BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA: KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN: Y TẾ CÔNG CỘNG
PHẠM QUỐC HUY – C01459
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN
QUAN TRONG PHÒNG CHỐNG LÂY TRUYỂN VI RÚT
VIÊM GAN B TRÊN PHỤ NỮ MANG THAI CÓ HBV TẠI
ĐỒNG THÁP VÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
TĨM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Hà Nội - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA: KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN: Y TẾ CÔNG CỘNG
PHẠM QUỐC HUY
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN
QUAN TRONG PHÒNG CHỐNG LÂY TRUYỀN VI RÚT
VIÊM GAN B TRÊN PHỤ NỮ MANG THAI CÓ HBV TẠI
ĐỒNG THÁP VÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
TĨM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ: 8720715
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BS. HOÀNG QUỐC CƯỜNG
Hà Nội - 2020
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................ 1
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 3
1.
Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................... 3
1.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................... 3
1.2. Địa điểm nghiên cứu ........................................................... 3
1.3. Thời gian nghiên cứu .......................................................... 3
2.
Phương pháp nghiên cứu .......................................................... 3
2.1. Thiết kế nghiên cứu............................................................. 3
2.2. Cở mẫu và cách chọn mẫu .................................................. 4
2.3. Các biến số, chỉ số nghiên cứu và tiêu chí đánh giá............ 5
III. CÁC KẾT QUẢ ........................................................................ 8
1. Kiến thức, thực hành về phòng, chống lây truyền vi rút viêm
gan B của thai phụ có HBV ................................................................ 8
2.
Các yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành ................... 12
IV. BÀN LUẬN.............................................................................. 16
1. Kiến thức, thực hành về lây truyền vi rút viêm gan B của thai
phụ có HBV. ..................................................................................... 16
2. Yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phòng, chống lây
truyền vi rút viêm gan B của đối tượng nghiên cứu. ........................ 22
KẾT LUẬN ..................................................................................... 25
1. Kiến thức, thực hành về phòng, chống lây truyền vi rut viêm
gan B của thai phụ có HBV tại bệnh viên Từ Dũ TP.HCM và BVĐK
Đồng Tháp. ....................................................................................... 25
2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành phòng chống
lây truyền vi rút viêm gan B của thai phụ có HBV tại Bệnh viện Từ
Dũ TP.HCM và BVĐK Đồng Tháp. ................................................ 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 27
1
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm gan B là bệnh nhiễm trùng gan có khả năng đe dọa đến
tính mạng. Nhiễm vi rút viêm gan B là một vấn đề có tính chất toàn
cầu. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2002, thì có hơn 2
tỷ người trên thế giới bị nhiễm HBV, trong đó có 350 triệu người mang
vi rút viêm gan B mạn tính. Hàng năm, hơn 4 triệu ca lâm sàng liên
quan đến HBV và 25% trong số đó mang bệnh, ước tính trên thế giới
có tới một triệu người mang vi rút viêm gan B mạn tính chết vì ung
thư gan ngun phát và xơ gan [12].
Bệnh viêm gan B có thể phịng chống được nếu sử dụng vắc xin
sớm và tuân thủ điều trị. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo sử dụng
vắc xin viêm gan B trong chương trình tiêm chủng mở rộng để tiêm
chủng cho trẻ ở tất cả các quốc gia [11].
Vi rút viêm gan B tồn tại trong máu và dịch thể, có thể lây truyền
theo 3 đường: Từ mẹ sang con, qua đường máu, và quan hệ tình dục
không sử dụng bao cao su. Ở Việt Nam, đường phổ biến nhất là lây
truyền từ mẹ sang con và cũng là nguyên nhân viêm gan B thường gặp
nhất. Nhiều thai phụ khơng biết mình bị nhiễm viêm gan B do khơng
có triệu chứng và khơng được xét nghiệm [7].
Mặc dù bệnh viêm gan B có thể dự phịng được, tỷ lệ bao phủ
vắc xin viêm gan B trên toàn cầu mới đạt 75% thấp hơn nhiều so với
mục tiêu cần đạt là 90%; trong đó tỷ lệ tiêm vắc xin viêm gan B liều
sơ sinh (trong vòng 24 giờ đầu) mới đạt 27% [8].
Việc tiêm vắc xin thực hiện càng sớm thì hiệu quả càng cao, với
mũi tiêm trong 24 giờ kết hợp với tiêm đủ 3 liều vắc xin, thì khả năng
phịng được 85-90% các trường hợp lây truyền từ mẹ sang con [8].
Trên thực tế, nhiều trẻ sinh ra từ mẹ có vi rút viêm gan B dương
tính vẫn bị nhiễm bệnh viêm gan B sau khi sinh, mặc dù đã được tiêm
vắc xin viêm gan B. Lây truyền viêm gan B trong quá trình chuyển dạ
và khi đẻ là nguyên nhân phổ biến trong cơ chế lây truyền vi rút viêm
gan B từ mẹ sang con[8].
2
Trung tâm gan Á Châu – trường đại học Stanford cho rằng viêm
gan B là “kẻ giết người thầm lặng”. viêm gan B mạn rất nguy hiểm vì
thường khơng có triệu chứng rõ ràng. Khi có các biểu hiện lâm sàng
thì thường bệnh đã ở giai đoạn muộn. Và viêm gan B là nguyên nhân
chính gây ung thư gan, là nguyên nhân của 37% các trường hợp tử
vong do ung thư gan trên thế giới. Người mắc viêm gan B mạn có
nguy cơ bị ung thư gan cao gấp 100 lần so với người khơng mắc[7].
Trẻ sơ sinh có nguy cơ tiến triển thành viên gan B mạn cao nhất.
Trên 90% trẻ sinh từ mẹ nhiễm viêm gan B sẽ mắc viêm gan B mạn
nếu không được tiêm vắc xin và điều trị dự phòng [7].
Mặc dù Bộ Y tế Việt Nam đã rất quan tâm đến việc kiểm soát
bệnh do lây truyền vi rút viêm gan B bằng rất nhiều văn bản hướng
dẫn hay kế hoạch cụ thể. Tuy nhiên, nhận thức của người dân về vi rút
viêm gan B cịn hạn chế, khơng có nhiều nghiên cứu về kiến thức, thực
hành phòng chống lây truyền vi rút viêm gan B tại Việt Nam, đặc biết
là trên đối tượng là thai phụ có HBV, nhóm này ảnh hưởng trực tiếp
đến việc lây truyền vi rút viêm gan B từ mẹ sang con. Vì vậy nhóm
nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu với mục đích chính là khảo sát
nhận thức việc phòng chống lây truyền vi rút viêm gan B của các bà
mẹ mang thai có HBV tại 2 địa điểm: Bệnh viện Từ Dũ Thành phố Hồ
Chí Minh và Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp từ đề tài cấp Bộ mà cơ
quan chủ trì nghiên cứu là Viện Pasteur TP. HCM với các mục tiêu cụ
thể như sau:
1. Đánh giá kiến thức, thực hành phòng, chống lây truyền vi rút
viêm gan B của phụ nữ mang thai có HBV tại bệnh viện đa
khoa Đồng Tháp và bệnh viện Từ Dũ TP. HCM năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành
phòng chống lây truyền vi rút viêm gan B của đối tượng
nghiên cứu.
3
II.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
1.1.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn
− Thai phụ đã vào chuyển dạ, có dấu sanh hoặc có tuổi thai
>34 tuần;
− Có nhiễm HBV (có kết quả dương tính với HBsAg);
− Khám thai tại Bệnh viện Từ Dũ và bệnh viện đa khoa Đồng
Tháp;
− Không tham gia các nghiên cứu tương tự trong thời gian thực
hiện;
− Đồng ý tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
− Bất kỳ sản phụ nào từ chối tham gia nghiên cứu;
− Sản phụ có dị tật bẩm sinh, có tiền sử bệnh tâm thần;
− Sản phụ mắc các bệnh suy giảm miễn dịch, HIV;
− Sản phụ có con dị tật bẩm sinh;
− Sản phụ có bất thườ ng về thai kỳ nặng như: tiền sản giật,
nhau tiền đạo;
− Phụ nữ không mang thai;
1.2.
Địa điểm nghiên cứu
− Bệnh Viện Từ Dũ – Thành phố Hồ Chí Minh
− Bệnh viện Đa Khoa Đồng Tháp
1.3.
Thời gian nghiên cứu
Tháng 11 năm 2019 đến cuối tháng 05 năm 2020.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp Dịch Tễ Học, mơ
tả cắt ngang có phân tích.
4
2.2.
Cở mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu
Vì kết cục của nghiên cứu là khảo sát kiến thức, thực hành của
phụ nữ mang thai có HBV, vì vậy cách thức xác định cỡ mẫu nhóm
nghiên cứu lựa chọn cơng thức ước lượng một tỷ lệ trong nghiên cứu
mơ tả:
Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu.
p: Tỷ lệ ước đoán biến số trong nghiên cứu, vì chưa có nghiên
cứu nào trước đây tìm hiểu kiến thức, thực hành của thai phụ có HBV
nên chọn p=0.5 để có được cở mẫu lớn nhất.
d: Sai số tuyệt đối, có thể ước tính sai số tỷ lệ lưu hành hiện nay
của vi rút viêm gan B trên phụ nữ mang thai là 6,5% so với dân số cả
nước, cho phép d = 0,065.
: Hệ số giới hạn tin cậy, ứng với độ tin cậy 95% →
=1.96.
nên ta có cỡ mẫu nhau sau:
𝟏, 𝟗𝟔𝟐 × 𝟎, 𝟓(𝟏 − 𝟎, 𝟓)
𝒏=
= 𝟐𝟐𝟕. 𝟑
𝟎, 𝟎𝟔𝟓𝟐
Cho rằng tỷ lệ sai sót và thất lạc bộ cậu hỏi là 5% = 11.4
Cỡ mẫu nghiên cứu: 227+11=238.1
Vậy cỡ mẫu nghiên cứu: 238.
Nghiên cứu được khảo sát tại Bệnh viện đa khoa Đồng Tháp,
và bệnh viện Từ Dũ nên việc thu tuyển sẽ lấy đến khi đủ 238 cỡ mẫu.
Cách chọn mẫu
Vì kết cục của nghiên cứu liên quan đến nhận thức của đối tượng
nghiên cứu là phụ nữ mang thai có HBV, nên tơi lựa chọn phương
5
pháp chọn mẫu thuận tiện là phụ nữ mang thai bị nhiễm vi rút viêm
gan B tại 2 địa điểm trên.
Các biến số, chỉ số nghiên cứu và tiêu chí đánh giá
2.3.
Biến số
Bảng 2. 1: Biến số và chỉ số nghiên cứu
Phân
Chỉ số/ định
loại
nghĩa
Thơng tin chung của thai phụ có HBV
Địa điểm
Nhị
Thu thập tại địa
thu tuyển
phân
điểm thu tuyển
Biến số
Tuổi
Thứ tự
Ngày tháng năm
PP thu
thập
Cơng
cụ
Thu
tuyển
Địa
điểm
thu
tuyển
Phiếu
hỏi
Hỏi
sinh
Học vấn
Thứ tự
Theo cấp học của
Hỏi
Phiếu
hỏi
Hỏi
Phiếu
hỏi
Hỏi
Phiếu
hỏi
mẹ
Nghề nghiệp
Số con
Phân
nhóm
Theo nghề nghiệp
Thứ tự
Theo chỉ số PARA,
của mẹ
lấy số con hiện tại
(trước lúc sinh)
Mục tiêu 1: Kiến thức, thực hành về phịng, chống lây truyền
vi rút VGB ở thai phụ có HBV
Biết về bệnh
Nhị
Phân loại theo câu trả Hỏi
Phiếu
phân lời có, không
hỏi
6
Qua đường ăn Nhị
phân
uống
Phân loại theo câu trả
Qua đường hô Nhị
phân
hấp
Phân loại theo câu trả
Qua đường máu Nhị
và các dịch tiết phân
Phân loại theo câu trả
Hỏi
Phiếu
hỏi
Hỏi
Phiếu
hỏi
Hỏi
Phiếu
hỏi
Hỏi
Phiếu
hỏi
Hỏi
Phiếu
hỏi
Hỏi
Phiếu
hỏi
lời đúng sai
lời đúng sai
lời đúng sai
liên quan đến
máu
Qua
quan
hệ Nhị
phân
Phân loại theo câu trả
Mẹ truyền sang Nhị
con lúc mang phân
Phân loại theo câu trả
tình dục
lời đúng sai
lời đúng sai
thai và lúc sinh.
Qua da: ôm ấp, Nhị
phân
bắt tay
Phân loại theo câu trả
phòng, Thứ
hạng
Phân loại theo câu trả
lời đúng nhất
Hỏi
Phiếu
hỏi
Đối tượng tiêm Thứ
hạng
vắc xin
Phân loại theo câu trả
lời đúng nhất
Hỏi
Phiếu
hỏi
Số lượng mũi Thứ
hạng
tiêm
Phân loại theo câu
trả lời đúng nhất
Hỏi
Phiếu
hỏi
Số lượng mũi Thứ
tiêm cho trẻ hạng
Phân loại theo câu
trả lời đúng nhất
Hỏi
Phiếu
hỏi
Cách
chống
lời đúng sai
7
dưới 12 tháng
tuổi
Thời điểm tiêm
Thứ
hạng
Thời gian bảo vệ Thứ
hạng
của vắc xin
Phân loại theo câu trả
lời đúng nhất
Phân loại theo câu
trả lời đúng nhất
Hỏi
Nguồn kiến thức Thứ
hạng
Lựa chọn nguồn kiến
thức theo cảm tính
của thai phụ
Lựa chọn nguồn kiến
thức theo cảm tính
của thai phụ
Hỏi
Phiếu
hỏi
Hỏi
Phiếu
hỏi
Điều trị trước đó Thứ
hạng
Hỏi
Phiếu
hỏi
Phiếu
hỏi
Mục tiêu 2: Một số yếu tố liên quan đến phòng, chống lây
truyền vi rút VGB của thai phụ có HBV:
− Biến độc lập: Yếu tố nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu
− Biến phụ thuộc: Kiến thức, thực hành đạt hay không đạt
− Phương pháp thu thập: OR (CI95%), p
Phương phấp thu
Biến phụ
thập
thuộc
Biến độc lập
Có
Khơng
ORđ
ORh
b
c
CI
95%
Địa điểm thu tuyển
Bệnh viện Từ Dũ
BVĐK Đồng Tháp
-
Nhóm tuổi
≤ 25 tuổi
26-34 tuổi
-
≥ 35 tuổi
-
p
8
Trình độ học vấn
từ PTCS trở xuống
PTTH
Trên PTTH
-
Nghề nghiệp
Nội trợ
Làm nơng - Cơng
nhân
Văn Phịng
Kinh doanh
-
Số con
Con so
Con rạ
Tiêu chí đánh giá
Cho điểm số đánh giá được khách quan từng kiến thức rời rạc
của bộ câu hỏi bằng cách cho 1 điểm đối với câu trả lời đúng và 0 điểm
đối với câu trả lời sai. Thang điểm do lường kiến thức từ tối thiểu là 0
đến tối đa là 12. Và để thống nhất tính tồn diện nhóm nghiên cứu đưa
ra cách xác định về kiến thức chung của đối tượng nghiên cứu theo
tiêu chí: điểm chung < 6 xem như là KHÔNG ĐẠT, điểm chung >= 6
xen như là ĐẠT.
III.
CÁC KẾT QUẢ
1. Kiến thức, thực hành về phòng, chống lây truyền vi rút viêm
gan B của thai phụ có HBV
Tỷ lệ thu tuyển tại bệnh viện Từ Dũ chiếm đa số với 64.29%
trong khi bệnh viện đa khoa Đồng Tháp là 35.71%. Bệnh viện đa khoa
Đồng Tháp đã thu tuyển sớm hơn 2 tháng so với Bệnh Viện Từ Dũ.
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy đa phần các bà mẹ mang thai
có HBV tập trung nhiều nhất vào nhóm tuổi 26-34 tuổi (66.81%),
9
nhóm tuổi <= 25 tuổi và nhóm >=35 tuổi có tỷ lệ gần bằng nhau lần
lượt chiếm 28.07% và 15.13%.
Theo tỷ lệ nghiên cứu ta thấy, học vấn của đối tượng nghiên cứu
khá cao, có tới 42.86% tổng các bà mẹ có học vấn từ trung cấp, cao
đẳng và đại học trở lên, tiếp sau đó học vấn cấp 3 với 29.83%, cấp 2
là 21.43% và cấp 1 tương ứng là 5.46%. Vẫn cịn có 1 đối tượng nghiên
cứu là không biết chữ.
Tỷ lệ nghiên cứu cho thấy, phần lớn phụ nữ mang thai có HBV
rơi vào hai nhóm ngành chính lần lượt là nội chợ (36.97%) và nhóm
văn phịng (33.19%), nhóm nghề nghiệp là cơng nhân thì ít hơn một
nửa với chiếm tỷ lệ 16.39%, tiếp theo là nhóm nghề nghiệp Kinh
doanh (nghề tự do) là 10.5%. Nhóm nghề nghiệp của thai phụ có HBV
chiếm tỷ lệ thấp nhất (2.94%) là Làm nơng.
Theo kết quả nghiên cứu thì tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có từ 1
con trở lên là chủ yếu, chiếu tới 73.53%. Con số này là 26.47% đối
với đối tượng nghiên cứu chuẩn bị có con đầu lịng.
Trong q trình khám sàn lọc tại hai địa điểm nghiên cứu, hầu
như trình trạng sức khỏe của các sản phụ đều bình thường, chỉ có 1 số
rất ít khơng đáng kể bao gồm có 2 trường hợp có bệnh liên quan đến
tim chiếm tỷ lệ 0.8% trên tổng số 238 trường hợp. Nghiên cứu ghi
nhận 3 trường hợp có trình trạng sức khỏe khơng bình thường ở nhóm
bệnh khác chiếm tỷ lệ là 1.3%.
Kiến thức về đường lây truyền
− Nghiên cứu cho thấy có 59 (24.8%) thai phụ có HBV cho
rằng viêm gan B có thể lây qua đường ăn uống
− Nghiên cứu cũng cho thấy có 21.4% số thai phụ có HBV cho
rằng viêm gan B có thể lây qua đường hô hấp.
− Đối với đường máu và các dịch tiết liên quan đến máu thì có
19.3%(n=46) số thai phụ có HBV cho rằng viêm gan B
khơng lây qua con đường này.
10
− Nghiên cứu ghi nhận đa số với 85.7% (n=204) số thai phụ
có HBV cho rằng viêm gan B có thể lây qua đường quan hệ
tình dục, trong đó 14.3% (n=34) thì cho là khơng.
− Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn số sản phụ cho rằng
viêm gan B có thể lây từ đường mẹ truyền sang con lúc mang
thai và trong lúc sinh với tỷ lệ chiếm 85.7% (n=204), và chỉ
có 34 sản phụ là khơng đồng ý với điều này chiếm 14.3%.
− Viêm gan B có thể lây qua đường da thì chỉ có 4.6% (n=11)
là có thể, 10.1% (n=24) khơng có câu trả lời cho đường lây
này, còn lại 85.3% (n=203) số sản phụ cho rằng khơng thể
lây qua da.
Kiến thức về cách phịng chống
Nghiên cứu cho thấy đa số sản phụ với 87% (n=207) cho rằng
cách phòng chống tốt nhất là tiêm ngừa bằng vắc xin, 5.9% và 4.2%
số sản phụ không biết và không trả lời câu hỏi này, các lựa chọn còn
lại chiếm tỷ lệ không đáng kể với các chỉ số tương ứng 0.8%, 1.3%,
0.4% và 0.4% với các lựa chọn truyền máu an tồn cho con, khám sức
khỏe để tầm sốt bệnh viêm gan B, ăn chín uống sơi và khơng giao
tiếp thông thường với người bệnh.
Kiến thức về tiêm vắc xin
Nghiên cứu ghi nhận, đa số sản phụ cho rằng đối tượng cần tiêm
vắc xin là tất cả mọi người chiếm 86.6% (n=206), các lựa chọn còn lại
chiếm tỷ lệ thấp cụ thể là 4.6% (n=11) với lựa chọn đối tượng cần tiêm
vắc xin là trẻ em và 4.2% (n=10) với lựa chọn đối tượng cần tiêm vắc
xin là người lớn. Trong nghiên cứu cũng ghi nhận có 4.6% (n=11) là
không trả lời câu hỏi này.
Nghiên cứu ghi nhận, chiếm nhiều nhất là số sản phụ không biết
về số mũi tiêm để phòng ngừa bệnh viêm gan B với 34.5% (n=82),
tiếp ngay sau đó là lựa chọn với >= 3 mũi tiêm chiếm tỷ lệ 33.2%
(n=79). Các lựa chọn khác 1 mũi tiêm, 2 mũi tiêm và không trả lời
tương ứng 5.9% (n=14), 21.4% (n=51) và 5% (n=12).
11
Đối với số mũi tiêm cần thiết cho trẻ dưới 12 tuổi thì nghiên cứu
cho thấy, với lựa chọn >= 3 mũi chiếm tỷ lệ 37% (n=88), không biết
là lựa chọn chiếm tỷ lệ thấp hơn tiếp theo với 29.4% (n=70), tiếp theo
lần lượt với 2 mũi và 1 mũi có các tỷ lệ tương ứng lần lượt là 21%
(n=50) và 7.6% (n=18). Trong nghiên cứu cũng ghi nhận 12 sản phụ
ko trả lời câu hỏi trên chiếm tỷ lệ 5%.
Nghiên cứu ghi nhận hầu hết các thai phụ có HBV cho rằng thời
điểm để tiêm mũi đầu tiên cho trẻ dưới 12 tháng ti là trong vịng 24
giờ sau sinh chiếm tỷ lệ 92.9%. Các lựa chọn còn lại chiếm tỷ lệ không
đáng kể tương ứng với các lựa chọn trong vòng 1 tháng tuổi, trong
vòng 2 tháng tuổi và lớn hơn hoặc bằng 3 tháng tuổi là 1.3% (n=3),
0.4% (n=1), 0.4% (n=1), trong đó nghiên cứu ghi nhận 12 trường hợp
không trả lời câu hỏi này chiếm 5%.
Nghiên cứu cho thấy hơn phân nửa số sản phụ lựa chọn không
biết về thời gian bảo vệ khi đã tiêm đủ các liều vắc xin chiếm với
54.2% (n=129), tỷ lệ cao thứ 2 là lựa chọn từ 1-10 năm chiếm 20.2%
(n=48), trong khi chỉ có 8.4% (n=20) số sản phụ lựa chọn từ 20 năm
trở lên. Các lựa chọn khác, dưới 1 năm và từ 10-20 năm có tỷ lệ lựa
chọn tương ứng là 2.5% (n=6) và 9.7% (n=23). Có 5% số sản phụ
khơng có câu trả lời trong câu hỏi này.
Nguồn kiến thức
− Có 29 (12.2%) thai phụ cho rằng kiến thức về phòng lây
truyền vi rút viêm gan B là từ bạn bè và người thân.
− Có 124 (52.1%) thai phụ cho rằng kiến thức về phòng lây
truyền vi rút viêm gan B là từ sách báo, tờ rơi và từ Internet.
− Kiến thức từ đài phát thanh, truyền hình thì có 66 (27.7%)
số thai phụ cho rằng là có tác động đến họ.
− Và phần đơng số thai phụ (n=153, 64.3%) cho rằng nhân
viên y tế đã tác động đến kiến thức của họ.
Thực hành phòng chống lây truyền vi rút viêm gan B
Nghiên cứu cho thấy, chỉ có 8.4% (n=20) số sản phụ cho rằng
là đã từng điều trị viêm gan B trong quá khứ, tuy nhiên chỉ có 11 sản
12
phụ nhớ khoản thời gian điều trị trước đó từ 1-12 năm, cụ thể có 4 sản
phụ cho rằng đã điều trị viêm gan B cách thời điểm thu tuyển là 1 năm,
2 sản phụ thì điều trị cách thời điểm thu tuyển 4 năm và 5 năm cũng
có 2 sản phụ. 3 năm, 9 năm và 12 năm mỗi thời điểm tương ứng với 1
sản phụ.
Nghiên cứu cũng ghi nhận, khoản 1/3 chồng của các sản phụ
chiếm 32.4% (n=77) đã từng xét nghiệm HBV, còn lại là chưa từng
điều trị và không biết. Trong 77 người chồng đã từng xét nghiệm chỉ
có 19 trường hợp là có kết quả nhiễm HBV, chiếm 24.6% trong số 77
người chồng đa từng xét nghiệm HBV và chiếm 8.0% trên tổng số câu
trả lời của sản phụ.
2.
Các yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành
Yếu tố liên quan đến kiến thức về đường lây truyền qua
đường tình dục
Trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên có tỷ lệ trả lời đạt cao nhất
với 87,3%, 77,5% là tỷ lệ trả lời đạt của nhóm cấp 3, nhóm cịn lại có
tỷ lệ trả lời đúng thấp nhất với 63,1%, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (χ2= 13,4, P=0,001).
Thai phụ làm việc văn phịng có tỷ lệ trả lời đúng cao hơn cả
với 91,1%, 60% là tỷ lệ trả lời đúng thấp nhất của nhóm nghề Kinh
doanh, hai nhóm Làm Nơng – Cơng nhân và nhóm nội trợ có tỷ lệ trả
lời đúng tương ứng là 76,1% và 71,6%. Sự khác này này có ý nghĩa
thống kê (χ2= 14,7, P=0,002).
Yếu tố liên quan đến kiến thức về đường lây truyền từ mẹ
sang con
Trình độ từ Cao đẳng trở lên có tỷ lệ trả lời đúng cao nhất với
93,1%, các nhóm cịn lại có tỷ lệ trả lời đúng thấp hơn, cụ thể: Cấp 3
với 85,9% và từ Cấp 2 trở xuống với 73,8%. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (χ2= 16,641, P=0,002).
Yếu tố liên quan đến cách phòng chống bệnh viêm gan B
13
Tại bệnh viện Từ Dũ (92,8%) là trả lời đúng cao hơn tỷ lệ này
tại bệnh viện đa khoa Đồng Tháp (76,5%). sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (P=0,000, OR = 3,97, 95% CI 1.799 – 8.77).
Tỷ lệ trả lời đúng cao nhất là nhóm có trình độ trên Cấp 3 với
95,1%, tỷ lệ này giảm dần ở các trình độ thấp hơn như Cấp 3, từ Cao
đẳng trở lên lần lượt là 84,5%, 76,9%. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (χ2= 12,12, P=0,002).
Tỷ lệ trả lời đúng cao nhất vẫn là nhóm Văn phịng với 94,9%,
nhóm có tỷ lệ thấp nhất là nhóm Làm nơng – Cơng nhân với 78,3%.
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 8,17, P=0,043).
Yếu tố liên quan đến kiến thức về đối tượng tiêm phòng vắc
xin
Tỷ lệ thai phụ trả lời đúng ở bệnh viện Từ Dũ (90,8%) cao hơn
tại bệnh viện đa khoa Đồng Tháp (78,8%). Sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê (P=0,009, OR = 2,67, 95% CI 1,25 – 5,69).
Tỷ lệ trả lời đúng theo từng cấp trình độ, cụ thể: từ Cấp 2 trở
xuống (76,9%). Cấp 3 (88,7%) và cao nhất là trình độ từ Cao đẳng trở
lên với 91,2%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 7,343,
P=0,025).
Tỷ lệ trả lời đúng cao nhất vẫn là nhóm Văn phịng với 93,7%
và thấp nhất (76,0%) ở nhóm Kinh doanh. Sự chênh lệch này có ý
nghĩa thống kê (χ2= 8,17, P=0,043).
Tỷ lệ trả lời đúng của thai phụ con so (96,8%) cao hơn nhóm
con rạ (85,5%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P=0,005, OR = 6.31,
95% CI 1,46 – 27,23).
Yếu tố liên quan đến số lượng mũi tiêm đủ liều đối với trẻ
dưới 12 tháng tuổi
Tại bệnh viện đa khoa Đồng Tháp có tỷ lệ chọn đúng (63,5%)
cao hơn bệnh viện Từ Dũ (22,2%), sự chênh lệch đáng kể này có y
nghĩa thống kê (P=0,000, OR = 0.16, 95% CI 0,092 – 0,294).
Nghiên cứu ghi nhận nhóm thai phụ con so trước đó trả lời đúng
có tỷ lệ 4,8% thấp hơn rất nhiều so với nhóm đã từng có con (48,6%).
14
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P=0,000, OR = 0,05, 95% CI
0,16 – 0,175)).
Ghi nhận trong hồi quy đa biến, có mối tương quan của hiểu
biết về số mũi tiêm đủ liều với trẻ dưới 12 tháng tuổi của thai phụ có
HBV với các yếu tổ độc lập có ý nghĩa thống kê bao gồm: địa điểm
thu tuyển (p=0,000). Trình độ học vấn từ Cao đẳng trở lên (p=0,02) và
con rạ (p=0,000).
Yếu tố liên quan đến thời điểm tiêm tốt nhất cho trẻ dưới 12
tháng tuổi
Nhóm địa điểm thu tuyển, tại bệnh viện Từ Dũ có tỷ lệ trả lời
đúng (96,1%) cao hơn nhóm thai phụ được thu tuyển ở bệnh viện đa
khoa Đồng Tháp (87,1%). Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê
(P=0,010, OR = 3,64, 95% CI (1,3 - 10,23)).
Nghiên cứu cũng ghi nhận tỷ lệ trả lời đúng ở nhóm tuổi từ
26-34 là cao nhất 96,9%, tỷ lệ thấp nhất thuộc nhóm tuổi trên 35 tuổi
là 83,3%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 11,762, P=0,003).
Nhóm con so (98,4%) có tỷ lệ trả lời đúng nhiều hơn là nhóm
có con (90,9%). Sự khác biết này có ý nghĩa thống kê (P=0,046, OR =
160, 95% CI (0,021 - 1,235)).
Hồi quy đa biến ghi nhận có sự tương gian giưa nhóm tuối ≤ 25
và từ 26-34 tuổi, sự tương quan này có ý nghĩa thống kê (p=0.028 và
p=0,046).
Yếu tố liên quan đến thời gian bảo vệ của Vắc xin
Nghiên cứu ghi nhận số thai phụ được thu tuyển ở bệnh viện Từ
Dũ có tỷ lệ trả lời đúng (11,1%) cao hơn tại bệnh viện đa khoa Đồng
Tháp (3,5%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P=0,043, OR =
3,42, 95% CI (0,97 – 12,02)).
Tỷ lệ trả lời đúng cũng tăng dần theo trình độ học vấn, nhóm
trình độ Cao đẳng trở lên chiếm 14,7%. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (χ2= 9,27, P=0,01).
Nghiên cứu ghi nhận nhóm Văn phịng có tỷ lệ trả lời đúng cao
nhất với 16,5%, nhóm kinh doanh (8%), nhóm nội chợ (4,5%), nhóm
15
Lam nơng - Cơng nhân (2,2%)Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(χ2= 10,68, P=0,01).
Nghiên cứu cho thấy nhóm con so có tỷ lệ trả lời đúng (19,0%)
cao hơn nhóm con rạ (4,6%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(P=0,000, OR = 0,204, 95% CI (0,079 - 0,525)).
Ghi nhận trong hồi quy đa biến, có mối tương quan giữa nhóm
co so và nhóm con rạ, sự tượng quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,03).
Yếu tố liên quan đến điểm kiến thức chung của đối tượng
nghiên cứu
Tỷ lệ điểm kiến thức chung giữa các nhóm trịnh độ học vấn là
tăng dần theo các cấp trình độ từ 78,5% của nhóm từ Cấp 2 trở xuống
đến 95,1% của nhóm trình độ từ Cao đẳng trở lên. Sự khác nhau này
có ý nghĩa thống kê (χ2= 10,666, P=0,005), Hồi quy đa biến ở các
nhóm trình độ ghi nhân mối tương quan giữa nhóm từ Cấp 2 trở xuống
và từ Cao đẳng trở lên, sự tương quan có ý nghĩa thống kê (p=0,042),
Nghiên cứu ghi nhận, tỷ lệ trả lời đạt của điểm kiến thức chung
với nhóm Văn phịng là cao nhất với 96,2% và thấp nhất với nhóm
Kinh doanh là 76,0%, sự khác biết này có ý nghĩa thống kê (χ2= 9,26,
P=0,026).
Yếu tố liên quan về điều trị viêm gan B của thai phụ
Khơng có yếu tố nào liên quan đến việc điều trị viêm gan B
trước đó của thai phụ mà có ý nghĩa thống kê
Có mối tương quan giữa điểm kiến thức của thai phụ đến từ
nguồn kiến thức là từ sách báo, tờ rơi và internet, mối tương quan này
có ý nghĩa thống kê (p=0,006).
Có mối tương quan giữa điểm kiến thức đến từ nguồn kiến thức
là nhân viên y tế, mối tương quan này có ý nghĩa thống kê (P=0,001).
Kiến thức chung của các thai phụ khơng liên quan đến việc thai
phụ có hay khơng có điều trị VGB trước đó. Sự khác biệt này khơng
có ý nghĩa thống kê (P=0,335).
Nghiên cứu ghi nhận, thực hành của các thai phụ liên quan
thuận, yếu đến thực hành của người chồng. Sự tương quan này có ý
16
nghĩa thống kê (P=0,000, r=0,244, OR=5,741, 95%CI (2,11115,608)).
IV.
BÀN LUẬN
1. Kiến thức, thực hành về lây truyền vi rút viêm gan B của thai
phụ có HBV.
VGB là một bệnh nhiễm trùng gan do vi rút VGB gây ra. Tùy
theo mức độ, bệnh có thể chỉ kéo dài nhẹ vài tuần cho đến trở thành
một bệnh lý nghiêm trọng, ảnh hưởng suốt đời của người bệnh. Vì vậy
việc đánh giá kiến thức về phòng lây truyền vi rút VGB là rất cần thiết,
khơng chỉ đối với cộng đồng nói chung mà cũng đặt biệt quan trọng
đối với thai phụ Vì kiến thức tốt sẽ giúp các thai phụ có tâm lý vững
vàng trong lúc mang thai, hiểu và phòng chống lây truyền vi rút VGB
cho người thân, nhất là lây truyền dọc qua chính con của họ. Phụ nữ
cũng là nguồn chia sẻ kiến thức trong gia đình và ngồi cộng đồng
được cho là phổ biến và hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu này, đối
tượng thu tuyển lại là thai phụ có HBV. Kết quả trong nghiên cứu sẽ
phản ánh một phần thực trạng kiến thức cũng như thực hành của đối
tượng này.
Kiến thức về đường lây truyền của vi rút VGB
Nghiên cứu ghi nhận, có 72,5% số thai phụ cho rằng VGB
không thể lây qua bằng đường ăn uống thông thường, tỷ lệ này cao
hơn so với nghiên cứu Phạm Thị Thúy Hằng [1] với 47,6% trên tổng
số 380 thai phụ và sau sinh, tỷ lệ này trong nghiên cứu của Trịnh Thúy
Hằng[2] trên đối tượng là phụ nữ có con dưới 1 tuổi chỉ có 20,6%.
VGB khơng thể lây truyền qua đường hơ hấp, như hắt hơi và
nói chuyện thơng thường thì nghiên cứu đã ghi nhận có 75,2% số thai
phụ có HBV tham gia nghiên cứu là trả lời đúng, tỷ lệ này cao hơn tỷ
lệ trong nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng [1] là 58,2%,
Tuy nhiên, VGB có thể lây qua đường máu trong nghiên cứu
này là 80,7% số thai phụ trả lời đúng, thấp hơn trong nghiên cứu của
17
Phạm Thị Thúy Hằng là 85,8% nhưng cao hơn nghiên cứu của Trịnh
Thúy Hằng [2] chỉ có 69,1%, với đối tượng là nhân viên điều dưỡng
của bệnh viên Nguyễn Đình Chiểu – Bến Tre trong nghiên cứu của
Nguyễn Thị Mỹ Khánh thì tỷ lệ này là 93,3%[3]. Điều này thể hiện
đúng với thực tế, khi tỷ lệ trả lời đúng của nhóm nhân viên điều dưỡng
cao hơn nhóm các bà mẹ mang thai. Khi cho là nhóm nhân viên điều
dưỡng ln được trang bị kiến thức tốt hơn, là nhóm có nguy cơ cao
vì thường xun tiếp xúc với bệnh nhân, bơm kim tiêm, dịch tiết của
người bệnh và môi trường nhiễm bệnh tại bệnh viện.
Theo kết quả nghiên cứu thì có tới 77,7% (n=185) số thai phụ
có HBV cho là VGB có thể lây truyền qua đường tình dục, tỷ lệ này
cao hơn so với nghiên cứu của Phạm Thị thúy Hằng (75,3%) và Trịnh
Thúy Hằng (66,9%) nhưng lại cao hơn gấp 2 lần so với nghiên cứu
của Vũ Đức Lương chỉ với 35,7% trên đối tượng là người đi hiến máu
trại khu vực Hà Nội năm 2014 [4]. Đối tượng trong nghiên cứu của
Vũ Đức Lương là đối tượng cơng đồng dân cư, khơng mang tính đặc
thù như các nghiên cứu trên nên về tỷ lệ chênh lệch cũng có thể gần
với thật tế. Khi các đối tượng là mẹ mang thai sẽ hiểu biết nhiều hơn
hoặc quan tâm hơn về các bệnh lây qua đường tình dục trong đó có
bệnh VGB, cịn các đối tượng là cơng đồng nói chung sẽ dễ hiểu khi
tỷ lệ trả lời thấp hơn,
Hiểu biết về đường lây truyền từ mẹ sang con, tỷ lệ trả lời đúng
trong nghiên cứu này và nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng thì gần
tương đồng nhau, tương ứng là 85,7% và 85,8%, cao hơn so với nghiên
cứu của Trịnh Thúy Hằng là 61,7% và của Vũ Đức Lương là 53,3%.
Với các tỷ lệ thấy được, với đối tượng trên cộng đồng chúng ta cũng
dễ hiểu vì sao tỷ lệ trả lời đúng chỉ có 53,3%, nhưng cũng là phụ nữ
có con dưới 6 tháng trong nghiên cứu của Trịnh Thúy Hằng lại chỉ có
61,7%, tỷ lệ này là thấp so với nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng
và trong nghiên cứu này mà đối tượng khảo sát gần giống nhau. Vì
hiểu biết về đường lây truyền dọc từ mẹ sang con là rất quan trọng,
18
đây là đường lây truyền chủ yếu tại Việt Nam thuộc nhóm khu vực có
tỷ lệ có HBV cao trên thế giới,
Hiểu biết về đường lây truyền của vi rút VGB là rất quan trọng,
nhất là đối với thai phụ, đánh giá mức độ quan tâm cũng như kiến thức
chuẩn bị trước khi mang thai của phụ nữ, ảnh hưởng trực tiếp đến
chính con của họ. Tỷ lệ một số nghiên cứu cho thấy phần đa số các
phụ nữ đều biết rằng VGB có thể lây truyền từ mẹ sang con trong quá
trình mang thai và trong lúc sinh, vì là đối tượng vừa là thai phụ vừa
có HBV nên kiến thức về đường lây truyền có phần cao hơn so với các
đối tượng khác, phải có gần một nữa số thai phụ (45,4%) trả lời đúng
hết tất cả các câu hỏi,
Kiến thức về cách phòng chống
Cách phòng lây truyền vi rút viên gan B, cũng như phòng bệnh
do vi rút VGB gây nên được WHO cũng như Bộ Y tế khuyến váo là
tiêm phịng vắc xin VGB, khơng chỉ dành cho trẻ em mà cả dành cho
người lớn. Trong nghiên cứu này ghi nhận việc hiểu biết về việc tiêm
vắn xin phòng chống lây truyền vi rút VGB đạt 87,0%, tuy nhiên tỷ lệ
này lại thấp hơn nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng (92,6%) và
nghiên cứu của Trịnh Thúy Hằng (91,4%). Tuy nhiên cao hơn khi so
sánh đối tượng hiến máu nhân đạo trong nghiên cứu của Vũ Đức
Lương là 79,1%. Cũng tỷ lệ này trên đối tượng nghiên cứu là người
dân xã Trung Nguyên tỉnh Vĩnh Phúc của nhóm nghiên cứu Vũ Đình
Sơn và Lê Thanh Tùng cũng không quá chênh lệch cho rằng tiêm vắc
xin đạt hiệu quả cao chiếm tỷ lệ 87,9%[6]. Tỷ lệ này ở các bà mẹ thì
khá tương đồng nhau, cũng giải thích một phần là các bà mẹ có mối
quan tâm nhiều hơn về tiêm phòng vắc xin VGB so với các đối tượng
khác. Còn về đối tượng là các bà mẹ mang thai, nghiên cứu mong chờ
tỷ lệ cao nhất phải thuộc về đối tượng thai phụ có HBV và mang tính
cấp thiết hơn so với các đối tượng bà mẹ khác. Tuy nhiên kiến thức
này đánh giá phần nào sự bao phủ về việc tiêm vắc xin cho trẻ, để đạt
được theo mong đợi của Bộ Y tế, độ bao phủ vắc xin ít nhất là 95% vì
19
vậy nghiên cứu ghi nhật sự hiểu biết về tầm quan trọng của Vắc xin
vẫn còn thấp hơn giá trị mong đợi,
Hiểu biết về tiêm phòng vắc xin VGB,
Hiểu biết về tiêm vắc xin, cũng như tác dụng của việc tiêm vắc
xin đủ liều cũng ảnh hưỡng rất nhiều đến tâm lý lựa chọn cách phòng
chống VGB của người mẹ cho bản thân, cho gia đình và cho chính con
cái của họ.
Có 86,6% các thai phụ có HBV trong nghiên cứu trả lời đúng
và cho rằng việc tiêm phòng vắc xin VGB phù hợp với tất cả mọi đối
tượng, không chỉ là trẻ nhỏ mà còn dành cho cả người lớn. Có thể nói
đây là tỷ lệ ngồi mong đợi vì thường khi nói đến tiêm vắc xin, đa số
mọi người sẽ nghĩ tiêm phòng vắc xin chỉ dành cho đối tượng là trẻ
nhỏ, nhưng trên thực tế thì vắc xin VGB được khuyến cáo là dành cho
tất cả mọi người như là trẻ nhỏ chưa được tiêm vắc xin, cán bộ y tế,
thành viên trong gia đình có người mắc VGB và các đối tượng người
lớn mắc các bệnh xã hội khác. Trẻ lớn và người trưởng thành đều nên
tiêm vắc xin với liều tiêm 3 mũi ở tháng 0,1 và 6.
Có 37,0% số thai phụ trả lời đúng về số mũi vắc xin đủ liều cho
trẻ dưới 12 tháng tuổi là lớn hơn hoặc bằng 3 liều, tỷ lệ này cao hơn
trong nghiên cứu của Trịnh Thúy Hằng [2] là 17,7% với đối tượng là
các bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi. Số lượng mũi tiêm lớn hơn hoặc
bằng 3 liều cho mọi người, tỷ lệ trả lời đúng này trong nghiên cứu
chiếm 33,2% và tỷ lệ này thấp hơn khi so sánh đối tượng là sinh viên
điều dưỡng khi tham khảo thực hành của họ trong nghiên cứu của Trần
Thị Tây Nguyên [5] là 54,2%. Kiến thức về tiêm đủ liều rất quan trong,
vì việc khơng tiêm đủ liều có thể ảnh hưởng đến tác dụng của vắc xin,
có khi sẽ mất tác dụng đối với một số trường hợp. Tỷ lệ hiểu biết về
số mũi tiêm đủ liều là quá thấp so với kỳ vọng và ảnh hưởng nhiều
đến khả năng phòng bệnh sau này. Vì trên thực tế đối với các liều sau,
việc đi tiêm phịng hay khơng thuộc quyết định của gia đình và bà mẹ
nói cách khác các bà mẹ có thể khơng đưa con của mình đến tiêm các
liều sau là vì lý do khơng biết hoặc là cho rằng đã tiêm đủ liều cho trẻ.
20
Với số liệu ghi nhân này có thể nói, nếu khơng có những tác động
khách quan khác thì tỷ lệ tiêm đủ liều của trẻ dưới 12 tháng tuổi và
mọi người chỉ đạt 37,0%.
Tuy nhiên, 92,9% thai phụ trong nghiên cứu đã trả lời thời điểm
tiêm vắc xin mũi đầu tiên tốt nhất cho trẻ dưới 12 tháng tuổi là trong
vòng 24 tiếng sau sinh, tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với yếu tố thực
hành trong nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng [1] chỉ có 65,6% và
71,0% đối với phụ nữ có con dưới 6 tháng trong nghiên cứu của Hồ
Thị Thình [10]. Kết quả này cho thấy, đối tượng là thai phụ có HBV
có mối quan tâm nhiều hơn về mũi vắc xin đầu tiên dành cho trẻ hơn
hẵn đối tượng của các nghiên cứu khác.
Thời gian bảo vệ của vắc xin đối với người đã tiêm đủ liều là
trên 20 năm, tuy nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy rất ít thai phụ
(8,4%, n=20) biết điều này và phần lớn nằm ở nhóm thu tuyển tại bệnh
viện Từ Dũ (84,0%). Tỷ lệ biết về điều này là quá thấp so với mong
đợi, mặc dù Bộ Y tế đã nhiều biện pháp tuyên truyền về khả năng bảo
về suốt đời của vắc xin. Có thể giải thích rằng mức độ tin cậy vào việc
tiêm vắc xin đủ liều là thấp ở các thai phụ có HBV tham gia nghiên
cứu.
Nghiên cứu ghi nhận, kiến thức về VGB mà thai phụ nhận được
từ sách báo, tờ rơi, poster và internet như một cách tự tìm hiểu đạt
52,1%, theo cách thụ động hơn là nguồn kiến thức biết từ Bạn bè người
thân thì thấp chỉ chiếm 12,2%, từ truyền hình, đài phát thanh là 27,7%.
Tuy nhiên các thơng tin này là thông tin một chiều, với thời đại số hóa
ngày nay thì phần lớn là được tìm hiểu từ mạng Internet cũng là một
điều dễ hiểu, tuy nhiên lượng lớn kiến thức mà thai phụ có HBV cho
là từ nhân viên Y tế chiếm 64,3%. Sự vượt trội này có hai mặt, mặt tốt
chính là các nguồn thơng tin chính thống, cũng như có sự tư vấn hai
chiều dẫn đến kiến thức của thai phụ tham gia nghiên cứu là khá cao,
nhưng xét tổng quan thì vẫn chưa đầy đủ. Vì nhiều lý do khách quan,
tuy nhiên nhân viên y tế cũng khơng thể có q nhiều thời gian để có
thể bổ sung kiến thức cho các thai phụ một cách đầy đủ nhất nhất. Còn
21
về mặt ngược lại, có thể nói nhân viên Y tế là nguồn kiến thức cuối
cùng mà thai phụ có thể nhận được, tức là phải có vấn đề về sức khỏe
thì mới tìm đến nhân viên y tế để tư vấn, điều này chứng tỏ vị trí của
các kênh truyền thơng khác chưa được đánh giá cao và có phần coi
nhẹ, chính vì vậy vơ tình đã tạo gánh nặng lên đổi ngũ y tế. Vì vốn dĩ,
các kiến thức về phịng chống bệnh tật nói chung và VGB nói riêng là
lượng kiến thức nền cần mỗi người dân đều phải biết. Chỉ có 12,2% là
sự chia sẻ kiến thức từ bạn bè và người thân, hay là chỉ có 27,7% là
nghe từ đài phát thanh và truyền hình. Đặc biệt đối với thai phụ, đối
tượng rất cần được bổ sung kiến thức trước khi mang thai, để có thể
đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và trẻ nhỏ.
Nghiên cứu cho rằng, vì là đối tượng nghiên cứu là thai phụ có
HBV nên thực hành được cho là của thai phụ có HBV là việc điều trị
trước đó của họ, theo như quyết định mới nhất của Bộ Y tế về việc ban
hành hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh VGB [9], thì có 95% người
lớn bị VGB cấp sẽ hồi phụ một cách tự nhiên mà không cần điều trị
thuốc kháng vi rút, điều trị VGB chủ yếu là điều trị hỗ trợ. Xét với thai
phụ có HBV là thai phụ có HBV thì điều trị trước đó là điều trị hỗ trợ
hay là điều trị điều trị kháng vi rút để làm giảm nguy cơ lây truyền cho
con của mình trong thời gian mang thai và trong lúc sinh. Việc điều trị
này có ý nghĩa khi thai phụ có điều trị VGB liên tục trước khi mang
thai và đến khi dừng điều trị theo đúng pháp đồ của Bộ Y tế.
Nghiên cứu khảo sát có rất ít, chỉ 8,4%, n= 20/238 thai phụ là
có điều trị VGB trước đó và cũng cách lúc sinh khá lâu, có 4 trường
hợp thai phụ có HBV chiếm 1,7% điều trị trước đó là 1 năm và cũng
có 1 trường hợp biết mình có HBV và đã điều trị trước đó là 12 năm.
Kết quả này cho thấy, hầu như đối tượng tham gia trong nghiên cứu
này không cho rằng điều trị VGB là cần thiết hoặc khơng biết là mình
có có HBV để điều trị. Điều này đánh giá một phần cho việc có cần
thiết hay khơng cần thiết điều trị VGB trước đó cho việc giảm tỷ lệ lây
truyền vi rút VGB từ mẹ sang con.
22
Qua phỏng vấn các đối tượng thai phụ, nghiên cứu ghi nhận có
77 (32,4%) người chồng của thai phụ có đi xét nghiệm VGB trước đó
và có tới 8,0% (n=19) là có HbsAg (+). Thật ra tỷ lệ thấp hơn so với
mong đợi, việc xét nghiệm VGB trước khi hôn nhân là khuyến cáo cần
thiết của Bộ Y tế, không chỉ phòng chống bệnh viên gan B mà còn
phòng chống được các bệnh khác lây qua đường tình dục, có thể nói
việc quan tâm của các cặp vợ chồng về các bệnh lây truyền qua đường
tình dục là chưa cao. Tuy nhiên cũng phải đề cập các vấn đề xã hội
khác anh hưởng đến sự quan tâm này như là kinh tế, sự tin tưởng lẫn
nhau và khả năng che giấu của đối tượng. Chính vì các rào cản xã hội
như vậy thì tỷ lệ này cũng phản ánh gần đúng với thực tế hiện nay mặc
dù Bộ Y tế cũng như chính quyền ln khuyến khích khám và xét
nghiệm tổng quát trước hôn nhân để giúp thúc đẩy một thế hệ tương
lại khỏe mạnh hơn.
2. Yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phòng, chống lây
truyền vi rút viêm gan B của đối tượng nghiên cứu.
Theo như tiêu chí đánh giá điểm kiến thức đạt hay khơng đạt,
qua kết quả của nghiên cứu ghi nhận được hiểu biết chung có liên quan
đến hai yếu tố là trình độ học vấn và nghề nghiệp của thai phụ có HBV.
Tìm hiểu mối tương quan của trình độ học vấn với hiểu biết chung về
phòng lây truyền vi rút VGB như sau, khi kiểm tra OR đơn biến,
nghiên cứu cho thấy thai phụ có trình độ học vấn cao hơn sẽ có hiểu
biết cao hơn so với thai phụ có trình độ thấp hơn, cụ thể odds hiểu biết
về kiến thức chung của phụ nữ cố HBV ở nhóm trình độ học vấn từ
Cấp 2 trở xuống sẽ kém hơn 1 nửa so với nhóm thai phụ có HBV có
trình độ học vấn là Cấp 3, tỷ lệ này khi so sánh với nhóm thai phụ có
HBV có trình độ từ Cao đẳng trở lên thì có odds hiểu biết kém hơn
đến 81%. Nghĩa là cứ 100 thai phụ có HBV có trình độ từ Cao đẳng
trở lên hiểu biết đạt về kiến thức thì có 19 thai phụ có HBV có trình
độ từ Cấp 2 trở xuống hiểu biết đạt về kiến thức, tỷ lệ này ghi nhận
tương đồng khi phân tích hồi quy đa biến, nghiên cứu ghi nhận chỉ có