tế cao. Ngoài các sinh vật phù du, có hàng trăm lồi động vật
đáy (bào ngư, trai ngọc, nghêu, ốc nón, hải sâm…) san hơ, rong biển, với nhiều ngư
trường, bãi tơm, cá, mực có mật độ lớn, trữ lượng cao.
Nhìn chung, nguồn lợi sinh vật của các đảo ven bờ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ phong
phú hơn vùng phía Nam, ngược lại nguồn lợi hải sản: cá, tơm, mực… vùng biển ven đảo
phía Nam lại phong phú hơn.
Trên thềm san hơ quần đảo Trường Sa có nhiều loại hải sản quý như: hải sâm, rùa
biển, cá ngừ, tơm hùm, rong biển và các loại ốc có giá trị dinh dưỡng cao, nếu được khai
thác, chế biến tốt sẽ mang lại thu nhập lớn cho nhân dân và và làm hàng hóa xuất khẩu
thu lợi nhuận cao.
Cho đến nay, danh sách 15 khu bảo tồn thiên nhiên biển Việt Nam đều gắn liền với
các đảo.
Các hệ sinh thái đảo biển có chỉ số đa dạng sinh học cao >3,3, nhưng khối lượng
của các lồi sinh vật khơng lớn do diện tích đảo rất hạn hẹp và tính nhiệt đới của địa sinh
học. Trong khi đó các lồi đặc sản biển của đảo mang tính địa phương cao.

5


Khác với đất liền, hệ sinh thái rừng trên đảo phát triển rất khó khăn, phải trải qua
hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm và có tính đặc hữu cao, đem lại cho con người
những giá trị vật chất và tinh thần.
Tài nguyên rừng ở đảo không chỉ là sản phẩm từ rừng như gỗ, lâm sản ngoài gỗ mà

cịn là những dịch vụ mơi trường mà rừng mang lại như là áo giáp bảo vệ đảo, chống xói
mịn giữ ẩm cho đảo, là nguồn nuôi dưỡng mọi sự sống, là cảnh quan sinh thái có sức hấp
dẫn du khách.
Trong thảm thực vật rừng trên đảo phần lớn là các lồi cây có nguồn gốc từ đất liền,
và có những lồi thực vật có tính đặc hữu khác có giá trị dược liệu.
Tại đảo Cù Lao Chàm có tới 116 lồi cây có giá trị dược liệu, chiếm 22,8% tổng số
lồi. Thiên tuế là lồi cây cảnh có tính đặc hữu của Cù Lao Chàm được xếp hạng trong
sách đỏ, cần được bảo vệ.
Tại Hòn Giài, Cù Lao Chàm thiên tuế mọc thành “rừng”, cao 1m - 3m, có tuổi từ
100 – 200 năm là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn lợi động vật rừng trên đảo tuy
khơng phong phú nhưng có nhiều lồi sống rất gần gũi với con người như sóc, khỉ, khiếu,
vẹt.v.v.
Biển quanh đảo cũng có tính đa dạng sinh học cao với các sinh cảnh bãi cát, rạn san
hô, cỏ biển và các lồi động thực vật biển khác.
Tại Vườn quốc gia Cơn Đảo với 14.000 ha diện tích vùng nước là nơi có sự hiện
diện của 3 loại hệ sinh thái chính là hệ sinh thái rừng ngập mặn (18ha), hệ sinh thái cỏ
biển (200ha), hệ sinh thái các sạn san hô (1.000ha). Mối liên hệ của rạn san hô, thảm cỏ
biển và rừng ngập mặn đã tạo nên một môi trường thuận lợi cho sinh sản, ươm giống và
bảo tồn các loài sinh vật biển.
Khu hệ sinh vật biển đã thống kê được có 1.493 lồi trong đó: Thực vật ngập mặn
(Mangro forest) 23 loài, Rong biển (Algae) 127 loài, Cỏ biển (Seagrass) 11 loài, thực vật
Phù du (Phytoplankton)157 loài, động vật Phù du (Zooplankton) 115 lồi, San hơ (Coral)
342 lồi, thân mềm (Mollusa) 187 lồi, cá rạn san hơ (Coral reef fishes) 202 loài, Giáp
xác (Crustacea) 116 loài , Da gai (Echiodermarta) 75 loài, Giun nhiều tơ (Polycheta) 130
loài, thú và bị sát biển 8 lồi.
6


Kết quả nghiên cứu đã thống kê được ở thuỷ vực Cơn Đảo có tới 44 lồi là nguồn
gien cực kỳ quí hiếm của biển Việt nam và đã được đưa vào Sách đỏ.

Chúng bao gồm: 02 loài rong, 02 lồi thực vật ngập mặn, 03 lồi san hơ, 12 loài
thân mềm, 01 loài giáp xác, 04 loài da gai, 07 lồi cá, 07 lồi bị sát, 05 lồi chim và 01
lồi thú. Vùng nước nơng ven đảo là nơi phân bố nhiều loài động vật quý như rùa biển, cá
heo, bò biển (dugong) .v.v...
Sự đa dạng sinh học của vùng biển Cơn Đảo có ý nghĩa quốc gia về bảo tồn thiên
nhiên biển ở Việt Nam. Là một vùng đảo tương đối xa bờ, hoạt động của con người chưa
làm biến đổi lớn tính tự nhiên của các hệ sinh thái biển. Rạn san hơ ở đây cịn giữ được
những đặc tính đặc trưng cho vùng biển.
Các nghiên cứu cho thấy san hơ có độ phủ trung bình là 42,6%. Trong số rạn san hơ
nghiên cứu, có đến 74,2% san hơ đạt độ phủ cao, chỉ có 2,8% thuộc loại phủ thấp. Mật độ
cá rạn san hô ở những điểm nghiên cứu đạt trung bình 400 con/m2.
Đây là giá trị rất cao so với các vùng biển ven bờ khác ở Việt Nam. Hiện nay, Cơn
Đảo là vùng có nhiều rùa biển nhất ở Việt Nam, với hai loài thường gặp là đồi mồi và
tráng đơng. Có 17 bãi cát được ghi nhận là bãi đẻ của rùa, trong đó có đến bốn bãi được
ghi nhận là có 1.000 rùa mẹ lên đẻ hàng năm.
Côn Đảo cũng là nơi duy nhất ở Việt Nam còn tồn tại một quần thể bị biển
(Dugong dugong) có cuộc sống khơng tách rời các thảm cỏ biển.
+ Tài nguyên thuỷ, hải sản
Khai thác cá ở biển đảo phụ thuộc vào hai yếu tố có tính quyết định. Thứ nhất, vị trí
của đảo phải gần với các ngư trường khai thác truyền thống. Thứ hai là trình độ kỹ thuật
và tiền vốn.
Ngư dân ở đảo Phú Quý thường đi khai thác vây cá mập ở các vùng biển xa phải
mất hàng tuần, có khi tới hàng tháng.
Ngư dân ở đảo Cô Tô khai thác các loại cá kinh tế ở ngư trường Vịnh Bắc Bộ. Hiện
nay chính quyền địa phương đã tổ chức chợ cá trên vùng nước của vịnh Cô Tô, khá thuận
tiện cho lưu thông.

7



Các đảo thuộc Vịnh Bắc Bộ có khả năng phát triển nghề khai thác hải sản, nghề
nuôi cá lồng, bè qui mô vừa như Cô Tô, Cát Bà, Vĩnh Thực, Vân Đồn đạt hiệu quả cao.
Đối với các đảo lớn, gần ngư trường lớn như Trường Sa, Hoàng Sa, Phú Quốc, Phú
Quý, Lý Sơn, Côn Đảo và Cô Tô…việc khai thác, chế biến hải sản rất nhiều triển vọng
nếu được đầu tư vốn, công nghệ, dịch vụ hậu cần nghề cá.
- Giá trị về kinh tế:
Kinh tế các đảo và quần đảo góp phần tạo nên sự phong phú cho cơ cấu nền kinh
tế nước ta, đặc biệt là những nguồn thu từ hoạt động du lịch hay hoạt động khai thác
tài nguyên của đảo , quần đảo.
+ Hoạt động du lịch:
Vùng biển đảo Bắc bộ nổi tiếng với nhóm đảo thuộc Vịnh Hạ Long và Bái Tử
Long; Do đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát bờ biển đã tạo thành
nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vịnh, bãi cát trắng, hang động,
các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên
thế giới như di sản thiên nhiên vịnh Hạ Long được UNESCO xếp hạng, vừa qua bầu chọn
là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới.
Đảo du lịch nổi tiếng Tuần Châu là một trong những điểm dừng chân không thể
thiếu đối với du khách khi đến tham quan Hạ Long, Việt Nam. Một Di sản thiên nhiên thế
giới về cảnh quan và địa chất - địa mạo là vịnh Bái Tử Long, quần đảo Cát Bà (với các
Vườn quốc gia - khu dự trữ sinh quyển), vùng đảo Cô Tô, Trà Bản, Ngọc Vừng.
Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để phát triển các loại hình du lịch hiện đại
như nghỉ ngơi; dưỡng bệnh; tắm biển; du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học vùng ven
bờ, hải đảo, ngầm dưới nước; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua
thuyền…có thể tổ chức các giải thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế quanh năm; dịch vụ
hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế. Và thực tế không phủ nhận, du lịch biển, đảo
hiện đóng vai trị rất quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam.

8



Số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch cho thấy trong giai đoạn từ 2006-2010,
khách du lịch quốc tế đến tham quan, nghỉ dưỡng tại các tỉnh ven biển chiếm trên 70%.
Riêng thu nhập từ du lịch biển đảo đã chiếm tới 70% doanh thu của ngành du lịch.
Tính đa dạng và đặc thù của cảnh quan phần đất trên đảo và vùng biển xung quanh
đảo mang lại cho các đảo tiềm năng du lịch to lớn. Khơng khí biển - đảo và nước biển là
môi truờng trong lành nhất, là thiên đường của những du khách muốn tránh xa nhịp sống
ồn ào và nhiễm của đô thị, vui với biển, nắng, gió và cát.
Đảo biển thỏa mãn 3 yêu cầu của du lịch biển - 3 chữ S : sea (biển), shore (gió) và
sun (nắng), song khác với vùng biển ven bờ là chất lượng cao hơn nhiều lần. Ở các độ
cao 200m, 300m, thực vật có khả năng phát triển do nhiệt độ thấp, độ ẩm cao mang đặc
điểm khí hậu biển và khí hậu cao nguyên.
Ở đây có thể phát triển kinh tế sinh thái và du lịch, có thể xây dựng các nhà nghỉ
dưỡng, nhanh chóng phục hồi sức khỏe.
Ở các đảo ven biển Việt Nam có thể tìm thấy cảnh quan sinh thái kiểu này trên các
đảo: Hòn Khoai, Cái Bầu, Cù Lao Chàm, Cát Bà… Biển quanh đảo và các bãi cát thạch
anh trắng mịn cùng với hệ sinh thái san hô là nguồn tài ngun du lịch sinh thái biển vơ
giá.
Có thể tổ chức các cụm du lịch tắm biển, tham quan các hệ sinh thái san hô đa sắc
màu ngầm dưới nước mà không làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
Quần đảo Phú Quốc gồm 22 đảo lớn, nhỏ rộng 550km2, - là nơi được xem là vốn
quý để phát triển du lịch sinh thái, là nơi có rất nhiếu thắng cảnh thiên nhiên đẹp như Bãi
Thơm, Bãi Khem, suối Đá Bàng, suối Tranh…
Đặc biệt Bãi Dài đứng đầu danh sách các bãi biển đẹp được các hãng thông tấn
cũng như du khách nước ngồi bình chọn bãi biển đứng đầu 5 bãi biển đẹp nhất thế giới.
Ngoài sản phẩm du lịch sinh thái tự nhiên, thì cảnh quan sinh thái về văn hóa ở Phú
Quốc rất phong phú như: Làng chài, làng nước mắm, nuôi cấy ngọc trai, canh tác vườn
tiêu, văn hóa truyền thống Cách mạng (trại tù Phú Quốc), văn hóa lễ hội ẩm thực vùng
biển cũng rất đặc trưng.

9



Bãi biển chính trải dài với cát sạch tinh khơi. Quần đảo An Thới gồm 12 hịn đảo
nhỏ ở phía Nam Phú Quốc là một nơi thích hợp cho du lịch lặn với các rạn san hơ tuyệt
đẹp. Giống chó Phú Quốc nổi tiếng tinh khơn này có các xốy lông chạy dọc lưng, cùng
nhiều đốm lưỡi.
Đến Phú Quốc, khách nước ngồi rất thú vị với tour bơi lặn bình hơi, tour câu cá,
thẻ mực và câu cá chạy hay thưởng thức giao thừa cùng ngư dân trên đảo, cưỡi ngựa đi
chợ và làm chả cuốn cá bóp.
Tính đến nay, tỉnh Kiên Giang đã cấp phép trong 21 dự án cơ sở hạ tầng trên đảo
Phú Quốc trị giá 1,7 tỷ USD, chủ yếu cho các khu nghỉ mát dọc theo bờ biển.
Sân bay quốc tế Dương Tơ trên đảo trị giá 16.000 tỷ đồng (khoảng 910 triệu USD),
công suất 3 triệu hành khách/năm dự kiến hoàn tất trong năm 2012.
Với qui hoạch đảo Phú Quốc vừa được đều chỉnh đến năm 2030, tầm nhìn sau 2030
thực sự là địn bẩy cho Phú Quốc phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái sẽ là
ưu tiên hàng đầu của hòn đảo này.
+ Hoạt động khai thác các dịch vụ biển
Vai trò của các hệ thống đảo ven bờ trong dịch vụ biển còn rất khiêm tốn, nhưng
tiềm năng của chúng là to lớn như: dịch vụ giao thông vận tải biển; thơng tin liên lac, tìm
kiếm cứu nạn; dịch vụ đánh bắt hải sản; dịch vụ khai thác dầu khí, thương mại, du lich…
tiềm năng đó có được do vị trí phân bố của các đảo gần với các khu khai thác hải sản, dầu
khí hoặc các tuyến giao thơng vận tải biển.
Những đảo có tiềm năng lớn cho dịch vụ biển là: Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa,
Phú Quý, Lý Sơn, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu, Vân Đồn, Cát Bà, Cô Tô, Bạch Long
Vỹ…
- Giá trị về các tài nguyên phi sinh vật.
+ khoáng sản
Những nghiên cứu, khảo sát về tiềm năng khoáng sản trên các đảo còn chưa đầy đủ.
Tuy nhiên đã phát hiện được tiềm năng khoáng sản tại một số đảo như mỏ cát thủy tinh
tại Vân Hải (Quảng Ninh). Tại khu vực quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa cũng phát hiện

biểu hiện của khoáng sản như Pirit với hàm lượng khá cao (đạt 5,5 – 7,5% vật liệu trầm
10


tích tại vùng phía nam đảo), thạch cao (ở lớp trầm tích tầng mặt ở rìa quần đảo, thay đổi
từ 2,9 – 6,5%), Sắt - Mangan (tăng dần theo chiều sâu quanh đảo từ 500m – 3000m với
hàm lượng 1,5%).
Các đảo ven bờ nằm gần các bồn trũng có trữ lượng dầu khí như lớn các bồn (bể)
sơng Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Thổ Chu - Mã Lai… đã và đang được
thăm dò, khai thác.
Đặc biệt nguồn năng lượng mới băng cháy ( Hydrat) đang được đánh giá có nhiều
triển vọng ở vùng biển sâu quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Trên hệ thống đảo ven bờ có
khoảng 30 loại hình khống sản như: nhóm khống sản cháy (than), thủy tinh, cao lanh…
+ Năng lượng gió
Nhiều vùng đảo ngoài khơi như Bạch Long Vĩ, đảo Phú Quý, Trường Sa.v.v. là
những địa điểm gió có vận tốc trung bình cao, tiềm năng năng lượng gió tốt, có thể xây
dựng các trạm phát điện gió cơng suất lớn để cung cấp năng lượng điện cho dân cư trên
đảo.
Tại Đảo Cô Tô, căn cứ vào dữ liệu nhiều năm (25 năm) về chế độ gió của trạm khí
tượng thủy văn Cơ Tơ và kết quả đo gió trực tiếp trong 1 năm của Viện Khoa học Năng
lượng (Viện KH&CNVN) cho thấy huyện đảo Cơ Tơ có tiềm năng năng lượng gió rất
lớn: ở độ cao 10 m mật độ năng lượng trung bình và tổng năng lượng trung bình năm đạt
55.6W/m2 và 489.1KWh/m2, ở độ cao 80 m là 383.1W/m2 và 3371.5KWh/m2 ,
Theo tiêu chuẩn đánh giá của hiệp hội năng lượng gió thế giới, tại độ cao 25 m thích
hợp sử dụng điện gió cơng suất nhỏ, từ độ cao 50m đến 80m có khả năng sử dụng máy
phát điện sức gió cơng suất vừa và lớn.
+ Năng lượng mặt trời
Với đặc điểm có số giờ nắng và số ngày nắng trong năm cao, nhiều đảo của Việt
Nam còn có khả năng phát triển nguồn năng lượng mặt trời
Cũng tại đảo Cơ Tơ, các nhà khoa học đã tính toán tiềm năng và điện năng sản xuất

của một số modul pin mặt trời tại huyện đảo Cô Tô và cho thấy huyện đảo có tiềm năng
năng lượng mặt trời tương đối tốt, có thể khai thác làm nguồn cấp năng lượng cho huyện

11


đảo một cách hiệu quả. Có thể sử dụng thiết bị đun nước nóng mặt trời cho các hộ dân,
khách sạn, nhà hàng, khu du lịch.
+ Năng lượng sóng.
Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học thuộc Viện Cơ học và trường Đại học
Khoa học tự nhiên đã nghiên cứu tiềm năng năng lượng sóng tại khu vực vùng biển quần
đảo Trường Sa và tính tốn chi tiết tổng năng lượng sóng trung bình năm cho khu vực
nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn loại thiết bị chuyển đổi năng lượng sóng thành
điện năng thích hợp cho khu vực quần đảo Trường Sa.
Kết quả cho thấy, năng lượng sóng tại khu vực đảo Trường Sa lớn nói riêng và quần
đảo Trường Sa nói chung thuộc vào loại mạnh nhất trong các khu vực ven bờ và vùng
khơi lãnh thổ Việt Nam. Các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu và xác định được địa điểm
lắp đặt các thiết bị chuyển đổi năng lượng sóng thành điện năng và loại thiết bị phù hợp.
- Giá trị về an ninh-quốc phòng.
Đặc biệt các đảo và quần đảo có ý nghĩa chiến lược trong bảo vệ an ninh quốc
phòng. Các đảo và quần đảo tạo thành hệ thống tiền tiêu bảo vệ đất liền, hệ thống căn
cứ để nước ta tiến ra biển và đại dương, khai thác có hiệu quả các nguồn lợi vùng
biển, hải đảo và thềm lục địa. Việc khẳng định chủ quyền của nước ta đối với các đảo
và quần đảo có ý nghĩa là cơ sở để khẳng định chủ quyền của nước ta đối với vùng
biển và thềm lục địa quanh đảo.
II. Đặc điểm và giá trị đặc hữu của một số đảo, quần đảo của Việt Nam.
2.1. Các đảo, quần đảo xa bờ:
2.1.1. Quần đảo Hoàng Sa
* Khái quát chung:


12


Quần đảo Hoàng Sa là một trong hai quần đảo xa bờ thuộc chủ quyền của Việt Nam
từ lâu đời. Trong lịch sử quần đảo Hồng Sa cịn có tên là “Bãi cát vàng”. Tên quốc tế
thường được thể hiện trên các hải đồ là Paracels. Quần đảo gồm 37đảo, đá, bãi cạn, bãi
ngầm và một số đối tượng địa lý khác thuộc huyện Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng. Khu
vực quần đảo nằm trên vùng biển rộng khoảng 30.000 km2. Phạm vi quần đảo được giới
hạn bằng các đảo, bãi ở các cực Bắc, Nam, Đông, Tây như sau:
Vị trí các cực của quần đảo
Cực Bắc: đảo Đá Bắc

Vỹ độ Bắc
17o 06' 0"

Kinh độ Đông
111o 30' 8"

Cực Nam: Bãi ngầm Ốc Tai

15o 44' 2"

112o 14' 1"

Cực Đông: Bãi cạn Gị Nổi

16o 49' 7"

112o 53' 4"


Cực Tây: đảo Tri Tơn

15o 47' 2"

111o 11' 8"

Voi

Quần đảo gồm 37 đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và một số đối tượng địa lý khác thuộc
huyện Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng. Tổng diện tích phần nổi khoảng 10 km2, đảo lớn
nhất là Phú Lâm, có diện tích khoảng 1,5 km2. Khu vực quần đảo Hoàng Sa thuộc vùng
biển rộng khoảng 30.000 km2, nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,
Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi. Phạm vi quần đảo này được giới hạn bởi đảo
Đá Bắc ở cực Bắc, bãi ngầm Ốc Tai Voi ở cực Nam, bãi cạn Gị Nổi ở cực Đơng và đảo
Tri Tơn ở cực Tây.
Các đảo tại đây được chia thành 2 cụm. Cụm Lưỡi Liềm có hình cánh cung hay lưỡi
liềm, nằm ở phía Tây quần đảo, gần đất liền Việt Nam, gồm 08 đảo chính là Đá Bắc,
Hồng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh, Quang Hịa, Bạch Quy, Tri Tơn và các bãi
ngầm, mỏm đá. Cụm An Vĩnh được đặt tên theo xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi, nằm ở phía Đơng, bao gồm các đảo tương đối lớn đồng thời cũng là các đảo
san hô lớn nhất Biển Đông như đảo Phú Lâm, đảo Cây, đảo Linh Côn, đảo Trung, đảo
Bắc, đảo Nam, đảo Tây, đảo Hịn Đá…
Hồng Sa nằm trong vùng "xích đạo từ" có độ sai lệch từ không thay đổi hoặc thay
đổi rất nhỏ, rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch. Trên một số đảo có nguồn nước ngọt,
13


đa dạng các loại cây cối, vô số chim và đặc biệt là có nhiều rùa biển sinh sống. Hồng Sa
cịn có nguồn tài ngun có thể tái sinh lớn. Theo nhà nghiên cứu La Fontaine, quần đảo
là nơi sinh sống của các sinh vật như rùa, chim…. Tại đây cịn có tiềm năng lớn về

khống sản và nguồn hải sản phong phú với nhiều lồi có giá trị cao như tôm hùm, rùa,
đồi mồi, bào ngư quý hiếm…
- Điều kiện tự nhiên:
Thời gian nắng ở quần đảo Hoàng Sa dao động trong khoảng 2.400-2.600 giờ/năm,
trong đó mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10) có thời gian chiếu sáng khoảng 1300 giờ, lớn
hơn so với mùa Đông (từ tháng 11 đến tháng 4). Trong các tháng mùa hè thời gian chiếu
sáng ở quần đảo Hồng Sa ln lớn hơn ở quần đảo Trường Sa.
Nhiệt độ khơng khí ở vùng biển Hồng Sa có giá trị thấp nhất 22o-24oC trong tháng
1, tăng dần đạt cực đại 28.5o -29oC trong tháng 6, 7 và giảm từ từ tới 25oC vào tháng 12.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng nhiệt độ cao nhất và thấp nhất là 5.5oC-6oC.
Chế độ gió vùng quần đảo Hoàng Sa phức tạp và thể hiện ảnh hưởng của địa hình
lục địa Việt Nam và Trung Quốc. Vào mùa hè hướng gió Tây Nam chiếm ưu thế 57%,
các hướng gió Tây, Nam, Đơng-Nam khoảng 10-12%. Các hướng gió Đơng, Đơng-Bắc
và Bắc đều xuất hiện với tần suất thấp. Vận tốc gió trong mùa hè trung bình 5-7 m/s.
Trong mùa Đơng gió Đơng-Bắc chiếm ưu thế với tần suất 48-50% và tốc độ 7-10m/s.
Hướng gió Bắc có tần suất 27-30% và tốc độ 7-10m/s. Các hướng gió Đơng, Đông Nam,
Nam và Tây Bắc đều xuất hiện trong mùa Đông với tần suất thấp và vận tốc cực đại đạt
7-10 m/s.
Lượng mưa trung bình nằm ở quần đảo Hồng Sa khoảng 1.200-1.600mm, thấp hơn
nhiều so với mưa ở vùng đảo Trường Sa và các vùng khác trên đất liền. Mưa chủ yếu tập
trung vào mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10) lượng mưa trung bình hàng tháng 100200mm, đạt 200-400mm trong tháng 10. Lượng mưa trung bình trong mùa Đông (từ
tháng 11 đến tháng 4) 200-300mm với lượng mưa hàng tháng 20-25mm (tháng 1,2,3) và
đạt đến 50-100mm trong tháng 12 đến tháng 4.
Độ ẩm tương đối trung bình ở Hồng Sa 80-85% và hầu như khơng bị biến động
nhiều theo mùa. Các quan sát cho thấy trong các tháng 1 (đặc trưng cho mùa Đông),
tháng 7 (đặc trưng của mùa hè), tháng 4 và tháng 10 (các thời kỳ chuyển tiếp), độ ẩm
tương đối đều không đổi và bằng 80 - 85%.
14



So với quần đảo Trường Sa thì Hồng Sa nằm gần đại lục hơn và vì vậy các trường
sóng, gió chịu ảnh hưởng của địa hình các lục địa. Trong mùa Đơng, sóng Đơng Bắc
chiếm ưu thế với tần suất 70–72% với độ cao cực đại đạt tới 4–6m. Các hướng sóng
Đơng và Bắc có tần suất 10–15% và có độ cao cực đại 3–4m. Trong mùa hè, hướng sóng
Tây-Nam chiếm ưu thế, 53–55%. Độ cao sóng 3–4m, chiếm 12% và cực đại 4–6m, chiếm
1-2%. Sóng hướng Nam chiếm 23–25% và có độ cao cực đại 3–4m. Các hướng sóng
khác có tần suất thấp và độ cao nhỏ hơn 3–4m.
Trong các thời kỳ chuyển đổi mùa, tháng 4 và tháng 10, trong khi ở quần đảo
Trường Sa, sóng Đơng Bắc có tần suất giảm xuống 20–25% thì ở Hồng Sa hướng sóng
này vẫn chiếm ưu thế 50-60% và độ cao sóng vẫn có thể đạt tới 4–5m.
Đặc điểm phân bố của trường nhiệt đã được nghiên cứu theo diện và theo chiều sâu.
Vào mùa hè, nhiệt độ nước biển bề mặt thay đổi trong giới hạn 29oC.
Mùa Đông, trong dải độ sâu 0–10 m trường nhiệt ít biến động với các giá trị 25oC26oC.
Trong mùa hè độ mặn nước biển bề mặt ở vùng quần đảo Hoàng Sa biến đổi phức
tạp với các giá trị lớn hơn 34‰.
Trong mùa Đông, ở tầng sâu 0–10m độ mặn nước biển có xu hướng tăng dần từ
Đông sang Tây, từ các giá trị 33‰–34‰. Độ mặn nước biển tăng dần theo độ sâu đạt các
giá trị 33.9‰-34‰ và 34.5‰–34.6‰ ở các độ sâu 50 và 100m. Dưới những độ sâu này,
từ 100 đến 300m, độ mặn ít biến đổi và ổn định trong giới hạn 34.5‰–34.7‰. Đồng thời
trên hầu hết các tầng sâu xu hướng tăng dần độ mặn từ Đông sang Tây cũng luôn được
thể hiện.
* Đặc điểm và giá trị đặc hữu.
- Giá trị về sinh thái, sinh vật
Động, thực vật trên các đảo tuy không phong phú như trên đất liền nhưng thường là
những loại quý hiếm, có giá trị kinh tế và giá trị về khoa học về nguồn gen và đa dạng
sinh học của chúng.
Đặc biệt là nguồn lợi hải sản, sinh vật trên bãi triều và vùng biển quanh đảo rất
phong phú và có giá trị kinh tế cao. Ngồi các sinh vật phù du, có hàng trăm loài động vật
đáy (bào ngư, trai ngọc, nghêu, ốc nón, hải sâm…) san hơ, rong biển, với nhiều ngư
trường, bãi tơm, cá, mực có mật độ lớn, trữ lượng cao. Trên thềm san hơ quần đảo Hồng

Sa có nhiều loại hải sản quý như: hải sâm, rùa biển, cá ngừ, tôm hùm, rong biển và các
15


loại ốc có giá trị dinh dưỡng cao, nếu được khai thác, chế biến tốt sẽ mang lại thu nhập
lớn cho nhân dân và và làm hàng hóa xuất khẩu thu lợi nhuận cao. Tài nguyên rừng ở đảo
không chỉ là sản phẩm từ rừng như gỗ, lâm sản ngoài gỗ mà cịn là những dịch vụ mơi
trường mà rừng mang lại như là áo giáp bảo vệ đảo, chống xói mịn giữ ẩm cho đảo, là
nguồn ni dưỡng mọi sự sống, là cảnh quan sinh thái có sức hấp dẫn du khách. Biển
quanh đảo cũng có tính đa dạng sinh học cao với các sinh cảnh bãi cát, rạn san hơ, cỏ
biển và các lồi động thực vật biển khác.
Với độ phong phú về thủy hải sản và sinh vật, đảo Hồng Sa có điều kiện vơ cùng
thuận lợi cho việc phát triển du lịch sinh thái, du khách đến đây với chuyến du lịch khám
phá thiên nhiên hoang sơ của đảo cùng chiêm ngưỡng và tìm hiểu về các động thực vật
quý hiếm mà không phải nơi nào cũng có.
- Giá trị du lịch- dịch vụ biển.
Quần đảo Hồng Sa có các đảo chính gồm cụm Song Tử gồm bốn đảo nhỏ: Đá Bắc,
Song Tử Đông, đảo Song Tử Tây và đá Nam, trong đó có một đảo dài khoảng 1km, Bãi
Đinh Ba, Một bãi cạn nửa nổi nửa chìm khoảng 14-11km, bãi núi Cau, đảo Thị Tứ được
tạo bởi hai đảo san hô mà đảo lớn nhất có kích thước 1-5-1km, tại đó có thực vật và nước
ngọt; Đá xubi là một rạng san hô; Đảo loai ta là một đảo nhỏ dài 0,3km nằm trong một
bãi cạn lớn nửa nổi nửa chìm, cụm Nam Yết gồm hai đảo chính và ba đảo đá ngầm, trong
đó có đảo Ba Bình có kích thước 1-04km, tại đảo này cịn có giếng nước ngọt.
Với những nguồn tài ngun là các rạn san hô lớn, các bãi cạn nửa nổi nửa chìm là
điều kiện vơ cùng thuận lợi cho các chuyến du lịch nghỉ dưỡng trên đảo.
Nơi đây cịn có đảo đá lớn với đá thám hiểm lớn, đây là một loại đá ngầm có hình
vành khun. Với tài ngun đá thám hiểm này quần đảo Hồng Sa có điều kiện thuận lợi
cho các chuyến du lịch thám hiểm cộng với nghỉ dưỡng.
Nơi đây cịn có điều kiện thuận lợi nữa. Đảo Đá Chữ Thập, là một bãi cạn nửa nổi
nửa chìm dài khoảng 26km hình thành một hồ nửa kín trong đó có mộ số đá ngầm nhơ

cao.
Cùng các rạn sn hơ, đảo đá Quần đảo Hồng Sa cịn có rất nhiều các bãi cát lớn nhỏ
cịn rất hoang sơ và kì vĩ,…
Vai trị của các hệ thống đảo ven bờ trong dịch vụ biển còn rất khiêm tốn, nhưng
tiềm năng của chúng là to lớn như: dịch vụ giao thơng vận tải biển; thơng tin liên lac, tìm
16


kiếm cứu nạn; dịch vụ đánh bắt hải sản; dịch vụ khai thác dầu khí, thương mại, du lich…
tiềm năng đó có được do vị trí phân bố của các đảo gần với các khu khai thác hải sản, dầu
khí ..
- Giá trị về chính trị- an ninh quốc phịng.
Vị trí chiến lược của quần đảo Hồng Sa được thể hiện ở chỗ có thể dùng các quần
đảo này cho các mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các
trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè qua lại, kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại
biển Đông. Năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và
hiện nay đang chiếm đóng trái phép trên tồn bộ quần đảo này. Đây cũng là vẫn đề nóng
trong mấy năm trở lại đây, qua đó cũng khẳng định vị trí, vai trị và giá trị của Hồng Sa
về vấn đề an ninh quốc phòng.
2.1.2. Quần đảo Trường Sa
* Khái quát:
- Cách đảo Tri Tôn, đảo cực nam của quần đảo Hồng Sa khoảng 300 hải lí là quần
đảo Trường Sa ( Khánh Hoà).
- Quần đảo Trường Sa nằm về phía Đơng Nam nước ta, ở giữa biển Đơng trong
khoảng từ kinh độ 111030’ đến 117020’ Đông và từ vĩ độ 6050’ đến 120 Bắc. Hòn đảo gần
bờ nhất là đảo Trường Sa cách vịnh Cam Ranh 250 hải lí và cách đảo Hịn Hải 210 hải lí.
Tồn bộ quần đảo gồm trên duới 100 hòn đảo, đá, cồn, bãi trải rộng trên một vùng biển
ước chừng 16 đến 18 vạn km2. .
- Quần đảo Trường Sa nằm giữa biển Đơng về phía đơng nam nước ta, phía Bắc
giáp đảo Hồng Sa, phía Đơng giáp biển Philipin, phía Nam giáp biển Malaysia, Runay

và Indonesia. Từ trung tâm quần đảo Trường Sa cách Cam Ranh 243 hải lý, cách Vũng
Tàu 440 hải lý. Quần đảo Trường Sa án ngữ đường hàng hải quốc tế nối liền Thái Bình
Dương với Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương, giữa Châu Âu, Châu Phi, chung cập đông
với Trung Quốc và Nhật Bản với các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Đây là một
trong 10 tuyến đường hàng hải lớn trên thế giới, giao thông nhộn nhịp đứng thứ hai thế
17


giới sau Địa Trung Hải. Trung bình mỗi ngày có từ 250 đến 300 tàu biển các loại đi qua
biển Đơng.
Quần đảo Trường Sa xứng đáng là “nơi đầu sóng ngọn gió”, là vị trí tiền tiêu của Tổ
quốc Việt Nam vả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. 2 quần đảo xa bờ Hoàng Sa và Trường Sa
được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển với vị trí đặc biệt quan trọng như 1 tuyến
phòng thủ tiền tiêu bảo vệ sườn đông đất nước
Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 hịn đảo nhỏ và bãi san hơ với diện tích vùng
biển rộng khoảng 160 ngàn đến 180 ngàn km 2. Khí hậu thời tiết ở quần đảo Trường Sa
khá bất tiện, hiếm nước ngọt. Một năm có tới 131 ngày bão gió từ cấp 6 trở lên. Mỗi
tháng có từ 13 đến 20 ngày gió mạnh.
* Đặc điểm và giá trị đặc hữu:
+) Đặc điểm
- Đặc điểm địa lý
+Vị trí: nằm ở Đơng Nam Châu Á trên vùng biển Đông.
+ Tọa độ trung tâm: 8039’N – 111055’E.
+ Diện tích các đảo: tổng số khơng q 5 km2
+ Diện tích biển: nằm trên diện tích 180.000 km2 giữa biển Đơng.
+ Đường bờ biển dài 926 km
+ Khí hậu nhiệt đới; địa hình bằng phẳng
+ Tài nguyên thiên nhiên: Hải sản, phân chim, dầu khí, khí gas.
- Đặc điểm dân cư khu vực


18


Quần đảo Trường Sa đã được người Việt tổ chức khai thác cá, phân chim từ thế kỷ
thứ X và mạnh mẽ ở thế kỷ XVII. Trường Sa đã được xác định là 1 phần của tỉnh Quảng
Ngãi và hiện trực thuộc tỉnh Khánh Hòa. Dân chài thường từ đất liền ra đảo khai thác dài
ngày và quay lại đất liền sinh sống. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, Trường Sa bị quân đội
nhiều nước chiếm đóng trái phép và trở thành khu vực luôn bất ổn về an ninh. Đến nay
dân cư trên đảo chủ yếu là lính và một số không nhiều người dân được di cư từ đất liền ra
và một số ít cơng nhân đèn biển, vận hành sân bay, cầu cảng. Duy nhất trên thị trấn
Trường Sa, Nam Yết, Sinh Tồn và Thị Tú hiện đang có dân sinh sống, được tổ chức thành
các xã và thị trấn. Số lượng dân đánh cá vãng lai qua đây rất đông cùng với 1 lượng
khách du lịch.
- Đặc điểm an ninh xã hội quần đảo Trường Sa.
Quần đảo Trường Sa là một phần lãnh thổ không thể chia cắt của Việt Nam. Tính
đến tháng 10 – 1998, Việt Nam đang đóng quân trên 32 điểm thuộc 21 đảo và bãi đá
ngầm. Các nước khác như Philipin, Trung Quốc, Malaixia, Đài Loan cũng đang chiếm
đóng trái phé quần đảo, bãi ngầm, rạn ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Đặc biệt có một
số đảo lớn như Thị Tứ với diện tích 37,2 ha đang bị Philipin chiếm trái phép; đảo Bình
Ngun với diện tích 62 ha bị Đài Loan chiếm đóng trái phép. Đặc biệt, Trung Quốc đã
dùng lực lượng quân đội xâm chiếm 1 loạt các đảo san hơ ngầm và xây các cơng trình
qn sự ở đây. Malaixia cũng là nước chiếm đóng trái phép nhiều đảo của Việt Nam. Sau
khi chiếm được đảo, các nước thường xây dựng căn cứ quân sự, thậm chí di dân ra các
đảo lớn để sinh sống. Các hoạt động bất hợp pháp của các nước đã gây ra sự mất an ninh
trầm trọng ở vùng biển Trường Sa của Việt Nam.
- Đặc điểm ngành nghề
+ Các hoạt động khai thác biển: Nguồn tài nguyên của Trường Sa bao gồm nguồn
hải sản, dầu khí, gas tự nhiên, phân chim và là đường hàng hải quan trọng bậc nhất trên
biển Đông. Theo các kết quả nghiên cứu được cơng bố thì hoạt động thăm dị dầu khí ở
19



Trường Sa đã được tiến hành từ năm 1973 dưới thời Việt Nam cộng hòa. Tuy nhiên, các
hoạt động khai thác dầu khí vẫn chưa có điều kiện triển khai tại khu vực này; cá có sản
lượng khai thác đạt từ 10 – 99 kg/km 2... Các hoạt động chính tại Trường Sa bao gồm
thăm dò, nghiên cứu, đánh bắt hải sản, dịch vụ vận tải đường biển và đường không, du
lịch sinh thái.
+ Các hoạt động nghiên cứu, khảo sát
Ngay từ thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã tổ chức các đoàn thuyền khảo sát và
khai thác các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Giai đoạn 1630 – 1653, bản đồ về quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam đã được xuất bản. Trước thế kỷ XVII,
người Bồ Đào Nha và Hà Lan đã nghiên cứu và vẽ bản đồ Trường Sa và Hoàng Sa là các
đảo thuộc Việt Nam. Tiếp theo đó có rất nhiều chuyến nghiên cứu ở vùng này và đã có
hàng trăm cơng trình cồn bố của người Việt Nam và người nước ngồi có liên quan đến
quần đảo Trường Sa.
+ Các hoạt động phát triển kinh tế trên đảo
°

Xây dựng trên quần đảo Trường Sa: trong tổng số trên 130 đảo, có tới 28 đảo có cơng
trình xây dựng với các mục tiêu khác nhau như đơn vị quân đội, khu vực dân ở.

°

Các dịch vụ sinh hoạt như máy phát điện, giếng nước, tượng đài, trạm dịch vụ kỹ thuật
được xây dựng tại 5 đảo có 7 trạm đèn biển, 9 sân bay dã chiến, 5 cầu cảng, 2 cơ sở du
lịch và 1 trạm khí tượng thủy văn.

°

Dịch vụ hàng hải: Có tổng số 7 trạm đèn biển, trong đó 3 trạm thuộc Việt Nam, 4 trạm do

Philipin và Malaixia quản lý trái phép.

°

Giao thông vận tải trên biển: có 5 cầu cảng nhưng Việt Nam chỉ có 1.

20


°

Hoạt động hàng không: hiện nay, quần đảo Trường Sa có tới 9 sân bay nhỏ phục vụ cho
các mục đích vận chuyển hành khách giữa đảo và đất liền. Việt Nam có sân bay tại đảo
Trường Sa phục vụ cho vận tải khách du lịch.

°

Hoạt động du lịch: Việt Nam đang tiến hành tổ chức các tuyến du lịch sinh thái từu đất
liền ra Trường Sa. Một số nước nhưu Malaixia cũng đã xây dựng trái phép 1 số cơ sở du
lịch như nhà nghỉ dạng Resort trên các đảo mà họ chiếm đóng.

°

Hoạt động khai thác: khai thác hải sản là hoạt động hiệu quả nhất ở khu vực này, ngồi ra
cịn có hoạt động khai thác các mỏ phân chim.
- Đặc điểm địa hình: địa hình quần đảo Trường Sa chia làm 2 phần rõ rệt: phần đảo
nổi và địa hình dưới nước.

* Giá trị đặc hữu
+) Giá trị cảnh quan

“Trên đảo mặt trời thường lên sớm
Cát vàng hẹn lối dấu chân quen
Con sóng nhuộm mây trời ửng đỏ
Cánh buồm vượt sóng cuối trời xa”
(Hoa đảo xa – Bùi Văn Bồng)
- Nhắc tới Trường Sa là nhắc tới đảo xanh. Giữa điều kiện khắc nghiệt của vùng
biển, có những lồi cây vẫn kiên cường đứng vững: bàng vng, mù u, phong ba, bão
táp...
- Là quần đảo có tới trên 329 loài thuộc 69 giống và 15 họ, những rạn san hơ rực rỡ
màu sắc được ví như những cánh đồng mn màu dưới lịng đại dương. Đặc biệt, tại quần
đảo Trường Sa có sự hiện diện của lồi san hơ trúc q hiếm có hình thù khá kỳ ảo với
màu vàng hoặc đỏ tươi mà trên vùng biển nước ta khơng nơi nào có.
21


- Quần đảo Trường Sa với những bãi cát trải dài là điểm nhấn về giá trị cảnh quan.
Những đảo như Trường Sa Lớn, Trường Sa Đông, An Bang, Phan Vinh, Thuyền Chài
A...là một trong những đảo có những bãi cát nhô lên giữa đại dương. Minh chứng cụ thể
và rõ nét nhất là đảo An Bang, hòn đảo được ví như một “thiếu nữ xinh đẹp nằm tắm
sóng biển Đơng” bởi có bãi cát vàng êm ả trải dài hàng cây số quanh đảo. Đứng từ trên
tháo hải đăng nhìn xuống như một thiếu nữ.
+) Giá trị sinh thái, sinh vật.
- Quần đảo Hồng Sa nói riêng và biển đảo Việt Nam nói chung là nơi có giá trị
sinh thái đặc sắc, đa dạng. Đến với Trường Sa chúng ta có cơ hội khám phá cuộc sống
thiên nhiên đầy thú vị của những loài động thực vật biển quý hiếm trong lòng biển Việt
Nam.
- Tiêu biểu cho hệ sinh thái và sinh cảnh Trường Sa là 3 kiểu đặc thù: Hệ sinh thái
đảo xa bờ, hệ sinh thái rạn san hô và hệ sinh thái thảm cỏ biển mang nhiều ý nghĩa và có
giá trị cao.
- Rạn san hơ là 1 trong những hệ sinh thái đặc sắc. Quần đảo Trường Sa là vùng có

số giống san hơ nhiều nhất biển Đông “Trường Sa cũng nằm trong giới hạn vùng có
giống san hơ nhiều nhất biển Đơng (trên 70 giống), một trung tâm phát tán san hô và sinh
vật biển nhiệt đới ven bờ Philipin – Indonesia của vùng phía Tây Thái Bình Dương". “Về
quy mơ, số lượng san hô và mức độ đa dạng, quần dảo Trường Sa có thể ngang với khu
bảo tồn san hơ nổi tiếng Great Barrier của Australia”

( Theo cuốn Biển đảo Việt

Nam – Tài nguyên vị thế và những kì quan địa chất sinh thái tiêu biểu – Trần Đức Thạnh,
Lê Đức An, Nguyễn Hữu Cờ, Trần Đình Lân, Nguyễn Văn Quân, Tạ Văn Phương).
Rạn san hơ cịn là nơi sinh sống, đẻ trứng, ẩn náu, kiếm mồi của rất rất nhiều các
loài hải sản, sinh vật biển. Nền đáy cứng trên rạn là nơi mà nhiều sinh vật đáy đặc trưng
như trai, sò, hải miên, huê biển, hải quỳ và tảo bám bẩm sinh trưởng. Với một số loài
khác, rạn lại là nơi kiếm ăn, đẻ trứng, ương con hay trú ẩn của Rùa xanh hay đồi mồi.
- Thảm cỏ biển cũng là hệ sinh thái đặc sắc. Nó được ví như “lá phổi của đại
dương”. Cũng giống với rạn san hô, cỏ biển là nơi sinh sống, sản sinh, trú ẩn của đa dạng
các loài sinh vật biển khác nhau như động vật đáy, cá biển, bò biển...Cỏ biển là nguồn
22


cung cấp hữu cơ, ôxy cho nước biển. Sẽ là một trải nghiệm bất ngờ khi được lặn xuống,
quan sát và cảm nhận vẻ đẹp của thế giới sống nhộn nhịp dưới nước quanh các đảo và vơ
vàn các lồi san hô, hải quỳ, rong biển, trúc biển.
- Trên thềm san hơ của quần đảo Trường Sa có nhiều loại hải sản quý như hải sâm,
rừa biển, cá ngừ, tôm. Đặc biệt với vị trí giữa biển Đơng, quần đảo Trường Sa có thế
mạnh về dịch vụ hàng hải và nghề đánh bắt hải sản.
+) Giá trị địa chất
Quần đảo Trường Sa là những thực thể di sản địa chất. Nếu có những lỗ khoan địa
tầng xuyên qua đảo, đến nền đá cứng mà san hơ bám vào đó để phát triển, chúng ta sẽ xác
lập được lịch sử tiến hố của quần đảo Trường Sa hay các q trình địa chất đã từng xảy

ra ở đây. Kết quả khảo sát địa chất sơ bộ một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa như đảo
Phan Vinh, đảo An Bang, chúng tơi đã bắt gặp một số loại đá trầm tích sinh vật, các hóa
thạch độc đáo, như vỏ sị khổng lồ; đá dạng “Bánh bỏng”, đá vôi san hô dạng khối. Quần
đảo Trường Sa là khu vực có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt, băng cháy nhất định.
+) Giá trị văn hóa
Ngày 13/6/2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số
1825/QĐ- BVHTTDL xếp hạng các bia chủ quyền tại đảo Song Tử Tây, xã Song Tử Tây
và đảo Nam Yết, xã đảo Sinh Tồn, thuộc huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hịa là "Di
tích lịch sử cấp quốc gia". Cụm bia chủ quyền này được hoàn thành tháng 8/1956 nhằm
khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại biển Đơng. Ngồi ra, trên đảo Trường Sa Lớn
cịn có chùa, Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và đài tưởng niệm liệt sĩ tạo nên một
quần thể các cơng trình văn hóa và đã trở thành chốn linh thiêng trên đảo giữa biển khơi
của Việt Nam. Trong chùa ở đảo Trường Sa Lớn có bức tượng Phật ngọc màu xanh ngự
trên Tam Bảo là do Liên đoàn Phật giáo Thế giới tặng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và
đã được Thủ tướng tặng lại chùa Trường Sa Lớn với lời cầu chúc: “nước Việt Nam hịa
bình, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Bên cạnh đảo Trường Sa Lớn, trên đảo Đá Tây có bài thơ thần của Lý Thường Kiệt được
khắc trong một ban thờ tuy đơn sơ nhưng rất trang trọng, một lần nữa khẳng định chủ

23


quyền lãnh thổ vô cùng thiêng liêng của đất nước ở khu vực quần đảo Trường Sa này với
lòng tự hào dân tộc sâu sắc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tạm dịch:
Sông núi nước Nam vua Nam ở,

Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
+) Giá trị về an ninh-quốc phòng.
Giống như quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa cũng có vị trí chiến lược quan
trọng trong việc bảo vệ chủ quyền trên biển của Việt Nam trong việc khai thác các tài
nguyên trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế trên biển, kiểm soát các tuyến hàng hải
qua lại khu vực này cũng như một số mục đích quân sự khác. Hiện nay quần đảo Trường
Sa cũng đang nằm trong diện tranh chấp giữa Việt Nam và sự ngang ngược của Trung
Quốc. Bởi vậy nên quần đảo này có giá trị an ninh-quốc phòng đặc biệt quan trọng.

2.2. Đảo và quần đảo ven bờ.
2.2.1. Quần đảo Cát Bà.
* Khái quát:
Quần đảo Cát Bà thuộc thành phố Hải Phòng, cách thủ đơ Hà Nội khoảng 150km về
phía đơng nam, cách thành phố Hạ Long 25km về phía Nam… di sản thiên nhiên thế giới
đề cử- quần đảo Cát Bà bao gồm khu dự trữ sinh quyển Cát Bà, vườn quốc gia Cát Bà và
quần đảo Long Châu có diện tích là 33.670ha đất tự nhiên và 20.192ha mặt biển. Quần
đảo bao gồm 388 hịn đảo đá vơi, đảo Cát Bà có diện tích bề rộng trên 200km2, là đảo
24


lớn nhất trong số đó, do cịn lưu giữ được vẻ hoang sơ hài hòa giữa cảnh quan rừng xanh
và biển xanh như một miền ký ức sống động về lịch sử hình thành và phát triển của trái
đất cịn lưu giữ được- quần đảo Cát Bà thật xứng đáng với tên gọi “chum ngọc xanh trên
biển khơi xanh”.
* Đặc điểm và giá trị đặc hữu:
- Giá trị về cảnh quan, tài nguyên sinh vật:
Quần đảo Cát Bà nổi bật toàn cầu với rừng mưa nhiệt đới trên núi đá vôi, hang động, rừng ngập mặn, bãi triều, hồ nước mặn, động thực vật đáy mềm, các rạn san hô
rộng lớn.

Tại đây có rừng nhiệt đới xanh tốt quanh năm bao gồm đảo đá lớn Cát Bà và 387
đảo nhỏ, được bao phủ bởi thảm thực vật nhiệt đới, trong phần lớn diện tích là diện tích
của vườn quốc gia Cát Bà. Ở đây có khu vực rừng nguyên sinh duy nhất cịn sót lại ở Cát
Bà và là vùng cịn giữ được trang thái tự nhiên vốn có của nó, với diện tích vào khoảng
1045,2 ha nằm ở ngay vị trí trung tâm đảo.
Hang động, một dạng sinh cảnh tiêu biểu của địa hình karst. Hơn thế nữa, hệ thống
hang động ở Cát Bà rất độc đáo do nó chứa đựng cả hang trên cạn và hang dưới biển. Các
loài động vật phổ biến ở Hàn động là dơi, chân bụng và côn trùng. Đặc biệt, các hang
động ở Cát Bà còn là nơi cư trú của người nguyên thủy, cho nên nhiều hang hiện nay là
các di chỉ khảo cổ quan trọng.
Sinh cảnh đất ngập triều có rừng ngập mặn bao phủ có tổng diện tích khoảng 650ha.
Rừng ngập mặn là tài nguyên quý giá của vùng ven biển nhiệt đới, có giá trị trong việc
che cho đới bờ khỏi bị sóng - đây cũng là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật biển và
nơi cư trú của các loài chim di cư.
Các bãi triều xung quanh đảo bao gồm bãi triều cát, bãi triều đá và triều bùn là môi
trường sống lý tưởng cho các sinh vật vùng triều như các loài rong, tảo biển, động đáy. Ở
các bãi triều đá,các loài động vật bám phát triển dày đặc, tạo thành các khảm sinh vật là
một dạng quần xã độc đáo của khu di sản.
Đáy mềm quần đảo Cát Bà là nơi sinh cư của nhiều nhóm sinh vật như động vật
đáy, cá biển, thú biển nhất là các loài di cư và ưa di chuyển, trong đó có nhiều lồi q
25


×