Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đề tài: Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị và xã hội Tân La (thế kỷ V - thế kỷ VII)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.56 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Phật giáo ra đời tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên (TCN) và được
truyền bá rộng rãi ra ngoài lãnh thổ Ấn Độ từ sau Đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba tại
Pataliputra, Ấn Độ (thế kỷ IV). Trải qua suốt hàng ngàn năm, Phật giáo đã ghi được dấu
ấn quan trọng, có tác động mạnh mẽ đến lịch sử - văn hóa của nhiều quốc gia dân tộc.
Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia tiếp nhận Phật giáo từ rất sớm. Tại Việt Nam,
ngay từ thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, Phật giáo đã theo chân các thương nhân, nhà
truyền giáo Ấn Độ du nhập vào Việt Nam, hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu.
Từ cuối thế kỉ thứ IV, từ Trung Quốc, Phật giáo đã du nhập vào bán đảo Triều Tiên, bắt
đầu từ vương triều Cao Câu Ly (năm 372, thời Tiểu Thú Lâm vương, 소소소소), Bách Tế (năm
384, thời Chẩm Lưu vương,

소소소)

và cuối cùng là Tân La (năm 420, dưới thời vua Nột

Chỉ, 소소소소소)1.
Mặc dù là một tôn giáo ngoại lai, song Phật giáo khơng có nhiều xung đột với các
tín ngưỡng bản địa mà cịn có nhiều điểm phù hợp với văn hóa truyền thống của các dân
tộc. Do vậy, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam và Hàn Quốc tiếp nhận một cách rộng
rãi, bắt đầu tiến trình bản địa hóa sâu sắc. Được sự ủng hộ của nhà nước, có những thời
kỳ, Phật giáo đã được cơng nhận là quốc giáo có sức chi phối mạnh mẽ đến đời sống
chính trị - xã hội của quốc gia. Trên hầu khắp các phương diện từ lịch sử, văn hóa, nghệ
thuật, phong tục tập quán, đạo đức, xã hội,… Phật giáo đều đã để lại những dấu ấn đậm
nét cùng nhiều thành tựu rực rỡ còn để lại cho tới ngày nay.
Trải qua suốt hàng ngàn năm lịch sử, Phật giáo đã trở thành một phần không thể
thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam cũng như Hàn Quốc. Cùng nằm
trong khối văn minh Đông Á, nên Phật giáo tại hai nước có những điểm tương đồng quan
trọng. Do vậy, trong bối cảnh ngày nay, khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước ngày càng
phát triển, sự giao lưu về học thuật cũng đạt được những bước tiến không ngừng. Phật
giáo Hàn Quốc là một trong những đề tài hấp dẫn mà giới nghiên cứu có thể tập trung


khai thác, tìm hiểu. Nghiên cứu về Phật giáo cùng những tác động của nó trong tiến trình
1 소소소, 한한한한 한한 한한한한한한, 소소소소소소소, 2013, tr.229.

1


lịch sử góp phần làm sáng tỏ những tương đồng về văn hóa giữa hai dân tộc, từ đó thắt
chặt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị trên cơ sở cùng sẻ chia những giá trị về văn hóa tinh
thần giữa nhân dân hai nước.
Đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị và xã hội Tân La (thế
kỷ V - thế kỷ VII) được thực hiện bởi hai sinh viên Trần Tùng Ngọc và Nguyễn Thị Tuyết
Vân, chuyên ngành Korea học, khoa Đông phương học, trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện với mục đích tìm hiểu q trình tiếp
nhận và bản địa hóa Phật giáo, cũng như những ảnh hưởng của đời sống chính trị, xã hội
Tân La thời kỳ đầu (thế kỷ V - thế kỷ VII).
Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, kết hợp tham khảo các nguồn
tài liệu bằng cả tiếng Việt và tiếng Hàn, đề tài của nhóm nghiên cứu thực hiện hy vọng
góp phần làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo tới chính trị xã hội như một kích
thích tố quan trọng đưa sự phát triển của vương triều Tân La đi tới đỉnh cao. Cấu trúc của
đề tài bao gồm các nội dung cụ thể với bố cục như sau:
1. Khái quát bối cảnh lịch sử thời kỳ Tam quốc
2. Quá trình du nhập của Phật giáo
3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới chính trị Tân La (thế kỉ V - thế kỉ
VII)
4. Ảnh hưởng của Phật giáo tới xã hội Tân La (thế kỉ V - thế kỉ VII)
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, do sự hạn chế về tiếp cận nguồn tài liệu,
phương pháp, kinh nghiệm nghiên cứu nên đề tài khơng thể tránh khỏi những sai sót nhất
định. Nhóm nghiên cứu xin chân thành tiếp nhận và cảm ơn những ý kiến đóng góp từ tất
cả các thầy cơ và các bạn để đề tài được hoàn thiện. Kết quả của đề tài nghiên cứu này sẽ
được vận dụng trong quá trình học tập và nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội Hàn

Quốc và phục vụ cho những báo cáo khoa học tiếp theo.
Nhóm tác giả
Trần Tùng Ngọc - Nguyễn Thị Tuyết Vân
2


3


MỤC LỤC
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI KỲ TAM QUỐC.....................4
I - Giới thiệu quá trình hình thành Tam quốc.................................................................4
II - Khái quát điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thời kỳ Tam quốc..................7
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ CỦA PHẬT GIÁO......................................10
I - Khái quát quá trình truyền bá của Phật giáo vào Cao Câu Ly và Bách Tế..............10
II - Phật giáo Tân La từ du nhập đến công nhận..........................................................11
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN CHÍNH TRỊ TÂN LA.............15
I - Phật giáo Tân La: từ “Phật giáo quý tộc” đến “Phật giáo hộ quốc”......................15
II - Vai trò của giới tăng sĩ đối với nền chính trị Tân La..............................................19
III - Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực quân sự.................................................19
IV - Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực ngoại giao.............................................20

4


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI KỲ TAM QUỐC
I - Giới thiệu quá trình hình thành Tam quốc
Thời kỳ Tam Quốc là một thời kỳ quan trọng trong lịch sử cổ - trung đại của bán
đảo Triều Tiên, nó được tính bắt đầu từ năm 57 TCN (niên đại sáng lập vương quốc
Shilla) và kết thúc năm 668 SCN với sự kiện Shilla thống nhất Tam quốc. Đây là giai

đoạn hình thành và phát triển của các nhà nước đầu tiên. Trải qua q trình đấu tranh,
thơn tính lẫn nhau giữa các quốc gia, ba thế lực lớn nhất còn lại đã tạo nên cục diện Tam
quốc là Cao Câu Ly (소소소, 소소소, Koguryeo), Bách Tế (소소, 소소, Baekje) và Tân La (소소, 소소,
Shilla).
Sự ra đời của các nhà nước này gắn liền với màu sắc huyền thoại, truyền miệng
trong dân gian, sau đó được nhà sư Nhất Nhiên ( 소소, 소소, 1206 - 1289) thời Cao Ly ghi
chép lại trong tác phẩm Tam quốc di sự (소소소소, 소소소소). Chính vì vậy, mốc thời gian thành
lập các vương quốc này chỉ mang tính ước lệ, cịn tồn tại sự khác biệt giữa những nguồn
sử liệu khác nhau.
1. Vài nét về sự hình thành vương quốc Cao Câu Ly (고고고)
Nhà nước Cao Câu Ly được vua Chu Mông ( 소소, 소소, miếu hiệu là Đông Minh
Thánh Vương,

소소소소)

thành lập năm 37 TCN tại vùng Tốt Bản Phù Dư ( 소소소소), phía Đơng

Bắc của Bình Nhưỡng (소소) ngày nay. Truyền thuyết kể lại, vua Chu Mơng là kết quả mối
tình giữa Giải Mộ Sấu (소소소, con trai của Thiên đế) và phu nhân Liễu Hoa ( 소소, con gái của
Hà Bá, sau trở thành vương phi của vua Kim Oa

소소,

nước Đông Phù Dư 소소소). Chu Mông

sinh ra và lớn lên với tư cách là hoàng tử của Phù Dư, sở hữu tài nghệ bắn cung thiên
bẩm, tuy nhiên, do bị các hồng tử của vua Kim Oa ghen ghét, tìm mọi cách hãm hại. Do
đó, ơng đã bỏ trốn khỏi Phù Dư, thành lập một nhà nước mới, lấy quốc hiệu là Cao Câu
Ly, đó là năm thứ 2 niên hiệu Kiến Chiếu của Hán Nguyên Đế 2.
Nằm ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên, Cao Câu Ly là vương quốc có lãnh thổ rộng

lớn nhất trong Tam quốc, bao gồm cả một phần Mãn Châu ngày nay. Trong quá trình phát
triển, Cao Câu Ly đã lần lượt thâu tóm lãnh thổ của Mã Hàn cũ ( 소소, 소소), tiêu diệt Ốc Trở
2 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr.45.

5


(소소), Đông Uế (소소, 소소) và Phù Dư (소소, 소소), đẩy Bách Tế và Tân La ra khỏi lưu vực sông
Hán. Từ năm 371 đến năm 491, vua Quảng Khai Thổ (소소소소소, 소소소소소) và người kế vị của
ông vua Trường Thọ (소소소, 소소소) đã liên tục củng cố và mở rộng lãnh thổ, đưa Cao Câu Ly
bước vào thời kỳ đỉnh cao. Tuy nhiên, những vị vua tiếp theo lại khơng giữ được thành
quả đó, vào thời mạt kỳ, các đại thần lấn át quyền lực của nhà vua, cộng thêm sự tấn cơng
từ cả hai phía (qn Đột Quyết ở phía Bắc và liên quân Tân La - Bách Tế ở phía Nam)
khiến cho tiềm lực quốc gia nhanh chóng suy yếu.
Từ cuối thế kỉ thứ VI, Cao Câu Ly liên tiếp phải chống chọi và đã đẩy lui được sự
tấn công từ nhà Tùy và nhà Đường. Đến năm 668, vương quốc này chính thức bị tiêu diệt
trước những địn tấn cơng liên tiếp từ phía liên qn Tân La - Đường ( 소소소소). Sau khi diệt
vong, lãnh thổ của nó bị chia cắt bởi các quốc gia Tân La thống nhất, Bột Hải ( 소소, 소소) và
nhà Đường.
2. Vài nét về sự hình thành vương quốc Bách Tế (고고)
Sự thành lập vương quốc Bách Tế được ghi nhận trong Tam quốc sử ký và Tam
quốc di sự với sự kiện vua Ôn Tộ (소소소, 소소) đem theo gia quyến và tùy tùng từ Cao Câu Ly
di cư xuống phía Nam, lập nên một nhà nước mới, định đô ở thành Úy Lễ ( 소소, thuộc
Seoul ngày nay). Đó là vào năm thứ 3 niên hiệu Hồng Gia của Hán Thành Đế, tức năm
thứ 18 TCN3. Ôn Tộ là con trai thứ của vua Chu Mông với vương phi Triệu Tây Nơ ( 소소소,
소소소).

Tuy nhiên, sau khi tìm ra con trai cả bị lưu lạc của mình với người vợ trước tại Phù

Dư là Lưu Ly (소소, 소소), vua Chu Mông đã phong cho Lưu Ly làm thái tử. Sợ rằng sau này

sẽ không được Thái tử thu nhận, Ơn Tộ đã cùng với anh trai của mình là Phí Lưu ( 소소) rời
xuống phía Nam.
Trải qua 31 đời vua, Bách Tế đã thu phục lãnh thổ của Biện Hàn cũ ( 소소, 소소), cùng
với Tân La và Cao Câu Ly hình thành nên cục diện Tam quốc kéo dài suốt hơn gần 700
năm lịch sử bán đảo Triều Tiên. Xét về quân sự và sự bành trướng về lãnh thổ, Bách Tế
tỏ ra yếu thế hơn so với hai đối thủ của mình là Cao Câu Ly và Tân La, song trên phương
diện văn hóa, nghệ thuật và ngoại giao, quốc gia này đã đạt được những thành tựu vượt
3 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr. 162.

6


bậc. Thơng qua Bách Tế, nhiều thành tựu văn hóa của bán đảo Triều Tiên đã được truyền
bá đến Nhật Bản và phát triển mạnh mẽ tại đây.
Năm thứ 5 niên hiệu Hiển Khánh của nhà Đường (tức năm 660, năm thứ 8 đời vua
Thái Tông Vũ Liệt Vương

소소 소소소, 소소 소소소 của

Tân La), quân đội Tân La do Kim Dữu Tín

(소소소, 소소소) dẫn đầu đã phối hợp cùng với qn đội nhà Đường của Tơ Chính Phương đã
chinh phạt và tiêu diệt Bách Tế. Vương quốc Bách Tế chính thức sáp nhập vào lãnh thổ
Tân La.
3. Vài nét về sự hình thành vương quốc Tân La (고고)
Theo ghi chép của nhà sư Nhất Nhiên trong Tam quốc di sự, nhà nước Tân La
được thành lập năm 57 TCN gắn với truyền thuyết về vua Hách Cư Thế ( 소소소소, 소소소소).
Theo đó, hội nghị tù trưởng các bộ lạc ở Thìn Hàn cũ (소소, 소소) đã nhất trí suy tơn Hách Cư
Thế lên làm thủ lĩnh, đặt tên nước là Seorabeol ( 소소소, 소소소 còn gọi là Kê Lâm 소소, tiền thân
của Tân La) tại đồng bằng Khánh Châu (소소), phía Đơng Nam bán đảo Triều Tiên. 4

Sau đó, ngơi vua được luân phiên kế vị bởi thành viên của ba thị tộc là Kim, Park
và Seok, cho đến năm 356 thì ngơi vua hồn tồn do họ Kim nắm giữ theo hình thức cha
truyền con nối. Trải qua quá trình phát triển khơng ngừng, từ một tiểu quốc nhỏ bé, Tân
La đã từng bước mở rộng tầm ảnh hưởng, chinh phục liên minh Già Da ( 소소소, 소소), liên
quân với Bách Tế (소소소소) chiếm lại lưu vực sông Hán (소소, 소소). Vương triều Tân La đạt cực
thịnh dưới triều vua Chân Hưng ( 소소소, 소소소, 540 - 576, đời thứ 24), đặt nền móng cho sự
thống nhất Tam Hàn sau này.
Từ năm 660 đến năm 668, nhận thấy thời cơ thích hợp, Tân La đã kêu gọi viện trợ
của nhà Đường để tiến hành chiến tranh tổng lực, xóa sổ vương quốc Bách Tế và Cao
Câu Ly. Sau đó, do âm mưu của nhà Đường muốn đặt An Đông đơ hộ phủ ( 소소소소소), cai trị
tồn bộ bán đảo Triều Tiên, Tân La một lần nữa tiến hành đấu tranh chống lại nhà Đường,
đánh đuổi họ ra khỏi bán đảo Triều Tiên năm 676. Thời kỳ Tam quốc chính thức được
thay thế bởi thời kỳ Tân La thống nhất ( 소소소소소소). Vương triều Tân La thống nhất tiếp tục

4 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr. 54.

7


tồn tại cho đến năm 935 thì bị thay thế bởi Cao Ly ( 소소, 소소), Tân La trở thành một trong
những vương triều tồn tại lâu nhất trong lịch sử thế giới (khoảng 1000 năm).
Bên cạnh ba quốc gia lớn là Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La , tại vùng lưu vực
sơng Lạc Đơng (소소소) phía Nam bán đảo Triều Tiên, các thị tộc, bộ lạc cổ đã phát triển,
liên kết với nhau hình thành nên liên minh Già Da ( 소소소, 소소) bao gồm sáu nhà nước thu
nhỏ. Năm 562, với sự kiện vua Chân Hưng của Tân La đưa quân đánh chiếm Đại Già Da
(소소소), lãnh thổ của liên minh Già Da chính thức sáp nhập vào Shilla. Mặc dù chưa phát
triển trở thành một nhà nước thống nhất, song liên minh Già Da đã để lại những thành tựu
quan trọng đặc biệt sở hữu nền nghệ thuật và âm nhạc tiên tiến (đây là quê hương của đàn
Gayageum, một loại nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc), đồng thời, Già Da cũng rất
phát triển về các ngành nghề thủ công như dệt vải, sản xuất đồ gốm và hàng hóa bằng sắt

với chất lượng cao.5
II - Khái quát điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thời kỳ Tam quốc
1. Điều kiện kinh tế
Nông nghiệp là trọng tâm trong sự phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia thời kỳ
Tam quốc. Trong thời kỳ này, sở hữu ruộng đất thuộc về vương quyền, nhà vua cấp ruộng
đất cho các thành viên trong hoàng thất và giới quý tộc. Giới quý tộc cấp ruộng đất của
mình cho nơng dân canh tác sau đó thu tơ thuế vào cuối kỳ thu hoạch, nộp một phần tơ
thuế đó cho nhà nước. Sản xuất không ngừng gia tăng nhờ vào cải tiến công cụ sản xuất,
mở rộng khai hoang đất nông nghiệp, xây dựng các hệ thống thủy lợi,… 6 Quốc gia nào sở
hữu những vùng đất màu mỡ, có thể nhờ đó nâng cao sản lượng thực phẩm, đẩy mạnh
phát triển quân sự.
Bên cạnh nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có sự phát triển
mạnh mẽ. Năm 490, hệ thống chợ đã được thành lập tại kinh đô của Tân La. Hoạt động
giao thương với Trung Quốc, Nhật Bản được thúc đẩy. Nhiều bằng chứng cho thấy Tân
La đã trực tiếp tham gia vào “con đường tơ lụa” (tên gọi Shilla ‫ بایسل‬Bashilla đã xuất hiện
5 Andrew C.Nahm, Lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên, NXB Văn hóa thơng tin, 2005, tr.43.
6 Andrew C.Nahm, Lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên, NXB Văn hóa thơng tin, 2005, tr.67.

8


trong thư tịch cổ của người Ba Tư, cụ thể cuốn Kush-nama ‫ نامه کوش‬đã chép lại cuộc hôn
nhân giữa một hồng tử Ba Tư với cơng chúa của Tân La).
2. Điều kiện chính trị
Các nhà nước thời kỳ Tam quốc đều được hình thành dựa trên sự liên minh giữa
các bộ lạc, trải qua quá trình phát triển, chinh phạt lẫn nhau, xã hội liên minh bộ lạc đã
phát triển thàn xã hội quốc gia phong kiến. Đặc điểm chung về chính trị của cả ba quốc
gia Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La là quân chủ quý tộc. Tầng lớp q tộc có vai trị to
lớn trong việc quyết định các vấn đề trọng đại của quốc gia, đôi khi vượt lên trên quyết
định của vua, tiêu biểu như Hội nghị Hòa Bạch (소소, 소소) tại Tân La.

Từ đó dẫn đến những mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh giữa quân vương và giới quý
tộc, sau này, chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc đồng thời dựa vào Phật giáo và Nho giáo,
quyền lực nhà nước được chuyển dịch từ tay quý tộc vào tay của nhà vua. Hình thức quân
chủ quý tộc dần được thay thế bằng hình thức quân chủ chuyên chế.
Về quân sự - ngoại giao, tiến trình lịch sử trải dài 700 năm của thời kỳ Tam quốc
cũng là tiến trình mà các quốc gia không ngừng mở rộng lãnh thổ bằng cách chinh phạt
lẫn nhau, qua đó, các vương quốc nhỏ yếu thế bị sáp nhập vào các thế lực lớn hơn. Quan
hệ ngoại giao bên ngoài bán đảo Triều Tiên quan trọng nhất là quan hệ với hai quốc gia
láng giềng là Trung Quốc và Nhật Bản.
3. Điều kiện xã hội
Cơ cấu xã hội của các quốc gia thời kỳ Tam quốc có thể chia làm ba tầng bao gồm
có hồng thất và giới q tộc; bình dân (nơng dân, thợ thủ cơng, thương nhân,…) và nô lệ
(phạm nhân hoặc người dân ở các vùng bị chinh phục).
Cơ cấu xã hội thời kỳ Tam quốc rất chặt chẽ, được quy định một cách rõ ràng
thơng qua chế độ thân phận. Dịng máu sẽ quyết định địa vị xã hội của một người ngay từ
khi mới sinh ra. Chế độ Cốt phẩm ( 소소소소, 소소소소) của Tân La là minh chứng rõ nét nhất,
trong đó quy định, ngơi vua chỉ thuộc về những người thuộc dòng máu Thánh cốt ( 소소, 소
소),

quý tộc thuộc tầng lớp Chân cốt ( 소소, 소소), dưới đó là lục đầu phẩm. Việc cốt phẩm nào

được nhận đến chức quan nào cũng đều có quy định một cách nghiêm ngặt, khơng có
9


ngoại lệ. Do vậy, mới xuất hiện trường hợp hai nữ vương là Thiện Đức ( 소소소, 소소소, đời thứ
27) và Chân Đức (소소소, 소소소, đời thứ 28) là những người cuối cùng thuộc tầng lớp Thánh
cốt nối ngôi vua. Chế độ thân phận hà khắc đã khiến do mâu thuẫn xã hội trong lòng các
quốc gia dâng cao.
4. Điều kiện văn hóa

Tơn giáo ngun thủy của người dân bán đảo Triều Tiên là một loại hình Shaman
giáo, trong đó, con người thờ cúng, tôn sùng các thế lực tự nhiên. Sự phát triển của các
tơn giáo, tín ngưỡng bản địa tại các vùng khác nhau tồn tại những khác biệt nhất định.
Các tôn giáo bản địa tại Tân La có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong số các quốc gia thời
Tam quốc.
Từ thế kỷ thứ IV, Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được truyền bá từ Trung Quốc
vào bán đảo Triều Tiên. Đặc biệt, Phật giáo sau đó đã trở thành quốc giáo của cả ba nước
Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La. Trong đó, Phật giáo Tân La đạt đến trình độ phát triển
cao nhất, trở thành “Phật giáo hộ quốc”. Phật giáo cũng như các tơn giáo mới du nhập đã
có nhiều ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử của Tam quốc mà một vai trị quan trọng có thể
kể đến là thống nhất dân tộc về mặt văn hóa.

10


CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ CỦA PHẬT GIÁO
I - Khái quát quá trình truyền bá của Phật giáo vào Cao Câu Ly và Bách Tế
Phật giáo truyền bá vào bán đảo Triều Tiên theo con đường địa lý tự nhiên từ
Trung Quốc đến Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La. Một số ý kiến cho rằng Phật giáo có
thể truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào thơng qua đường thủy, tuy nhiên, thuyết Hán truyền
của phật giáo tại bán đảo Triều Tiên vẫn được chiếm được ưu thế hơn cả.
Phật giáo truyền bá vào Cao Câu Ly lần đầu tiên vào năm Nhâm Thìn (372) thời
kỳ Tiểu Thú Lâm Vương (소소소소, 소소소소, 371 - 384). Vua Phù Kiên nhà Tiền Tần đã cử sứ
thần và tăng lữ Thuận Đạo mang tượng và kinh Phật tới. Đến năm 374, lại có sư A Đạo
đến hoằng pháp. Tiểu Thú Lâm vương đối đãi với các sư trọng thể, đến năm 375 thì cho
xây chùa Tiêu Mơn (소소소, 소소소) dành cho sư Thuận Đạo và chùa Y Phất Lan (소소소소, 소소소소)
dành cho sư A Đạo, đánh dấu khởi đầu của Phật pháp tại Cao Câu Ly.
Năm 384, chín tháng sau khi vua Chẩm Lưu lên ngôi, Phật giáo được truyền bá
vào Bách Tế bởi sư Ma La Nan Đà ( 소소소소, 소소소소 ) người Ấn Độ. Sư từ nước Tấn đến, vua
ra khỏi vương thành hơn một trăm dặm để nghinh đón mời vào cung, thành kính cúng

dường và nghe sư thuyết pháp. Trên được vua quan ưa thích, dưới nhân dân mến mộ, nhờ
đó Phật pháp được truyền bá rộng rãi, tất cả mọi người nghe đều khen ngợi và phụng
hành. Đồng thời, vua cho truyền tin tức đi khắp nơi. Mùa Xuân năm thứ hai đời vua
Chẩm Lưu, sư xây dựng chùa ở Hán sơn, độ mười vị tăng. Phật giáo bắt đầu hưng thịnh
tại Bách Tế.7
Như vậy, Phật giáo đã có sự khởi đầu thuận lợi trên bán đảo Triều Tiên, nhanh
chóng nhận được sự ủng hộ của hoàng thất và giới quý tộc, phát triển mạnh mẽ tại Cao
Câu Ly và Bách Tế. Từ đây, Phật giáo đóng vai trị là cầu nối giữa tam quốc với các
vương triều Trung Quốc, trở thành một nhân tố đặc biệt, có ảnh hưởng mạnh mẽ và
xuyên suốt lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên. Nhà sư Nhất Nhiên cũng cho rằng, sự
thành bại hay hưng vong của ba nước Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La chính tùy thuộc
vào thái độ tiếp nhận Phật giáo tại ba nước này.
7 Giác Huấn, Hải Đông cao tăng truyện, Quyển 1, Ma-la-nan-đà, truy cập ngày 9/2/2016.
/>
11


II - Phật giáo Tân La từ du nhập đến công nhận
1. Những bước chân đầu tiên của Phật giáo
Phật giáo du nhập vào Tân La là bước nối dài trong q trình truyền bá tơn giáo
này từ Trung Quốc đến bán đảo Triều Tiên. Theo đó, các tăng sĩ theo đường bộ từ Cao
Câu Ly và Bách Tế đã đến hoằng pháp ngay từ đầu thế kỷ thứ V. Tam quốc sử ký, phần
Tân La bản kỷ ghi chép lại: Từ thời vua Nột Chỉ ( 소소소소소, 소소소소소 đời thứ 19, 417 - 458),
tăng Mặc Hồ Tử (소소소, 소소소) từ Cao Câu Ly đến quận Nhất Thiện (소소소, 소소소), được người
dân tên là Mao Lễ (소소, 소소) đón tiếp và đào hầm trong nhà cho ở. Lúc đó, có sứ thần nhà
Lương đến Tân La mang theo y phục và hương. Nhà vua và quần thần đều không biết tên
và cách sử dụng hương như thế nào nên đã cử người đến hỏi cho rõ. Mặc Hồ Tử nhìn
thấy và giải thích rằng:
“Thứ này là hương, khi đốt sẽ tỏa ra mùi hương rất thơm và làm cảm động đến
thánh thần. Trong các thánh thần thì khơng gì linh thiêng hơn Tam bảo. Tam bảo thứ nhất

là Phật bảo (소소, Buddha), thứ hai là Pháp bảo ( 소소, Dharma), thứ ba là Tăng bảo ( 소소,
Sangha). Nếu đốt hương lên mà cầu nguyện thì chắc chắn sẽ được ứng nghiệm.”
Quả thật, khi ấy con gái vua bị bệnh nặng, vua cho gọi Mặc Hồ Tử đến thắp hương
cầu nguyện thì y rằng bệnh tình khỏi ngay. Nhà vua rất mừng bèn ban thưởng lễ vật cho
Mặc Hồ Tử, tuy nhiên, ông đã rời đi từ lúc nào không ai hay.
Đến đời vua Tỳ Xứ (소소 tức 소소소소소, 소소소소, 479 - 500, Triếu Chí ma lập can, đời thứ
21), hịa thượng A Đạo (소소, 소소), cùng ba người tùy tùng đến nhà Mao Lễ, dáng vẻ của
người này rất giống với Mao Lễ. A Đạo ở đó mấy năm rồi qua đời, khơng biết do bệnh gì.
Ba người tùy tùng tiếp tục lưu lại và giảng giải kinh luật nhà Phật, thu nhận một số tín
giả8.
Trong Tam quốc di sự, Nhất Nhiên dẫn từ Ngã Đạo bản bi ( 소소소소), cho rằng Ngã
Đạo (소소, 소소)có cha là người nước Ngụy, mẹ là người Cao Câu Ly, xuất gia từ năm năm
tuổi, đến năm mười sáu tuổi thì sang nước Ngụy tìm cầu Phật pháp. Năm mười chín tuổi,
ơng trở về Cao Câu Ly thăm mẹ, nghe lời mẹ dự đoán Phật giáo sau này sẽ phát triển rực
8 소소소, 한한한한 (소), 소소소소소, 1996, tr.90 - 91.

12


rỡ tại Kê Lâm (소소, 소소, tên gọi khác của Tân La), ơng bèn đến đó và lưu lại. A Đạo đến
cung điện định truyền bá Phật pháp tuy nhiên có người nghi ngờ, cịn định giết ơng cho
nên ơng đã trốn đến nhà Mao Lễ ở quận Nhất Thiện.
Sau này, nhờ cơng cứu chữa bệnh tình cho con gái vua Vị Chu (소소소소소, 소소 소소소, 261
- 284, vua đời thứ 13), sư Ngã Đạo được vua chấp thuận cho xây chùa và thuyết giảng
đạo Phật. Em gái của Mao Lễ nhờ vào pháp sư cũng trở thành sư nữ, đây là danh tính của
ni sư đầu tiên được ghi chép lại trong các tài liệu sử thời kỳ Tam quốc. Sau này, khi vua
Vị Chu băng hà, có những người vì ghen ghét Phật giáo tỏ ý muốn hãm hại sư Ngã Đạo,
chính vì vậy, sư bèn lánh đi, Phật giáo tại Tân La vì thế cũng bị mai một.9
Có thể thấy, nhân vật Mao Lễ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử truyền bá
Phật giáo tại Tân La thời kỳ đầu, song, sự ghi chép khác nhau giữa Tam quốc sử ký và

Ngã Đạo bản bi về thời gian liên quan đến nhân vật này chênh lệch nhau đến gần 200
năm (từ thời vua Vị Chu đến thời vua Triếu Chí) cho nên sư Nhất Nhiên đã căn cứ vào
Lương Cao tăng truyện để đưa ra kết luận, đã có sự nhầm lẫn trong Ngã Đạo bản bi, theo
đó, việc Phật giáo truyền bá vào Tân La được thực hiện bởi một người, Ngã Đạo, A Đạo
hay Mặc Hồ Tử có thể chỉ là một người, và niên đại chính xác là thời vua Nột Chỉ.
Như vậy, không giống như ở Cao Câu Ly và Bách Tế, Phật giáo truyền bá và phát
triển một cách nhanh chóng, nhận được sự ủng hộ của tầng lớp thống trị trong xã hội, quá
trình truyền bá Phật giáo tại Tân La diễn ra trong suốt một thời gian dài với diễn biến vô
cùng phức tạp. Giới quý tộc Tân La tin rằng, việc tiếp nhận Phật giáo có thể làm ảnh
hưởng đến lợi ích của họ nên ra sức kiềm chế sự lan tỏa của Phật giáo. Cùng với đó, các
tín ngưỡng bản địa vẫn cịn sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân, khiến
cho việc tiếp nhận Phật giáo bị hạn chế về nhiều mặt. Mãi đến thời vua Pháp Hưng ( 소소소,
소소소,

514 - 540, đời thứ 23), tức là hơn 100 năm sau, Phật giáo mới chính thức được cơng

nhận tại Tân La.

9 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr.211 - 213.

13


2. Phật giáo chính thức được cơng nhận và phát triển
Mặc dù bị giới quý tộc từ chối một cách gay gắt, người dân vẫn còn nhiều nghi
ngờ, song Phật giáo vẫn âm thầm lưu truyền trong quần chúng. Chính vì khơng thể ngăn
cản được sức phát triển của đạo Phật nên cuối cùng, giới quý tộc Tân La đã đi đến chủ
trương đàn áp Phật giáo.
Thời vua Pháp Hưng (소소소, 소소소, 514 - 540, đời thứ 23) đánh dấu bước chuyển biến
quan trọng trong lịch sử Phật giáo, khi mà Phật giáo chính thức được cơng nhận là quốc

giáo. Vua Pháp Hưng, trái ngược với quần thần, là một người rất có hảo ý với đạo Phật,
ơng ln muốn lan truyền Phật giáo một cách rộng rãi. Dù vậy, sự phản kháng từ phía các
đại thần vẫn khơng hề xoay chuyển. Khi nhà vua triệu tập quần thần để bàn bạc về vấn đề
phát triển Phật giáo, tất cả họ đều nhất loạt phản đối, không thi hành mệnh lệnh của nhà
vua. 10
Thấu hiểu tấm lòng của vua Pháp Hưng, Di Thứ Đốn ( 소소소, 소소소, 501–527), một cận
thần của nhà vua đã tỏ ý muốn hy sinh vì sự phát triển của Phật giáo: "Chết vì đất nước là
đại nghĩa của kẻ làm quan. Hy sinh mạng sống vì vua là suy nghĩ đúng đắn của người
làm dân chúng. Cho nên, khi tiểu thần bắt đầu xây chùa ở Thiên Kính Lâm ( 소소소) thì xin
hãy cho xử phạt thần vì làm sai luật."
Trong cuộc triều kiến của nhà vua, Di Thứ Đốn đã bước tới và giải thích giáo lý
sâu xa của đạo Phật trước mặt quần thần. Vì lẽ đó, các quan đã gây sức ép buộc nhà vua
phải xử tử ơng, cuối cùng, khơng cịn cách nào khác, vua Pháp Hưng đã phải nghe theo
lời các quan khép Di Thứ Đốn vào tội chết. Để đạt được hai mục đích là Phật giáo chính
thức được công nhận là quốc đạo, đồng thời tăng cường quyền lực vào tay nhà vua, Di
Thứ Đốn đã hùng hồn tuyên bố:
"Theo phép tắc của đức Phật thì đất nước được tốt đẹp, vận nước càng hưng thịnh,
vậy thì ta có tội gì?" Trước khi bị chém đầu Di Thứ Đốn cũng để lại lời tiên đoán rằng:
"Nếu đức Phật có nơi đây, thì sau khi ta chết, chắc chắn sẽ có hiện tượng kỳ lạ xảy ra."
Đúng như lời tiên đoán, ngày 15 tháng 9 năm Canh Thân (tức năm 527), tại pháp
trường, ngay sau khi Di Thứ Đốn bị xử trảm, một dòng máu trắng như sữa đã tuôn lên
10 소소소, 한한한한 한한 한한한한한한, 소소소소소소소, 2013, tr.222.

14


không trung từ cổ của ông. Sự việc này đã làm chấn động khắp Tân La, từ đó, khơng cịn
ai dám phỉ báng Phật giáo nữa. Phật giáo bắt đầu bén rễ vào vào Tân La, thức tỉnh tinh
thần lấy con người làm gốc, tơn trọng ý chí tự do của con người, đem lại sự phát triển của
quốc gia này và trở thành nền tảng xây dựng một quốc gia thống nhất đầu tiên của bán

đảo Hàn Quốc. 11
Sự hy sinh của Di Thứ Đốn đã đắc được đại nguyện : “Đạt được sự thống nhất
quốc gia trên nền tảng của Phật giáo”. Theo như nguyện vọng của ông lúc sinh thời, nhục
thân của Di Thứ Đốn được an táng tại núi Kim Cương ( 소소소). Khi an táng ông, vua quan
thề rằng: “Từ nay về sau sẽ phụng thờ Phật, quy y Tăng, nếu ai phạm lời thề sẽ bị thiên
thần, quỷ vật hại chết.”12 Năm 528, vua Pháp Hưng chính thức cơng nhận Phật giáo là
quốc giáo, tiếp đó năm 529, nhà vua ban lệnh cấm sát sinh. Phật pháp được truyền bá trên
khắp mọi miền của đất nước.
Tiếp đó, từ đời vua Chân Hưng đến hết thời Tam quốc (540 - 676), Phật giáo liên
tục phát triển do nhận được sự ủng hộ nhiệt thành từ phía hồng thất và giới q tộc.
Chùa chiền mọc lên ở nhiều nơi từ kinh đô cho đến các miền quê, số người xuất gia nhiều
không kể xiết. Phật giáo có ảnh hưởng quan trọng đến hầu khắp các phương diện của đời
sống xã hội, là nguồn nội lực to lớn, thúc đẩy tinh thần dân tộc Tân La góp phần vào cơng
cuộc thống nhất Tam Hàn.

11 Thích Vân Phong, Hàn Quốc: Thánh tử đạo Ichadon thời Phật giáo Silla, 2013, truy cập ngày 9/2/2016.
/>12 Giác Huấn, Hải Đông cao tăng truyện, Quyển 1, Thích Pháp Khơng, truy cập ngày 9/2/2016.
/>
15


CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN CHÍNH TRỊ TÂN LA
I - Phật giáo Tân La: từ “Phật giáo quý tộc” đến “Phật giáo hộ quốc”
1. Phật giáo Tân La phát triển dưới sự bảo hộ của hoàng thất và q tộc
Sau khi chính thức được cơng nhận là quốc giáo, Phật giáo Tân La đã có những
bước phát triển nhanh chóng và trong q trình đó phần lớn nhờ vào sự ủng hộ của hoàng
thất và giới quý tộc. Do đó, Phật giáo thời kỳ này mang diện mạo “Phật giáo quý tộc”.
Giống như ở Việt Nam thời Lý - Trần, hoàng thất Tân La cũng đã sản sinh ra những Phật
tử thuần thành, những vị tăng sĩ góp phần làm rạng rỡ tinh thần Phật giáo, tiêu biểu trong
đó là vua Pháp Hưng và vua Chân Hưng, những vị vua đầu tiên xuống tóc đi tu trong lịch

sử bán đảo Triều Tiên.
1.1 Chính sách hưng khởi phật giáo của Tân La
Các vị vua Tân La khi lên nắm quyền đều có những chính sách cụ thể nhằm thúc
đẩy sự phát triển của Phật giáo, tăng cường xây dựng chùa chiền, đúc tượng, chuông,
giảng kinh luận ở nhiều nơi. Khởi đầu vào tháng 2 năm thứ 5 đời vua Chân Hưng, chùa
Hưng Luân được khởi công xây dựng. Tháng 3 năm đó, vua xuống chiếu cho phép người
dân được xuất gia, thi hành Phật sự.13
Tháng 2 năm thứ 14 đời vua Chân Hưng (năm 553), chùa Hoàng Long ( 소소소, 소소소)
được xây dựng tại phía Đơng của Nguyệt Thành ( 소소), chùa xây trong vịng 13 năm thì
hồn thành. Chùa Hoàng Long cùng với chùa Hưng Luân trở thành hai ngôi chùa quan
trọng bậc nhất tại Tân La, thường xuyên cử hành các nghi lễ mang tính chất quốc gia như
tiếp đón sứ thần, cầu phúc cho quốc vương,…
Tháng 3 năm thứ 35 đời vua Chân Hưng (năm 574), tượng Trượng Lục tơn ( 소소소소,
소소소소) chùa Hồng Long được xây dựng, bức tượng nặng hơn ba vạn năm nghìn cân,

dùng hết hơn một vạn cân vàng. Năm thứ 14 đời vua Thiện Đức (năm 645), tiếp tục xây
dựng tòa tháp cao 9 tầng tại chùa với mong muốn điều phục được các nước láng giềng,
cầu phúc cho thiên hạ thái bình. Tượng Trượng lục tơn cùng tịa tháp 9 tầng chùa Hoàng
Long được xưng tụng là hai trong số ba bảo vật hộ quốc của Tân La (vật còn lại là chiếc
13 소소소, 한한한한 (소), 소소소소소, 1996, tr.93.

16


đai ngọc Thiên tứ ngọc đai của vua Chân Bình). Điều đó cho thấy, Phật giáo giữ một vai
trị đặc biệt quan trọng, là điểm tựa về mặt tinh thần trong công cuộc bảo vệ quốc gia của
Tân La.
1.2 Vua Pháp Hưng và vua Chân Hưng thoái vị xuất gia
Để chấn hưng Phật pháp, các vị vua Tân La cùng hoàng thất và giới quý tộc chân
cốt đã tiên phong trong việc thi hành Phật giáo. Vua Pháp Hưng là vị vua đầu tiên cởi bỏ

vương miện, mặc áo cà sa đi tu lấy pháp danh là Pháp Không ( 소소, 소소), đem tơng thất của
mình làm nơ bộc cho chùa, rồi trở thành trụ trì của chùa, trực tiếp hoằng dương chánh
pháp, giáo hóa cho chúng sinh. Về sau, người đời xưng tụng ba vị thánh của Phật giáo
Tân La bao gồm có Thiền sư A Đạo - người đã truyền bá Phật giáo vào Tân La, Di Thứ
Đốn - thánh tử đạo đầu tiên và người còn lại chính là vua Pháp Hưng - vị vua vĩ đại đã có
cơng làm hưng khởi Phật pháp.14
Theo Hải Đơng cao tăng truyện ghi lại, sau khi nhà vua xuất gia, vương phi cũng
cắt tóc đi tu tại chùa Vĩnh Hưng ( 소소소, 소소소), lấy pháp danh là Diệu Pháp (소소, 소소). Phật
pháp từ đó mà được hưng thịnh. Việc vua Pháp Hưng cùng vương phi xuất gia nhằm
thượng tôn chánh pháp đã được nhà sư Giác Huấn ( 소소, 소소) so sánh “vượt lên trên Lương
Võ Đế mà có thể sánh ngang với Hán Minh Đế” 15, làm tiền lệ cho hồng thất và q tộc
Tân La xuất gia tìm cầu Phật pháp sau này. Sự kiện này cũng đã ảnh hưởng lớn đến các vị
vua đời sau, tiếp tục xiển dương Phật pháp và cai trị đất nước bằng các giáo lý của đức
Phật.
Sau khi hồn thành cơng cuộc mở mang bờ cõi, đưa Tân La bước vào giai đoạn
cực thịnh về mặt quân sự, vua Chân Hưng cũng đã từ bỏ ngôi báu để xuất gia. Sử thần
Kim Phú Thức không bàn luận nhiều về vấn đề này, do việc nhà vua xuất gia không đúng
với tư tưởng của Nho giáo, cho nên chỉ vắn tắt trong Tam quốc sử ký: “Vua lên ngơi từ
bé, hết lịng phụng sự Phật pháp, đến khi về già thì xuống tóc đi tu, mặc tăng phục, lấy

14 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr.224.
15 Giác Huấn, Hải Đơng cao tăng truyện, Quyển 1, Thích Pháp Không, truy cập ngày 12/2/2016.
/>
17


hiệu là Pháp Vân (소소, 소소). Tháng 8 năm thứ 37 (năm 576), vua qua đời, an táng tại phía
Bắc chùa Ai Công (소소소, 소소소).”16
1.3 Sự ủng hộ của giới quý tộc đối với Phật giáo
Cùng với hoàng thất, giới quý tộc cũng đặc biệt ủng hộ cho sự phát triển của Phật

giáo bằng nhiều cách khác nhau: quyên tiền xây chùa, cúng dường cho chư Tăng, tìm
hiểu giáo lý của đạo Phật. Nhà sư Nhất Nhiên đã dùng hình ảnh so sánh, từ sau đời vua
Chân Hưng, “chùa mọc lên như sao, tháp nối tiếp nhau như đàn ngỗng trời.” Đến đời vua
Thái Tông Vũ Liệt, tể tướng Kim Lang Đồ ( 소소소, 소소소)đã dâng hai người con gái của mình
là Hoa Bảo (소소, 소소) và Liên Bảo (소소, 소소) làm giúp việc cho chùa Hưng Luân, lại bắt tồn
bộ gia tộc của nghịch thần Mao Xích (소소, 소소) làm nơ tỳ cho chùa.17
Nhiều cao tăng Tân La có xuất thân từ tầng lớp chân cốt cũng là một minh chứng
rõ ràng cho sức hút của Phật giáo đối với giới quý tộc Tân La thời kỳ này. Có thể kể đến
trong số đó tên tuổi của các vị như Từ Tạng pháp sư ( 소소, 소소, 590 - 658) Nguyên Hiểu
pháp sư (소소, 소소, 617 - 686), Nghĩa Tương pháp sư ( 소소, 소소, 625 - 702),... những người đã
góp cơng đầu trong sự phát triển của lịch sử Phật giáo bán đảo Triều Tiên nói chung và
Phật giáo Tân La nói riêng.
2. Tư tưởng “Phật giáo hộ quốc” và “Phật quốc thổ” - đặc trưng tiêu biểu của
Phật giáo Tân La
Trong tác phẩm Tam quốc di sự, nhà sư Nhất Nhiên đã đánh giá sự tồn tại của Tam
quốc ít nhiều phụ thuộc vào thái độ thể hiện đối với Phật giáo. Phật giáo được công nhận
ở Tân La tuy muộn nhất song cuối cùng lại phát triển mạnh mẽ nhất ở quốc gia này. Khác
với Cao Câu Ly, Phật giáo bị Đạo giáo lấn át thời vua Bảo Tạng dẫn đến tiềm lực quốc
gia suy yếu hay Bách Tế, Phật giáo tập trung phát triển mạnh về mặt nghệ thuật và đời
sống tinh thần, Phật giáo Tân La đã chủ trương nhập thế, tiếp biến mạnh mẽ với các giá
trị văn hóa tinh thần của người Tân La, hình thành đặc trưng “Phật giáo hộ quốc” (Phật
giáo đóng vai trị bảo vệ quốc gia). Cũng chính nhờ đặc điểm này mà Phật giáo Tân La
trở thành đại diện tiêu biểu cho sự phát triển đạo Phật nói chung thời Tam quốc.
16 소소소, 한한한한 (소), 소소소소소, 1996, tr.99.
17 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr.225.

18


Tư tưởng Phật giáo hộ quốc

Tư tưởng “Phật giáo hộ quốc” ( 소소소소, 소소소소) là đóng góp to lớn của pháp sư Từ
Tạng (소소, 소소, 590 - 658) đối với tư tưởng Phật giáo Tân La nói chung và triết lý về chính
trị - xã hội nói riêng. Tư tưởng “Phật giáo hộ quốc” mà vương triều Tân La vận dụng có
thể được thể hiện qua kinh Nhân vương (tên đầy đủ là Nhân vương hộ quốc bát nhã ba la
mật đa kinh,

소소소소소소소소소소소, 소소소소소소소소소소소).

Kinh Nhân vương ghi lại cuộc đối thoại giữa

đức Phật và vua Ba Tư Nặc là người đại diện cho hơn 15 vị vua có mặt, nhằm trả lời thắc
mắc của các vị vua về việc bảo vệ xứ sở, giảm thiểu sự nguy hại đối với quốc gia. Sau khi
thuyết giảng, đức Phật đã khuyến dạy các vị vua bảo vệ đất đai của họ bằng cách gìn giữ
và trì tụng kinh Nhân vương, đồng thời bảo hộ các nghi lễ Phật giáo dựa trên kinh này.
Dưới thời Tân La, kinh Nhân vương được trì tụng trong những nghi lễ mang tính quốc
gia. Tam quốc sử ký ghi lại, tháng giêng năm thứ 5 đời vua Thiện Đức, vua lâm bệnh
nặng, việc chữa trị bằng y dược khơng có cơng hiệu. Do vậy, gần 100 vị cao tăng tụ hội ở
chùa Hoàng Long mở đạo tràng Bách tọa để giảng tụng kinh Nhân vương. 18 Truyền thống
trì tụng kinh Nhân vương tiếp tục được duy trì dưới triều Tân La thống nhất.
Tư tưởng Phật quốc thổ
Dựa trên tư tưởng “Phật giáo hộ quốc”, hoàng thất cũng như giới tăng sĩ Tân La đã
củng cố niềm tin trong lòng dân chúng bằng cách chung tay xây dựng “Phật quốc thổ” ( 소
소소, 소소소).

Tư tưởng “Phật quốc thổ” chỉ ra Phật giáo và Tân La đã có nhân duyên từ thời

quá khứ, là quốc độ của chư Phật, sẽ đạt được phồn thịnh, chấm dứt mọi khổ đau. Để làm
được điều đó, Tân La phải phát huy mọi nguồn lực để hoàn thành nghiệp lớn là thống
nhất Tam hàn, chấm dứt tình trạng chiến tranh kéo dài, mở ra thời kỳ thái bình cho nhân
dân. Ý nghĩa trong tên gọi Tân La chính nhằm biểu hiện ước mơ này: “Đức nghiệp nhật

tân, võng la tứ phương” (소소소소 소소소소, 소소소소 소소소소)
Việc thờ phụng bồ tát Di Lặc ( 소소소소, 소소소소, đức Phật của tương lai) đặc biệt phát
triển tại Tân La thời kỳ này. Người dân Tân La thời bấy giờ đã đặt niềm tin vào đức vua
của họ, như một hiện thân bồ tát Di Lặc hay một hiện thân của Chuyển luân thánh vương
(소소소소, 소소소소), người sẽ thống nhất Tam hàn và cai trị quốc gia mới trên nền tảng giáo lý
18 소소소, 한한한한 (소), 소소소소소, 1996, tr.116.

19


của đức Phật. Theo quan niệm của đạo Phật, Chuyển luân thánh vương là vị vua vĩ đại sở
hữu bảy thành tựu giúp vua cai trị thiên hạ:
1. Cai trị đất nước bằng luật pháp với một nền quản trị tốt;
2. Sức mạnh về quân sự;
3. Sức mạnh về kinh tế;
4. Sức mạnh về tri thức;
5. Đức hạnh và nhân cách con người;
6. Có người tài đức - ngun khí của quốc gia;
7. Có bề tơi tốt, giúp điều hành vận nước phát triển thịnh vượng.19
Niềm tin vào Chuyển luân thánh vương đã củng cố tinh thần của dân chúng vào bộ
máy chính trị, từ đó thúc đẩy sự chuyển giao quyền lực từ tay quý tộc vào tay nhà vua
(q trình chun chế hóa bộ máy nhà nước). Chế độ quân chủ chuyên chế dần hình
thành thay thế cho chế độ quân chủ quý tộc góp phần nâng cao tiềm lực của đất nước cả
về chính trị lẫn quân sự, tạo điều kiện nội lực để Tân La hoàn thành nhiệm vụ thống nhất
Tam quốc sau này.
II - Vai trị của giới tăng sĩ đối với nền chính trị Tân La

III - Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực quân sự

IV - Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực ngoại giao

Phật giáo với tư cách là trung gian văn hóa đã trở thành cầu nối, phương tiện ngoại
giao giữa Tân La với các quốc gia láng giềng, trong đó có thể kể đến Trung Quốc, Nhật
Bản, Cao Câu Ly và Bách Tế.
Tam quốc sử ký và Tam quốc di sự đã ghi chép lại cụ thể những lần các sứ thần
Trung Quốc mang theo các bảo vật của Phật giáo đến vương triều Tân La và ngược lại:

19 Thích Nhật Từ, Kinh Phật cho người tại gia, Kinh Chuyển luân thánh vương, NXB Hồng Đức, 2013, tr.351.

20


Năm thứ 15 đời vua Pháp Hưng, sứ thần nhà Lương đến dâng tặng y phục và
hương.
Năm thứ 10 đời vua Chân Hưng (năm 549), sứ thần nhà Lương là Trầm Hồ cùng
tăng sĩ Giác Đức (소소) đến mang theo xá lợi của đức Phật. Vua và Thái hậu cùng bách
quan ra tiếp đón trước Hưng Luân tự.
Tháng 2 năm thứ 26 đời vua Chân Hưng (năm 565), sứ thần nhà Trần cùng tăng sĩ
Minh Quan đến dâng tặng 1.700 cuốn kinh luận.
Năm thứ 37 đời vua Chân Hưng (năm 576), pháp sư An Hồng ( 소소) từ nước Tùy
đến cùng với hai vị tăng sĩ Tây Vực, mang theo xá lợi Phật cùng kinh Lăng Già.
Mùa xuân năm thứ 35 đời vua Chân Bình, sứ thần nhà Tùy đến chùa Hoàng Long,
bá quan đã chuẩn bị thỉnh pháp sư Viên Quang cùng các vị pháp sư khác thuyết giảng
kinh Phật.
Năm 643 đời vua Thiện Đức, pháp sư Từ Tạng mang hơn 400 cuốn Tam tạng cùng
nhiều cờ Phật và khám thờ về và bảo quản ở chùa Thông Độ.
Tháng giêng năm thứu 9 đời vua Văn Vũ, tăng sĩ nhà Đường là Pháp An nhận lệnh
thiên tử (Đường Cao Tơng) đến để tìm kiếm đá từ thạch (nam châm).

21



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Hàn
1. 소소소, 한한한한 (소), 소소소소소, 1996
2. 소소소, 한한한한 한한 한한한한한한, 소소소소소소소, 2013

Tài liệu tiếng Việt
1. Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012
2. Andrew C.Nahm, Lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên, NXB Văn hóa thơng tin, 2005.
3. Thích Nhật Từ, Kinh Phật cho người tại gia, NXB Hồng Đức, 2013
4. Giác Huấn, Hải Đông cao tăng truyện, Quyển 1, Thích Pháp Khơng.
/>
22



×