Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nghiên cứu khoa học " NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT KÍCH THÍCH GIBBERELLINE GA4/7 TỚI SỰ RA HOA CỦA VƯỜN GIỐNG THÔNG NHỰA "

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.71 KB, 10 trang )

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT KÍCH THÍCH GIBBERELLINE GA4/7 TỚI
SỰ RA HOA CỦA VƯỜN GIỐNG THÔNG NHỰA
Nguyễn Tuấn Hưng
Nguyễn Đức Kiên, Hà Huy Thịnh
Trung tâm Nghiên cứu Giống cây rừng
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
TĨM TẮT
Nghiên cứu kích thích ra hoa sớm và với số lượng lớn là một hướng nghiên cứu quan trọng
trong cải thiện giống cây rừng nhằm rút ngắn chu kỳ chọn giống và tăng sản lượng hạt giống, đáp
ứng nhu cầu trồng rừng. Trong nhóm các hóa chất sử dụng kích thích ra hoa thì nhóm Gibberrelin
đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng, đặc biệt là áp dụng cho các lồi thơng. Thơng khơng
chỉ là những lồi cây lâu ra hoa mà thời gian từ khi ra hoa đến khi thu hái hạt kéo dài gần 2 năm,
chưa kể đến chu kỳ sai quả của chúng. Mục tiêu của thí nghiệm này là tìm ra thời điểm tối ưu và
nồng độ Gibberelline GA4/7 thích hợp nhất đối với lồi Thơng nhựa (Pinus merkusii).
Kết quả cho thấy việc dùng chất kích thích Gibberelline GA4/7 đúng thời điểm và đúng liều
lượng đã làm tăng số lượng nón đực và nón cái một cách đáng kể so với công thức đối chứng
không tác động. Mỗi dịng cây ghép khác nhau lại có phản ứng với liều lượng Gibberelline GA4/7
là khác nhau. Tuy nhiên, liều lượng phù hợp nhất cho hầu hết các dịng cây Thơng nhựa ghép ở
giai đoạn 11 tuổi là 150mg/cây và thời gian tối ưu nhất để kích thích là vào tháng 10 hàng năm.
Từ khố: Thơng nhựa, Gibberelline GA4/7
MỞ ĐẦU
Nghiên cứu tìm hiểu sinh học ra hoa của các lồi cây trồng rừng có vai trị hết sức quan
trọng trong việc đề xuất các biện pháp xúc tiến ra hoa có căn cứ khoa học, nhằm mục đích mang
lại hiệu quả kinh tế cao. Khác với cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp có thời gian từ khi trồng đến
khi ra hoa rất dài. Đặc điểm chung của cây rừng là vừa sinh trưởng vừa phát triển. Đặc biệt, các
lồi thơng thuộc chi Pinus, ngành Hạt trần có thời gian từ khi ra hoa kết quả cho đến khi quả chín
chúng phải mất gần 2 năm. Thông nhựa (Pinus merkusii), Thông caribê (Pinus caribaea), Thông
ba lá (Pinus kesiya) và Thông đuôi ngựa (Pinus massoniana)...), thậm chí có lồi kéo dài trên 3
năm như loài Pinus sylvestris (Almqvist, 2001).
Do vậy, việc nghiên cứu kích thích ra hoa cho các lồi thơng là rất cần thiết và có ý nghĩa.
Nó làm tăng nhanh sản lượng giống đã cải thiện, điển hình là các vườn giống và rừng giống như


làm tăng sản lượng hoa, điều chỉnh thời gian ra hoa sao cho giữa các cây mẹ hoặc dòng cây mẹ
nhanh ra hoa và thời gian ra hoa trùng nhau dẫn đến tỷ lệ thụ phấn chéo và khả năng kết hạt (hữu
thụ) tăng, từ đó làm tăng sản lượng cũng như chất lượng hạt giống. Đặc biệt, lồi Thơng nhựa là
một trong những lồi cây đặc hữu ở vùng Đông Nam Á, đang được nhiều nước ở vùng nhiệt đới
quan tâm nghiên cứu phát triển vì nó có giá trị kinh tế cao.
Ở nước ta, Thơng nhựa (Pinus merkusii) là một trong những lồi cây trồng rừng chính trên
vùng đất trống đồi núi trọc từ các vùng Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh cho tới Lâm
Đồng. Sản phẩm chủ yếu của Thông nhựa là nhựa thơng. Trong nhựa thơng có 2 thành phần chủ
yếu là Colophan và Terpentin. Đây là những mặt hàng có giá trị xuất khẩu rất cao.
1


Thực tế cho thấy hàng chục năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu và đưa
vào sử dụng chất điều tiết sinh trưởng thực vật để tác động vào quá trình hình thành hoa và đã thu
được kết quả to lớn trong việc nâng cao sản lượng hạt giống, rút gắn thời kỳ non trẻ, khiến cây
đạt độ trưởng thành sớm hơn, khắc phục được hiện tượng năm được mùa, năm mất mùa hạt
giống. Mục tiêu nghiên cứu là xác định được thời vụ và nồng độ Gibberellin GA4/7 tối ưu để nâng
cao sản lượng hoa (nón cái và nón đực) cho lồi Thơng nhựa.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thí nghiệm được thực hiện trên vườn giống vơ tính Thơng nhựa xây dựng năm 1995 tại
Cẩm Quỳ - Ba Vì - Hà Tây, bao gồm 56 dịng Thơng nhựa có sản lượng nhựa cao chọn lọc từ các
rừng trồng, thuộc 4 xuất xứ là Đại Lải, Quảng Ninh, Hà Trung và Nghệ An. Vườn giống được
thiết kế theo khối ngẫu nhiên đầy đủ 1 cây/ô với khoảng cách trồng 5m x 5m với 10 lần lặp.
Thiết kế thí nghiệm
Thí nghiệm 1: Xác định thời điểm tác động Gibberelline GA4/7 tối ưu
Thí nghiệm được thực hiện theo phương pháp do Almqvist đề xuất, phương pháp này đã
được áp dụng thành cơng đối với lồi Thơng Châu Âu (Pinus sylvestris).
- Hóa chất được dùng là Gibberelline GA4/7 với liều lượng là 40mg/cây và áp dụng đồng
đều cho các cây ghép.
- Thời gian tiến hành: trong 9 tháng (từ tháng 4 đến tháng 12)

- Số lượng cây ghép tham gia thí nghiệm: gồm 10 dịng cây ghép có sinh trưởng tương đối
đồng đều và có mặt ở tất cả các lặp. Tổng số cây ghép trong thí nghiệm là: 10 dòng x 1cây/tháng
x 9 tháng = 90 cây ghép.
- Thiết kế thí nghiệm: theo khối ngẫu nhiên đầy đủ với 9 cơng thức thí nghiệm theo thời
gian (tháng) và 10 lần lặp lại. Việc chọn các dòng cây ghép ở các lặp khác nhau cho mỗi lần tác
động được lựa chọn ngẫu nhiên.
- Phương thức tác động: chất Gibberelline GA4/7 sau khi hòa tan trong dung dịch cồn tuyệt
đối được bơm trực tiếp vào thân cây bằng pipet thông qua một lỗ khoan có đường kích 5mm
nghiêng 450 theo chiều từ trên xuống, ở độ cao 30cm so với mặt đất vào các ngày 1 và 15 hàng
tháng với liều lượng mỗi lần là 20mg/cây/lần. Dùng ống pipet (1,5ml) và xi lanh NKHIRYO
Model 8100 để bơm chất kích thích vào thân cây, sau khi bơm thuốc bịt lỗ khoan bằng băng keo
dính để ngăn nước mưa, cơn trùng và nấm bệnh phá hại thân cây.
Thí nghiệm 2: Xác định liều lượng Gibberelline GA4/7 thích hợp
- Hóa chất được dùng là Gibberelline GA4/7 với 5 công thức về liều lượng khác nhau:
+ Công thức 1: đối chứng không tác động
+ Công thức 2: liều lượng Gibberelline GA4/7 là 50mg
+ Công thức 3: liều lượng Gibberelline GA4/7 là 100mg
+ Công thức 4: liều lượng Gibberelline GA4/7 là 150mg
+ Công thức 5: liều lượng Gibberelline GA4/7 là 200mg
- Thiết kế thí nghiệm theo khối ngẫu nhiên đầy đủ với 2 nhân tố tác động là liều lượng và
dòng cây ghép, với 10 lần lặp lại.

2


- Số lượng dịng cây ghép tham gia thí nghiệm: gồm 13 dịng cây ghép có sinh trưởng
tương đối đồng đều và có mặt ở các lặp của vườn giống.
- Phương thức tác động: được tiến hành giống như ở thí nghiệm 1, các cơng thức liều lượng
được chia thành 3 lần tác động là cuối tháng 9, giữa tháng 10 và đầu tháng 11.
Việc lựa chọn các cây Thông nhựa ghép ở các lặp khác nhau cho từng công thức thí nghiệm

được xác định bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên.
Thu thập và xử lý số liệu
- Đếm số lượng hoa (nón cái và nón đực) được xác định bằng cách đếm số lượng nón cái và
nón đực vào thời gian hoa nở rộ nhất theo từng cây ghép (mỗi cụm nón đực được coi là 1 đơn vị
đếm, nón cái đếm chính xác tới từng nón riêng lẻ).
- Xử lý số liệu bằng phần mềm Excel và SPSS 11.5.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Thí nghiệm xác định thời gian kích thích Gibberelline GA4/7
Các nghiên cứu sử dụng Gibberelline để kích thích ra hoa cho một số lồi cây lá kim thuộc
họ thông bắt đầu được tiến hành từ giữa những năm 1970 và hóa chất được sử dụng là các loại
Gibberelline ít phân cực như GA4 và GA7, GA5 và GA9, trong đó GA4/7 là hóa chất có hiệu quả
nhất và có tác dụng làm tăng sản lượng nón cái của lồi thơng Pinus strobus (Owens & Blake,
1985).
Song trong một số trường hợp việc sử dụng GA4/7 đã khơng mang lại hiệu quả mong muốn
vì việc tác động GA4/7 không được tiến hành vào đúng thời điểm. Thời điểm thích hợp cho việc
cho việc tác động Gibberelline GA4/7 phụ thuộc vào lồi và điều kiện hồn cảnh. Thơng thường,
thời điểm áp dụng thích hợp nhất là vào giai đoạn đầu của sự phân hóa tế bào sinh trưởng. Do
vậy, việc tìm ra được thời gian bơm chất kích thích phù hợp là hết sức cần thiết trong việc nâng
cao sản lượng nón đực và nón cái.
Trong thí nghiệm xác định thời điểm tác động chất kích thích tối ưu cho lồi Thơng nhựa,
liều lượng Gibberelline GA4/7 được lựa chọn dựa trên các kết quả nghiên cứu của Curt Almqvist,
(2001) tiến hành cho lồi Thơng Châu Âu có kích thước tương tự như các dòng cây ghép trong
vườn giống Thơng nhựa. Thí nghiệm được tiến hành cho 10 dịng Thơng nhựa có sinh trưởng
tương đồng và có mặt ở tất cả các lặp của vườn giống với nồng độ Gibberelline GA4/7 được sử
dụng đồng đều là 40mg/cây và được tiến hành liên tục trong 9 tháng (từ tháng 4 đến tháng 12).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù sinh trưởng của các dịng Thơng nhựa ghép tham gia
thí nghiệm kích thích theo mùa là hồn tồn đồng nhất, nó được thể hiện ở bảng 1 với trị giá xác
suất của F = 0,688 > 0,05, song lại có sự chênh lệch khá lớn về sản lượng nón đực và nón cái
theo thời gian kích thích.
Bảng 1. Ảnh hưởng của Gibberelline GA4/7 đến khả năng ra hoa theo thời gian kích

thích của Thơng nhựa
Thời
gian

Số cây
kích thích

Số lượng nón cái
(nón)

Số lượng nón đực
(cụm)

Chiều cao cây
Hvn (m)

(tháng)

Đ/C

10

Tb

Std

Tb

Std


Tb

Std

81,6

23,57

91,2

13,17

3,8

0,38

3


4

9

102,2

24,90

97,1

18,91


4,0

0,47

5

10

76,9

18,17

111,7

21,28

3,8

0,40

6

9

89,3

22,04

93,5


16,83

3,8

0,32

7

9

84,0

30,26

69,2

13,78

3,8

0,48

8

10

78,8

22,33


89,3

20,25

4,1

0,36

9

10

98,6

19,97

105,8

20,37

3,8

0,34

10

10

112,4


28,43

112,8

17,18

3,9

0,30

11

9

93,1

30,69

77,5

16,72

3,8

0,48

12

10


81,8

22,33

79,3

20,25

4,1

0,36

Sig, F

0,003

< 0,001

0,688

Kết quả bảng 1 cho thấy ảnh hưởng của thời điểm tác động Gibberelline GA4/7 đến khả
năng ra hoa theo thời gian kích thích của Thơng nhựa là rất rõ. Nó được thể hiện ở các trị giá xác
suất F của cả nón đực và nón cái lần lượt là < 0,001 và 0,003 < 0,01 với mức ý nghĩa 99,99%.
Nếu như bơm thuốc kích thích Gibberelline GA4/7 ở các thời gian khác nhau thì có kết quả kích
thích ra hoa khác nhau, thậm chí cịn gây ức chế làm giảm cả số lượng nón đực và nón cái như
vào tháng 7, tháng 11 và tháng 12.
Kết quả nghiên cứu cịn cho thấy, nếu như mục đích nghiên cứu chỉ là tăng số lượng nón
đực hay nón cái một cách riêng biệt thì chúng ta lại có thể lựa chọn các thời gian kích thích khác
nhau. Dựa vào tiêu chuẩn phân hạng của Ducan, ta có thể chọn được thời gian kích thích cụ thể

cho từng loại nón:
- Đối với nón cái: ngồi thời gian bơm GA4/7 vào tháng 10, bơm vào tháng 4, tháng 6,
tháng 9 và tháng 11 sẽ làm tăng sản lượng nón cái; bơm vào tháng 5 và tháng 8 gây ức chế.
- Đối với nón đực: Bơm chất kích thích Gibberelline GA4/7 vào tháng 10, tháng 5, tháng 9
và tháng 4 sẽ nâng cao được sản lượng nón đực. Nếu bơm vào tháng 7, tháng 11 và tháng 12 lại
gây ức chế làm giảm số lượng.
Từ đó cho thấy thời gian bơm chất kích thích vào cây khác nhau cho kết quả ra hoa kết quả
của lồi Thơng nhựa là khác nhau. Nếu bơm chất kích thích vào thời gian cây mẹ có đủ hc mơn
nội sinh hoặc vào thời gian cây mẹ chưa cần đến thì cũng khơng có tác dụng kích thích ra hoa,
thậm chí cịn gây ức chế làm giảm sản lượng nón cái và nón đực.
Trong 9 tháng thí nghiệm thì bơm chất kích thích GA4/7 vào tháng 10 tạo ra số lượng nón
cái và nón đực nhiều nhất, lên tới 112,4 nón cái/cây, và 112,8 cụm nón đực/cây, lần lượt tăng
27,2% và 19,1% so với công thức đối chứng, vượt trội hơn hẳn các tháng còn lại. Do vậy, đây là
thời gian bơm chất kích thích phù hợp nhất, nó làm cho cả nón cái và nón đực đều tăng cực đại.
Kết quả này tương tự với Chalupka (1984) khi ơng nghiên cứu kích thích cho lồi thơng
Pinus sylvestris. Nếu bơm chất kích thích GA4/7 vào thời gian cây mẹ đang phát triển cành ngọn
non thì sẽ làm cho nón đực tăng, nếu bơm vào thời gian muộn hơn lại làm tăng số lượng của nón
cái; hoặc nghiên cứu của Ho & Eng, (1995) về chất kích thích GA4/7 cho lồi thơng Pinus strobus
4


cho thấy thời gian bơm từ tháng 5 đến tháng 6 cho kết quả số lượng nón đực tăng, nhưng bơm
thuốc kích thích từ tháng 8 đến tháng 9 thì khơng có sự ảnh hưởng của thuốc. Nghiên cứu của
(Luukkanen & Johnsson, 1980) cho lồi Thơng Châu Âu ở Phần Lan vào thời gian từ cuối tháng
5 cho đến cuối tháng 6, bơm từ 3-6 lần trên mỗi cây ghép cho thấy cả số lượng nón đực và nón
cái đều tăng.
Ảnh hưởng của liều lượng Gibberelline GA4/7 đến số lượng nón đực và nón cái
Nghiên cứu xác định liều lượng Gibberelline GA4/7 thích hợp được tiến hành trên 13 dịng
cây ghép có sinh trưởng tương đối đồng đều và có mặt ở tất cả các lặp của vườn giống cụ thể là
các dòng số 1, 2, 3, 5, 6, 14, 15, 17, 21, 22, 29, 31 và dịng 53. Thí nghiệm này bao gồm công

thức đối chứng không tác động và 4 cơng thức thí nghiệm về liều lượng Gibberelline GA4/7 là 50,
100, 150 và 200mg được chia thành 3 lần tác động là cuối tháng 9, giữa tháng 10 và đầu tháng
11. Việc thu thập số liệu về sản lượng hoa cho từng dịng và cơng thức thí nghiệm được thực hiện
vào tháng 2 năm 2007.
Kết quả xử lý số liệu bằng phân tích phương sai với hai nhân tố tác động với mơ hình hai
nhân tố (Xij = µ + αi + βij + εij) được tổng hợp trong bảng 2 cho thấy mặc dù sinh trưởng về đường
kính, chiều cao và đường kính tán của các dịng cây ghép ở các công thức liều lượng về cơ bản là
giống nhau (các trị số Ftính về các chỉ tiêu này biến động trong khoảng từ 0,21 đến 0,66 đều lớn
hơn 0,05). Song sai khác về sản lượng hoa, cả nón đực và nón cái giữa các cơng thức liều lượng
cũng như giữa các dòng cây ghép lại rất rõ rệt.
Bảng 2. Sản lượng hoa của các dòng cây ghép Thông nhựa 11 tuổi được xử lý Gibberelline
GA4/7 với các liều lượng khác nhau
Cơng
thức
(mg)

Số
cây

Số lượng nón cái
(nón/cây)

Số lượng nón
đực (cụm/cây)

Hvn (m)

D1,3 (cm)

Dt (m)


TB

Std

TB

Std

TB

Std

TB

Std

TB

Std

ĐC

21

272,3

36,0

837,8


62,2

7,9

0,17

16,5

0,59

6,33

0,18

50

26

298,2

33,7

853,0

58,2

7,8

0,16


17,5

0,56

6,50

0,17

100

25

302,8

33,7

889,5

58,2

8,0

0,16

17,2

0,56

6,22


0,17

150

26

444,4

32,4

1052,2

56,1

7,8

0,15

16,6

0,53

6,07

0,16

200

20


285,7

38,8

785,5

67,0

7,6

0,18

15,1

0,64

6,08

0,20

Sig, F

0,005

0,046

0,66

0,21


0,48

Điều này chứng tỏ chất kích thích Gibberelline GA4/7 có tác dụng nâng cao sản lượng nón
cái và nón đực, song chỉ ở một dải liều lượng nhất định. Nếu vượt quá liều lượng cho phép, chất
Gibberelline lại gần như khơng có tác dụng, thậm chí cịn làm giảm sản lượng hoa của Thơng
nhựa như ở công thức 200mg.
Dựa vào khoảng sai dị nhỏ nhất LSD để đánh giá mức độ sai khác về sản lượng hoa giữa
các cơng thức thí nghiệm cho thấy:
Về số lượng nón cái, cơng thức 150mg là hồn tồn sai khác với từng cơng thức cịn lại vì
giữa chúng có xác suất của F lần lượt theo các cặp công thức là: công thức đối chứng (xác suất
5


của F = 0,00), công thức 50mg (xác suất của F = 0,003), công thức 100mg (xác suất của F =
0,005) và công thức 200mg (xác suất của F = 0,002), tất cả đều nhỏ hơn rất nhiều so với 0,01 ở
mức ý nghĩa 99,9%.
Về số lượng nón đực, cơng thức 150mg cũng có khác biệt rất lớn so với các cơng thức cịn
lại, có trị giá xác suất của F lần lượt như sau: công thức đối chứng (xác suất của F = 0,003), công
thức 50mg (xác suất của F = 0,011), công thức 100mg (xác suất của F = 0,049) và công thức
200mg (xác suất của F = 0,002), tất cả đều nhỏ hơn 0,01 và 0,05 với độ tin cậy 95% ở cặp công
thức 150mg và công thức 100mg, còn lại tất cả đều bằng hoặc nhỏ hơn 0,01 với độ tin cậy là
99,99%.
Như vậy, đối với các dịng cây ghép Thơng nhựa 11 tuổi tại vườn giống, Gibberelline GA4/7
liều lượng 150mg là cơng thức có hiệu quả cao nhất trong việc nâng cao sản lượng nón cái và nón
đực.
Ảnh hưởng của Gibberelline GA4/7 đến sản lượng hoa của các dòng cây ghép
Kết quả theo dõi sản lượng hoa của các dòng cây ghép cho thấy số lượng nón đực và nón
cái khơng những có sự biến động lớn giữa các công thức liều lượng mà ngay cả trong cùng một
cơng thức cũng có biến động lớn. Các trị số trung bình về số lượng nón cái và nón đực của từng

dịng cây ghép ở các cơng thức liều lượng khác nhau được thể hiện ở biểu đồ 1 cho nón cái và
biểu đồ 2 cho nón đực.
Về sản lượng nón cái
Về cơ bản, việc tác động Gibberelline GA4/7 đã làm tăng sản lượng nón cái của các dịng
cây ghép so với cơng thức đối chứng; song một số trường hợp việc tác động Gibberelline GA4/7
không những khơng mang lại hiệu quả mong muốn mà cịn gây tác dụng ức chế. Ví dụ như đối
với dịng số 1 và dòng số 21. Một trong những nguyên nhân có thể dùng để giải thích cho hiện
tượng này là do các dịng này đã đủ các hc mơn nội sinh trong cây, việc tác động thêm một
lượng Gibberelline GA4/7 sẽ gây ức chế.

6


700
646.5

640.5

616
597.5

600

550
521

517

Số lượng nón cái (nón)


500

477.5

485

473

490.5

400

278
300

185

200

100

0

Dòng 1

Dòng 2

Dòng 3

Dòng 5


Đối chứng

Dòng 6 Dßng 14 Dßng 15 Dßng 17 Dßng 21 Dßng 22 Dßng 29 Dßng 31 Dßng 53

50 mg

100 mg

150 mg

200 mg

Biểu đồ 1. Ảnh hưởng của lượng Gibberelline GA4/7 đến số lượng nón cái
Cũng từ kết quả ở biểu đồ 1 cho thấy cơng thức có lượng chất Gibberellin 150mg/cây là có
hiệu quả nhất. Nó làm tăng sản lượng nón cái của 9/13 dịng cây mẹ trong thí nghiệm, đặc biệt là
các dịng số 2 đạt 597,5 nón/cây, dịng số 17 (616 nón/cây), dịng số 29 (646,5 nón/cây) và dịng
53 (640,5 nón/cây).
Cơng thức 100mg/cây lại tỏ ra phù hợp với 2 dịng cịn lại là dịng số 22 (521 nón/cây) và
dịng số 15 (185 nón/cây). Trong khi chất Gibberelline GA4/7 có tác dụng tăng sản lượng nón cái
của hầu hết các dịng cây mẹ, thì dịng số 1 và 21 là khơng chịu ảnh hưởng của chất kích thích,
chứng tỏ 2 dịng này đã có đầy đủ lượng chất Gibberelline nội sinh trong cây.
Về sản lượng nón đực
Cũng tương tự như nón cái, việc tác động Gibberelline GA4/7 về cơ bản đã làm tăng sản
lượng nón đực và phản ứng của các dòng với các liều lượng Gibberelline GA4/7 cũng rất khác
nhau.
Nhìn vào biểu đồ 3 biểu diễn ảnh hưởng của liều lượng Gibberelline GA4/7 đến số lượng
nón đực, cơng thức 150mg vẫn tỏ ra là tốt nhất cho hầu hết các dòng cây mẹ, mặc dù sự vượt trội
của cơng thức 150mg so với các cơng thức cịn lại không lớn và rõ như ảnh hưởng của công thức
này đến số lượng nón cái ở trên. Nó chỉ chiếm 8/13 trong tổng số dịng Thơng nhựa bơm kích

thích.

7


2000
1770.5

1800

1600

Số lượng cụm nón đực (cụm)

1427

1403.5

1317.5

1400

1229

1220

1127.7

1179.5


1200

1233

1070.5
927

1000

909.5

800
603
600

400

200

0

Dòng 1

Dòng 2

Dòng 3

Dòng 5

Dòng 6 Dßng 14 Dßng 15 Dßng 17 Dßng 21 Dßng 22 Dòng 29 Dòng 31 Dòng 53


Đối chứng

50 mg

100 mg

150 mg

200 mg

Biểu đồ 2. Ảnh hưởng của lượng Gibberelline GA4/7 đến số lượng nón đực
Kết quả nghiên cứu này lại một lần nữa cho thấy các dịng khác nhau thì cần lượng
Gibberelline khác nhau. Mặc dù đa số các dòng đều thích hợp với cơng thức 150mg để tăng
lượng nón đực, song cơng thức 100mg tỏ ra tác dụng kích thích tốt cho dịng 6, dịng 21 và dịng
22. Trong khi dòng số 1 và dòng 17 khi bơm chất kích thích, khơng những khơng có tác dụng làm
tăng sản lượng hoa mà cịn làm giảm hơn so với cơng thức đối chứng. Đặc biệt, dịng số 1 hồn
tồn khơng chịu tác động của chất Gibberelline cho cả nón đực và nón cái. Đây có thể là do chất
Gibberelline nội sinh trong cây mẹ ở các dòng này đã đầy đủ để kích thích ra hoa kết quả. Đến
đây ta có thể kết luận rằng, sản lượng nón cái và nón đực khơng chỉ chịu ảnh hưởng ở các liều
lượng thuốc khác nhau, mà còn chịu ảnh hưởng của các dịng cây ghép khác nhau, các dịng khác
nhau có sự biến đổi về số lượng nón cái và nón đực khác nhau. Điển hình là dịng số 15 nếu như
khơng tác động chất kích thích, sản lượng cả nón cái và nón đực đều rất thấp, nhưng bơm chất
kích thích ở mọi liều lượng Gibberelline GA4/7 thì cũng khơng làm thay đổi nhiều về số lượng
hoa.
Trong khi hầu hết các dịng Thơng nhựa ghép đều được chất Gibberelline GA4/7 kích thích
làm tăng sản lượng hoa, thì dịng số 1 lại khơng chịu ảnh hưởng của chất kích thích, khi bơm chất
Gibberelline GA4/7 lại cịn làm giảm sản lượng nón cái và nón đực, kết quả này tương tự với dịng
số 17 về sản lượng nón đực. Điều này rõ ràng các dịng cây mẹ khác nhau có ảnh hưởng đến sản
lượng nón cái và nón đực khác nhau.

KẾT LUẬN

8


Sử dụng Gibberelline GA4/7 vào thời điểm và liều lượng thích hợp sẽ góp phần làm tăng
số lượng nón cái và nón đực của vườn giống Thơng nhựa.
Thời gian kích thích tối ưu đối với Thơng nhựa là vào tháng 10. Sử dụng Gibberelline
GA4/7 vào thời điểm này sẽ làm tăng lượng nón cái lên 27,2% và lượng nón đực lên 19,2% so với
công thức đối chứng không tác động.
Liều lượng Gibberelline GA4/7 thích hợp nhất đối với các cây ghép Thông nhựa 11 tuổi là
150mg/cây. Sử dụng liều lượng này sẽ làm tăng lượng nón cái lên 444,4 nón/cây và số lượng nón
đực 1052,2 cụm/cây tăng lần lượt tăng 63,2% và 25,6% so với công thức đối chứng không kích
thích.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Curt Almqvist, 2001. Improvement of flowering competence and capacity with reference to
Swedish conifer breeding, pp 12-20.
Chalupka W, 1984. Time of GA4/7 application may effect the sex of Scot pine flowers initiated,
pp 173-174.
Fogal W, 1996. Stem incorporation of Gebberellins to promote sexual development of white
spruce, Norway spuce and jack pine. pp. 186-195.
Ho, R. H. & Eng, K, 1995. Promotion of cone production on field-grown eastern white pine graft
by Gibberellin GA 4/7 application. pp 11-16.
Luukkanen, O and Johansson S, 1980. Effect of exogenous giberellins on flowering in Pinus
sylvestris grafts. Physiol. Plant, pp 365-370.

STUDY ON THE EFFECT OF GIBBERELLINE GA4/7 APPLICATION FOR FLOWER PRODUCTION IN
PINUS MERKUSII SEED ORCHARDS

Nguyen Tuan Hung

Nguyen Duc Kien, Ha Huy Thinh
Research Centre for Forest Tree Improvement
Forest Science Institute of Vietnam
SUMMARY

Study on stimulation to produce early flowering in large amounts is an important method for
forest tree improvement in order to shorten the breeding cycle and raise the productivity of seed
to provide for plantation requirements. Gibberreline is a chemical which is applied in many
countries, especially on Pinus. Pinus is a late flowering species and the period from flowering to
seed collection lasts nearly two years. The research objective is to determine timing and a
suitable Gibberelline GA 4/7 dose to stimulate Pinus merkusii.
The results show that using Gibberelline GA4/7 at the right time and dosage raises the amount of
male and female cones significantly in comparison with the control formula. Each grafting clone
reacts differently to GA4/7, however, the most suitable dose for most Pinus merkusii grafting
clones at 11 years is 150 mg/graft and the optimal time is in October.
9


Keywords: Pinus merkusii, Gibberelline GA4/7

10



×