Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.25 KB, 8 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Có lẽ khơng một ngành nào có liên quan đến toàn xã hội như ngành giáo dục, bởi
từ lúc trẻ cho đến lúc già, người ít, người nhiều ai cũng phải qua các trường học.
Nếu như aị đó có số phận "hẩm hiu" khơng được tới trường thì thế nào cũng có
con em họ được cắp sách tới lớp. Cho nên thời nào cũng thế, người thầy giáo có
một vị trí xã hội quan trọng và một vị trí tình cảm đẹp đẽ trong lịng người. "Tơn
sư trọng đạo", đó là đạo lý, là truyền thống của dân tộc ta.
Chân dung nhà giáo Việt Nam qua các thời đại có những sắc nét riêng.
Thời phong kiến là hình ảnh ơng Đồ Nho nâng niu sách thánh hiền, truyền dạy
đạo đời nhân nghĩa cho mỗi môn sinh. Thời thuộc Pháp là ông giáo Tây học, dù
dạy chữ Tây vẫn đau đáu nỗi lo giữ quốc hồn, quốc túy cho dân tộc. Sau Cách
mạng Tháng Tám là ông giáo làng, tận tâm cho việc mở mang dân trí, rồi thầy
giáo là chiến sĩ, nghệ sĩ, nhà khoa học... góp phần làm rạng danh đất nước.
Nếu phác họa chân dung nhà giáo qua mỗi thời đại, qua từng con người, sẽ
có dáng vẻ khác nhau, nhưng nét chung đậm màu vẫn là: độ lượng nhân từ, cần
mẫn vì đạo học, ln tự vấn mình để vươn tới thanh cao. Trong "ngữ ảnh Thơ"
Việt Nam hiện đại, đã phần nào làm sáng lên được những dáng vẻ tốt đẹp này.
Thơ viết về nhà giáo cũng như viết về người thân thường ít có sự vũ điệu
ngơn từ như thơ viết về hoa lá trăng sao, mà lại rất thật và giản dị như chính cuộc
đời và cơng việc của nhà giáo. Bài thơ "Thầy" của Thái Dương Liễu viết về cái
tâm của nhà giáo là một minh chứng:
<i><b>Một đời chẳng quản công lênh</b></i>
<i><b>Tấm lịng như biển mơng mênh: lịng thầy</b></i>
<i><b>Thủy chung bao chuyến đị đầy</b></i>
<i><b>Âm thầm gieo hạt trồng cây cho đời</b></i>
Đó là tâm đức của cả một đời dạy học. Tâm đức đó được thể hiện thường
trực qua từng buổi học, giờ học, khoảnh khắc dạy học. Nhà thơ Vũ Đình Minh
trong bài thơ "Ý nghĩ ngày mưa" đã lưu lại cho chúng ta những khoảnh khắc thật
ấn tượng. Và rồi Trước những khó nhọc của học trị, anh biết trách nhiệm của
người thầy rất nặng nề:
<b> </b>
<i><b>Trống đánh bảy giờ vào lớp lúc đang mưa</b></i>
<i><b> </b></i> <i><b>Tôi lên lớp áo em nào cũng ướt</b></i>
<i><b> </b></i> <i><b>Mái tóc lấm dở từng trang vở học</b></i>
<i><b> </b></i> <i><b>Tơi biết tơi khơng thể nói những lời thừa. </b></i>
Đâu phải lúc nào cũng tựa cửa đợi học trị, mà có khi phải dắt trị đến lớp.
Tác giả Thanh Thản trong bài "Mái trường đồng chiêm" đã cho chúng ta hiểu
thêm về những tình huống khác, rất phổ biến ở vùng đồng chiêm:
<i><b> Ngập nước bao quãng đường đi</b></i>
<i><b> Thầy trò dắt nhau tới lớp</b></i>
<i><b> Có em trượt chân ngã ướt</b></i>
Ngày thi thấp thỏm lo âu, đêm bồn chồn nghe từng giọt mưa, tiếng gió, tác
giả Trương Hữu Thiêm đã nói được một tâm trạng rất chung cho nhà giáo, khi
đất nước cịn khó khăn, lớp học cịn chống chênh lạnh gió:
<i><b> Khuya nằm nghe gió bấc rít ngồi hiên</b></i>
<i><b> Thấp thỏm lo ngày mai lớp nhiều chỗ trống </b></i>
Ai đó đã nói: "Tình thương có hai bàn tay, một bàn tay vỗ nỗi đau, một
bàn tay xóa nguồn gốc nỗi đau đó". Tình thương của thầy cô giáo là như thế,
thương là vỗ về che chở cho học sinh, thương còn là nhen nhóm lửa lịng, lửa
đời, dù trong bất cứ hồn cảnh nào. Hãy lắng nghe cơ giáo Trần Thị Mỹ Hạnh
nói về điều này trong bài thơ "Mặt trời":
<i><b> Lớp học nhà hầm bàn ghế thiếu,</b></i>
<i><b> Ngỡ ngàng chuột nhấm gót em thơ... </b></i>
<i><b> Vẫn nhen cuộc sống từ lòng đất</b></i>
<i><b> Vẫn tiếng gà vui gáy sáng trời </b></i>
Và đặc biệt tình thương là nghiêm khắc, là ngăn trị trượt dốc. Ai đó đã có
một lần coi thi mới hiểu được lòng nhà giáo phải phân tâm: dễ dãi hay nghiêm
khắc? Cô giáo Vũ Kim Loan trong bài "Viết sau giờ coi thi" day dứt trước một
học sinh khơng làm được bài phải quay cóp:
Trên cánh đồng giáo dục, nhà giáo đâu chỉ lao trí lao tâm mà có cả sự lao
lực, có khác chăng nhà nơng lấm láp vì bùn đất, người thợ lấm lem dầu mỡ, thì
nhà giáo lấm láp vì bụi phấn. Nhà thơ Đồn Vị Thượng đã khái qt một hình
ảnh rất thực, rất đặc trưng về sự lao lực của nghề dạy học:
<i><b> Mải miết đôi tay đầy bụi phấn trắng phau</b></i>
<i><b> Như nhà nông bốn mùa lấm láp... </b></i>
Nghề dạy học là vinh quang những cũng rất nhọc nhằn. Ln có sự đánh
giá từ nhiều phía, từ phía học sinh, từ phía xã hội, từ phía... chính mình. Nhà thơ
Đồn Vị Thượng có một liên tưởng khá hay về cái tâm của người thầy giáo,
không phải ai cũng có thể giữ được nếu khơng biết giữ mình :
<i><b> Chúng tôi giữ gìn trái tim chân thật từng giờ</b></i>
<i><b> Các em hồn nhiên mà ánh mắt soi rọi thế</b></i>
<i><b> Cái bục giảng khơng cao nhưng đã có đơi người vấp té</b></i>
<i><b> Viên phấn của lịng mình khơng giữ nổi trên tay </b></i>
Và vì thế phải luôn trăn trở với từng lời giảng, từng bài giảng. Thầy giáo Giang
Biên đã tự vấn mình qua bài thơ "Sau giờ giảng", bằng một thái độ đầy trách
nhiệm:
<i><b> Bài thơ ngủ yên và trang giấy trắng</b></i>
<i><b> Thao thức khôn nguôi trước giờ giảng hững hờ </b></i>
Đâu chỉ khi giảng bài mà lúc chấm bài là lúc nhà giáo thấy mình rõ nhất:
<i><b> Chẳng thể nào trọn vẹn niềm vui</b></i>
<i><b> Chấm điểm cho em tơi nhận điểm chính mình</b></i>
<i> ("Tơi nhận điểm mình" - Nguyễn Thái Vận)</i>
<i><b>Họ đã nói nhiều: những chuyến đị ngang</b></i>
<i><b>Tơi xin hát về những con đò dọc</b></i>
<i><b>Giữa sâu thẳm dòng đời trong đục</b></i>
<i><b>Thuyền ta vui </b></i>
<i><b>Vui lướt</b></i>
<i><b>thuyền ta ơi!</b></i>
<i><b>Những con thuyền</b></i>
<i><b>Tải nặng</b></i>
<i><b>đạo làm người</b></i>
Và:
<i><b>Giữa dòng đời chật chội bon chen.</b></i>
<i><b>Ta vững tay chèo</b></i>
<i><b>Thuyền như mũi tên</b></i>
<i><b>Bay giữa vừng hồng</b></i>
<i><b>Đội biển nhô lên.</b></i>
<i> (Khúc hát về những con đò dọc)</i>
Còn thầy giáo Nguyễn Quang Cương trong bài "Bạn tôi ở Kon Tum" đã ví thầy
giáo như con tằm ăn lá nhả tơ, dẫu gian khó vẫn giữ mình thánh thiện:
<i><b> Con tằm ăn lá nhả tơ, rì rào những hợp âm ấm nhà,</b></i>
<i><b> Anh cũng là tằm mà nụ cười chưa nồng, cho vợ con đỡ lạnh</b></i>
<i><b> Chiếc xe đạp bụi đường, niềm vui còn lẩn tránh,</b></i>
<i><b> Cứ thế đến trường, cứ thế chuốt hồn trong. </b></i>
Để giữ vững được vị trí "đứng lớp" của mình, người giáo viên có lúc cũng
phải cố gắng vượt qua những khó khǎn trong đời sống, đối mặt với "cơm áo" mà
vẫn phải bằng mọi giá giữ gìn nhân cách. Phan Hữu Hưởng nói với người bạn
đời thân thiết của mình những điều gan ruột:
<i><b> Cơm áo bây giờ là thứ gắt gay</b></i>
<i><b> Đâu phải riêng ta mà là đất nước</b></i>
<i><b> Người thầygiáo dù ở cǎn nhà thấp</b></i>
<i><b> Vẫn ln cần có một tâm cao</b></i>
<i> (Nói với em)</i>
Cơng Phương Điệp, tỏ ra rất thông cảm với nhà giáo: <i><b>Tiền</b></i>
<i><b>lương như sợi dây diều</b></i>
<i><b> Mỏng manh mà giữ mọi chiều đều cân</b></i>
<i><b> Theo kỳ mỗi tháng một lần</b></i>
Anh nói đến cả việc sử dụng, việc đối nhân xử thế qua đồng lương khiêm tốn ấy:
<i><b>Nhớ câu "</b><b>giấy rách giữ lề"</b></i>
<i><b>Có trên có dưới mọi bề trước sau</b></i>
<i><b>Tiền lương tuy chẳng nhiều đâu</b></i>
<i><b>Vẫn khuyên con nối nhip cầu mà đi</b></i>
<i> (Tiền lương thầy giáo )</i>
Cuộc sống của nhà giáo cũng theo bước thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Nhưng đáng quý biết bao khi dù ở cơn xốy lốc nào cũng ln nhất mực giữ
mình, tác giả Lê Thành Nghị đã viết về cha mình cũng là viết về các nhà giáo
đáng kính của chúng ta:
<i><b> Vượt lên tất cả để giữ mình trong sạch</b></i>
<i><b> Biết mấy cam go biết mấy can trường </b></i>
<i><b> "</b><b>Thầy vằng vặc tấm gương soi mãi"</b></i>
Thầy là gương soi vì suốt một đời dạy học cốt để yên dân hưng quốc. Đây
là thầy Chu Văn An mn vàn đáng kính của chúng ta, qua lời thơ rất trân trọng
của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi:
<i><b> Một đời thầy lo nấu sử soi kinh </b></i>
<i><b> Chỉ mong giữ cho dân điều nhân đức</b></i>
<i><b> Thầy được triệu vào kinh dạy học</b></i>
<i><b> Người trong lầu son hồn ở ngoài đời </b></i>
Là nhà giáo chúng ta có quyền tự hào về một điều, Bác Hồ kính yêu của
chúng ta cũng đã từng là thầy giáo trực tiếp đứng trên bục giảng Trên bục giảng
thầy Nguyễn Tất Thành hết lòng truyền đạt tri thức và tư tưởng tiến bộ, gieo vào
<i><b> Bác để tình thương cho chúng con</b></i>
<i><b> Một đời thanh bạch chẳng vàng son</b></i>
<i><b> Mong manh áo vải hồn muôn trượng</b></i>
<i><b> Hơn tượng đồng phơi những lối mòn. </b></i>
<i><b> Hai mươi năm, còn xanh tóc mái đầu</b></i>
<i><b> Thanh quản chưa rè sau mười nghìn tiết dạy</b></i>
<i><b> Tơi như cây vẫn cịn sinh trái</b></i>
<i><b> Góp mùi thơm, vị ngọt cho đời </b></i>
Tính nhân văn của xã hội mới là "ai cũng được học hành". Nhưng mấy ai
can đảm để dạy những lớp học đặc biệt, lớp những em khuyết tật. Thế mà có
đấy, nhiều đấy, họ là những cơ giáo trẻ. Cảm động biết bao khi chúng ta đọc
những dòng thơ sau đây của Nguyễn Khoa Đăng:
<i><b> </b></i> <i><b>Cô giáo ơi chúng tôi đến đây</b></i>
<i><b> </b></i> <i><b>Nhìn cơ giảng lòng xao động quá</b></i>
<i><b> </b></i> <i><b>Bàn tay cô lúc nào cũng múa</b></i>
<i><b> </b></i> <i><b>Để nói vào thế giới vắng âm thanh </b></i>
Chiến tranh đã đi qua, người thầy - chiến sĩ năm xưa trở về với những mất
mát trên cơ thể . Có thể nhiều thứ đã thay đổi nhưng tấm lịng và tâm huyết với
nghề dạy học khơng hề bị mất đi. Những câu thơ viết về người thầy là chiến sĩ để
lại cho ta nhiều xúc động nhưng cũng đầy niềm tự hào.Trong bài thơ “ Bàn chân
thầy giáo” Trần Đăng Khoa đã thể hiện rõ được điều này:
<i><b>Thầy ngồi trên ghế giảng bài</b></i>
<i><b>Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ</b></i>
<i><b>Một bàn chân thầy đâu rồi</b></i>
<i><b>… Sáng nào bom Mỹ dội</b></i>
<i><b>Thầy cầm súng ra đi</b></i>
<i><b>Năm nay thầy trở về</b></i>
<i><b>Nụ cười vẫn nguyên vẹn như xưa</b></i>
<i><b>Nhưng một bàn chân khơng cịn nữa</b></i>
Nhưng: <i><b>Và bàn chân thầy bàn chân đã mất</b></i>
<i><b>Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời</b></i>
Nhạc sĩ Trần Tiến cũng đã viết một bài thơ có nội dung tương tự, tuy
nhiên hình ảnh thơ có phần độc đáo hơn, và sau đó bài thơ được chính nhạc sĩ
phổ nhạc thành một bài hát có sức truyền cảm lớn, với tựa đề “ Vết chân tròn
trên cát”:
<i><b> Vết chân tròn vẫn đi về trên con đường mịn cát trắng q tơi</b></i>
<i><b> Anh thương binh vẫn đến trường làng</b></i>
<i><b> Bài hát có ngọn núi quê anh xa vời</b></i>
<i><b> Bài hát có đồng lúa mênh mang câu hò</b></i>
<i><b>Và:… Cho hôm nay những vết chân son</b></i>
<i><b> Vây quanh dấu chân tròn </b></i>
<i><b> Để lại một bài ca trên cát trắng bao la</b></i>
Đây đó trên mỗi đồng làng, xóm núi, phố thị cứ luôn âm vang, vọng lời thầy, và
học trò cứ thế, cứ thế lớn lên:
<i><b> Lời thầy giảng hòa cùng tiếng suối</b></i>
<i><b> Học trò thầy lớp lớp dáng như thông</b></i>
<i> (Nguyễn Bùi Vợi) </i>
Có lẽ vì thế hình ảnh thầy giáo trong tâm thức của bao thế hệ học trị là hình ảnh
lồng lộng ánh sáng:
<i><b> Mái trường bâng khuâng nỗi nhớ</b></i>
<i><b> Bóng thầy in sáng đồng chiêm</b></i>
<i> ("Mái trường đồng chiêm" - Thanh Thản)</i>
<i><b>Và : Thầy vằng vặc tấm gương soi mãi</b></i>
<i><b> Để mn đời nhân nghĩa ấm lịng dân</b></i>
<i> (Nguyễn Bùi Vợi) </i>
Thế đấy, biết bao thế hệ nhà giáo chân chính cần mẫn truyền ánh sáng nhân
nghĩa đời này qua đời khác, làm thịnh vượng đạo học, hưng thịnh đất nước. Đã
đến lúc cần có một tượng đài về nhà giáo Việt Nam. Nếu phác thảo tượng đài có
lẽ vút cao là bó đuốc nhân nghĩa, quanh bó đuốc là ơng đồ nho nâng sách thánh
hiền, ông giáo tây học rưng rưng mắt kính vì thương dân; là thầy giáo làng dắt
trị đến lớp, và thầy giáo hiện đại hôm nay vừa cầm phấn vừa bấm nút dạy học
ngang tầm nhân loại...
Có thể dẫn ra nhiều bài thơ nữa viết về thầy giáo và nhà trường. Mỗi bài
thơ một vẻ nhưng hầu thư bài nào cũng chân thành, cũng cảm động. Thơ Việt
Nam chưa tạo ra được một tượng đài nhưng đã cho ta một tượng đài lấp lánh vẻ
đẹp của một nhà giáo chân chính.