ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV
ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN HẢI
QUÂN
3
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự học là hình thức học tập khơng thể thiếu được của sinh viên đang học
tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học,
có chất lượng, hiệu quả không chỉ là trách nhiệm của sự nghiệp giáo dục và đào
tạo của các trường đại học mà đây còn là trách nhiệm to lớn của cá nhân từng
người học. Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ,
lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan
trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự học, điều này có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ năng nghề nghiệp trước hết phải
có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để
chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn nắm
vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách
thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường. Như vậy, để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu
quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều
kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và
làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú,
duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.
Với đặc thù là học viên đào tạo cán bộ chính trị tại Học viện Hải Quân,
với nhiều nội dung mơn học khác nhau, trong q trình học tập các môn
KHXH&NV chiếm thời lượng rất lớn trong nội dung chương trình đào tạo. Việc
học tốt các mơn KHXH&NV giúp cho học viên hình thành thế giới quan
phương pháp luận duy vật biện chứng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách
mạng, cùng với việc rèn luyện tay nghề CTĐ, CTCT, đây là điều không thể thiếu
đối với một người cán bộ chính trị. Để học tốt các mơn KHXH&NV thì việc tự
học đóng vai trị hết sức quan trọng. Tuy nhiên hiện nay việc tự học của học viên
còn nhiều bất cập, hầu hết khi tiếp xúc với các mơn KHXH&NV học viên cịn
khá lúng túng trong việc tìm ra phương pháp học tập hợp lý. Vì vậy tác giả chọn
4
vấn đề : Nâng cao chất lượng tự học các mơn KHXH&NV đối với học viên đào
tạo cán bộ chính trị ở học viện Hải Quân làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Để góp phần nâng cao chất lượng GD – ĐT trong các Học viện, nhà
trường, trong thời gian qua đã có những bài viết, những nội dung nghiên cứu về
nâng cao chất lượng tự học của học viên, sinh viên nhưng chưa có đề tài nào
nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học
viên đào tạo cán bộ chính trị ở học viện Hải Quân”. Vì vậy tác giả chọn đề tài đi
nghiên cứu, luận giải về nâng cao chất lượng tự học các mơn KHXH&NV đối
với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở học viện Hải Quân.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ lý luận, thực tiễn định hướng phương pháp tự học cho
đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị tai học viện Hải Quân hiện nay, đề xuất
các giải pháp tự học cho đội ngũ này, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội
ngũ cán bộ chính trị của quân đội trong thời kỳ mới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ lý luận nâng cao chất lượng tự học của đối tượng học viên đào
tạo cán bộ chính trị
- Đánh giá thực trạng của việc tự học các môn KHXH&NV của học viên
đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng tự học các môn
KHXH & NV cho đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị trong thời kỳ mới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc nâng cao chất lượng tự học các
môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải
Quân
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
5
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối quan điểm
của Đảng cộng sản Việt nam về giáo dục đào tạo, lý luận phương pháp tự học
hiện đại
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, lơgic, khảo sát thực tiễn để nghiên cứu
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu góp phần nâng cao chất lượng tự học
của học viên trong quá trình học tập các môn khoa học xã hội – nhân văn và tài
liệu tham khảo cho giáo viên cũng như tất cả bạn đọc quan tâm
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm : Phần mở đầu, kết luận, 2 chương, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục
6
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn việc nâng cao chất lượng tự học các môn
khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở học
viện Hải Quân.
1.1. Cơ sở lý luận việc nâng cao chất lượng tự học và đặc điểm tự học
các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị
ở Học viện Hải Quân.
1.1.1. Cơ sở lý luận.
Trong GD – ĐT dạy và học có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
với nhau, trong đó người dạy giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền thụ
nội dung kiến thức và phương pháp học tập cho người học; đề xuất yêu cầu
nhiệm vụ học tập; chỉ đạo, tổ chức, điều khiển người học thực hiện tốt các yêu
cầu, nhiệm vụ học tập; nắm thông tin ngược một cách thường xun thơng qua
các hình thức, phương pháp dạy học và các sản phẩm của người học; tiếp tục đề
xuất những yêu cầu, nhiệm vụ học tập mới trên cơ sở xử lý các thơng tin ngược;
phân tích đánh giá kết quả học tập và giảng dạy. Dưới tác động sư phạm của
người dạy, người học là khách thể, tiếp thu một cách có ý thức những tác động
đó, để tiến hành hoạt động nhận thức của mình. Song quá trình nhận thức là một
quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc mỗi người một cách
chủ động, sáng tạo, người học là chủ thể nhận thức, tự giác, tích cực, độc lập,
tiến hành các hoạt động nhận thức của mình, nhằm hồn thành tốt nhiệm vụ học
tập. Người học phải: tự ý thức các yêu cầu, nhiệm vụ học tập một cách đầy đủ
chính xác; phát hiện các mâu thuẫn nhận thức và tự lực giải quyết nó, dưới sự
chỉ đạo của người dạy; tự phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình
học tập của bản thân thông qua các sản phẩm học tập của mình; tự đề xuất
những yêu cầu học tập mới đối với bản thân trên cơ sở xử lý các thơng tin ngược
bên trong; tự phân tích, tự đánh giá kết quả học tập. Từ sự phân tích vai trị và
những hành động cơ bản của người dạy và người học như trên, chúng ta càng
thấy sự gắn bó tương hỗ giữa hai mặt hoạt động này, trong đó người học có vai
trị hết sức quan trọng trong việc tự học, tự nghiên cứu của mình.
7
Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách chọn
nhập và xử lý thơng tin lấy từ môi trường xung quanh. Dạy là việc giúp cho
người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến
đổi những tình cảm, thái độ. Đó là quan niệm tổng quát về dạy và học theo cách
tiếp cận thơng tin, từ đó người dạy có vai trị giúp cho người học chọn, nhập và
xử lý thông tin để biến thành tri thức chứ không phải là nguồn truyền thông tin
cho người học. Việc học phụ thuộc vào mối quan hệ giảng viên – học viên, vai
trò của giảng viên và học viên biến động qua mối quan hệ này. Một mặt, giảng
viên có thể đơn thuần là người truyền đạt kiến thức; sinh viên hoàn toàn phụ
thuộc vào điều mà người giảng bài nói hoặc làm, họ là “người tiếp nhận” hơn là
“người học”. Mặt khác, giảng viên có thể đóng vai trị hướng dẫn, hoặc người
tạo điều kiện thuận lợi, sinh viên được giúp đỡ để chủ động lập kế họach học tập
của mình.
Trong giai đoạn hiện nay với việc đổi mới nội dung, phương pháp GD –
ĐT, lấy người học làm trung tâm, người dạy chỉ đóng vai trị là người hướng dẫn
và tổ chức cho học viên tự mình chủ động tiếp cận với giáo trình tài liệu, vì vậy
việc tự học, tự tìm kiếm tri thức của người học lại càng có vai trị quyết định
trong nâng cao chất lượng GD – ĐT.
Xuất phát từ lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, dưới ánh
sáng lý luận đó, việc lĩnh hội các kiến thức, kỹ xảo được xem là một quá trình
phản ánh thế giới khách quan vào trong ý thức của người học. Đó là quá trình
vận động của tư duy, là sự giải quyết mâu thuẫn nội tại, từ chỗ chưa hiểu biết
đến chỗ hiểu biết, từ chỗ hiểu biết chưa đầy đủ chưa chính xác đến đầy đủ và
chính xác hơn, từ chỗ chưa có kỹ năng đến có kỹ năng giải quyết những vấn đề
thực tiễn đặt ra. Sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong ý thức của con
người không phải là một hành động tức thời, giản đơn, thụ động, máy móc mà là
một q trình phức tạp của sự hoạt động tích cực sáng tạo. Về cơ bản, hoạt động
học tập diễn ra theo quy luật nhận thức chung, mà tự học nằm trong quá trình
học tập. Quá trình nhận thức của người học về cơ bản được quy định bởi quy
luật nhận thức chung, quy luật đó được Lênin khái quát “Từ trực quan sinh động
8
đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn …” 1 Điều đó có nghĩa
là quá trình đi từ nhận thức cảm tính đến lý tính và quay trở về thực tiễn. Người
học thu thập các tài liệu cảm tính từ những tác động của người dạy và phương
tiện trực quan dạy học. Trên cơ sở các tài liệu cảm tính đó, người học sử dụng
các thao tác tư duy để xử lý chế biến, nghiền ngẫm thông tin học tập, gạt bỏ
những cái vụn vặt, ngẫu nhiên bên ngoài, nắm lấy cái bản chất, quy luật của sự
vật, hiện tượng, nghĩa là nắm được cái khái niệm, định nghĩa, quy luật. Và cuối
cùng học tập là sự vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng đã tiếp thu được vào
giải quyết các nhiệm vụ lý luận và thực tiễn đặt ra. Trong quá trình học tập,
người học không những chỉ lĩnh hội các kiến thức đã được khoa học khám phá
mà cịn tìm ra những tri thức mới. Vì vậy hoạt động nhận thức của người học
được diễn ra trong điều kiện: có người dạy chỉ đạo, có tài liệu, các phương tiện
kỹ thuật dạy học, khả năng tự học của cá nhân người học, trong đó khả năng tự
học của người học là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình nhận
thức.
Trong các giáo trình, tài liệu, có nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa
khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:
- Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự
học. Tự học là q trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực
tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm
ban đầu, đối chiếu với các mơ hình phản ánh hồn cảnh thực tại, biến tri thức
của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của chủ thể.
- Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc hồn
thành các nhiệm vụ khác khơng nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” - Theo tác
giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất
định
- Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý
luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại
học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri
9
thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngồi lớp,
theo hoặc khơng theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định.
- Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của
mỗi người do nhận thức được đúng vai trị quyết định của nó đến sự tích luỹ
kiến thức cho bản thân, cho chất lượng cơng việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến
bộ của xã hội”
- Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng cơng cụ) cùng các phẩm chất của
mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung
thực, khách quan, có chí tiến thủ, khơng ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại,
lịng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành
sở hữu của mình”2.
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, có thể đi đến định nghĩa về tự
học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự
chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của
chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định.
Như vậy tự học là hình thức học tập độc lập của người học nhằm lĩnh hội,
củng cố và vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng. Tự học có những đặc điểm
nổi bật sau đây: Là một hình thức tổ chức dạy học mang tính chất cá nhân;
người học tự tổ chức quá trình nhận thức của mình, thể hiện tính tự giác, tích
cực độc lập, sáng tạo của bản thân; người dạy giữ vai trò chỉ đạo, định hướng,
song không trực tiếp can thiệp vào quá trình tự lĩnh hội của người học; tự học
giúp cho người học củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa, khái quát hóa kiến
thức, rèn luyện kỹ xảo, tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào giải quyết các
nhiệm vụ thực tiễn.
Các hình thức tự học:
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
10
* Hình thức 1: Cá nhân tự mày mị theo sở thích và hứng thú độc lập
khơng có sách và sự hướng dẫn của giáo viên.
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá
trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới,
đây thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên
nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải
có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học khơng
thầy, khơng sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt
động của mình.
* Hình thức 2: Tự học có sách nhưng khơng có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà khơng có sự hướng dẫn của thầy:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong
sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hồn tồn với sách là cái đích mà mọi
người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa
thầy và trị bằng các phương tiện trao đổi thơng tin thơ sơ hay hiện đại dưới
dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,...
* Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày,
sau đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên
Trong q trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ,
chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai
trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham
gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trị chính là mối quan hệ
giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất
xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy,
nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của
11
bản thân để hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo
hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định
hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình
thức tự học thứ ba này quá trình tự học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với
q trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức
và quản lý q trình dạy học của giảng viên và quá trình tự học của học viên.
Trong GD – ĐT cán bộ chính trị nói chung và cán bộ chính trị ở Học viện
Hải Quân nói riêng phần lớn thời gian và khối lượng kiến thức học tập, nâng cao
tay nghề của người cán bộ chính trị tập trung vào các mơn KHXH&NV. Việc
học tập, lĩnh hội kiến thức các mơn KHXH&NV có vai trò ý nghĩa hết sức quan
trọng, là tiền đề để cho người cán bộ chính trị có thế giới quan, phương pháp
luận khoa học trong việc nhận thức, đánh giá thực tiễn. Các môn KHXH&NV
rất đa dạng như: triết học, kinh tế - chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch
sử, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, tâm lý giáo dục học, lôgic
học … có thể nói rằng các mơn KHXH&NV là hệ thống những tri thức về xã
hội và về con người. Nếu tách bạch ra thì khoa học xã hội nghiên cứu về xã hội,
còn khoa học nhân văn nghiên cứu về con người. Có những khoa học nghiên
cứu xã hội như một chính thể phát triển qua thời gian: đó là sử học (cổ, trung,
cận, hiện đại) và những khoa liên quan như khảo cổ học, dân tộc học. Có những
khoa học nghiên cứu xã hội như một cấu trúc gồm nhiều yếu tố hợp thành (cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội) cũng như
những mặt khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, luật pháp, đạo đức,
tơn giáo, văn học, nghệ thuật tâm lí... đó là khoa học xã hội hiểu theo nghĩa hẹp.
Nếu lấy con người làm đối tượng nghiên cứu, coi con người, tính người là trung
tâm như hàm nghĩa của khái niệm khoa học nhân văn thì chưa đủ, bởi con người
là chủ thể của ý thức, của tư duy. Vì vậy khoa học nhân văn còn gồm cả những
khoa học triết học, trong đó có triết học (nghiên cứu về thế giới quan, về lí luận
nhận thức), lơgic học (nghiên cứu về tư duy trừu tượng) …
Từ vấn đề trên ta thấy việc tự học các mơn KHXH&NV là hoạt động nhận
thức, có mục đích của cá nhân, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng
12
lực trí tuệ để chiếm lĩnh các tri thức về xã hội và con người, biến các lĩnh vực đó
trở thành sở hữu của mình. Tự học các mơn KHXH&NV là việc tiếp thu một
cách có tổ chức các tri thức về xã hội và con người, dựa vào công tác tự học một
cách có hệ thống.
Trong q trình tự học các mơn KHXH&NV thì chất lượng giữ vai trị
quyết định. Chất lượng là một khái niệm rất trừu tượng, đa chiều, đa nghĩa, được
xem từ nhiều bình diện khác nhau, đây là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi
trong đời sống xã hội. Triết học Mác-Lênin chỉ rõ: mọi sự vật, hiện tượng của
hoạt động xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng. Mọi quan hệ
qua lại giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng quy định sự tồn tại, phát triển
của chính bản thân sự vật. Quan niệm chung nhất theo từ điển Tiếng việt “Chất
lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc” 3.
Nghĩa là khi phân tích đánh giá bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào hay hoạt động
của cá nhân hoặc tập thể đều phải gắn với yếu tố, thuộc tính quy định sự tồn tại,
phát triển tạo nên giá trị đích thực của hiện tượng, hoạt động đó, khơng được
tuyệt đối hố hoặc tách rời các yếu tố, thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng hoạt
động cụ thể, địi hỏi phải có phương pháp xem xét, đánh giá cụ thể, không thể áp
dụng một phương pháp chung cho mọi sự vật, hiện tượng; đặc biệt là đối với
con người và hoạt động thực tiễn của con người trong lĩnh vực hoạt động xã hội.
Vì vậy Đánh giá chất lượng người ta căn cứ vào giá trị, giá trị xã hội và do xã
hội quy định.
Biểu hiện tập trung chất lượng tự học là ở nhân cách của người học viên;
tức là mức độ chuyển biến nhận thức, sự tích luỹ thêm kinh nghiệm thực tiễn
của mỗi học viên trong học tập, rèn luyện phù hợp với chức trách, nhiệm vụ
được giao. Trên bình diện chung nhất có thể hiểu chất lượng tự học các môn
KHXH&NV là hiệu quả chuyển biến nhận thức của cá nhân người học trong quá
trình tự giác, tự động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ để chiếm lĩnh
các tri thức về xã hội và con người.
Tiêu chí đánh giá chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên
đào tạo cán bộ ở Học viện Hải Quân.
13
Tiêu chí là điều được quy định dùng làm chuẩn để phân loại đánh giá.
Theo đó, tiêu chí được thể hiện ở các chỉ số, thông số, chỉ tiêu dùng làm thước
đo để dựa vào đó so sánh, đánh giá kết quả tự học các môn KHXH&NV của học
viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân. Các chỉ số, thơng số, chỉ tiêu
càng chính xác, cụ thể bao nhiêu thì việc đánh giá chất lượng tự học các môn
KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân càng
chính xác bấy nhiêu. Với cách tiếp cận đó, khi đánh giá chất lượng tự học các
môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân
cần dựa vào trên các nhóm tiêu chí sau:
Một là, kết quả nhận thức về nội dung các môn KHXH&NV, đây là tiêu
chí rất quan trọng bởi vì trong q trình tự học các môn KHXH&NV biểu hiện
của kết quả nhận thức nội dung các môn KHXH&NV thông qua việc người học
đã xác định được tầm quan trọng của các môn KHXH&NV hay chưa, đã nắm
vững bản chất, nội dung vấn đề, nội dung bài học đến đâu, biết liên hệ, vận
dụng, lý luận vào thực tiễn như thế nào… thông qua những kết quả đó mà đánh
giá được chất lượng tự học các môn KHXH&NV của người học
Hai là, chất lượng tự học các môn KHXH&NV được đánh giá bằng kết
quả học tập thông qua kiểm tra, thi kết thúc môn. Trong q trình tự học các
mơn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân, để
biết được khả năng tiếp thu kiến thức của bản thân đến đâu, thì kết quả kiểm tra
đánh giá của giảng viên phản ánh thực chất chất lượng học tập của người học.
Ba là, thể hiện qua chất lượng tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài,
chất lượng thảo luận xêmina. Trong các giờ thảo luận hay xêmina việc học viên
tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài như thế nào, có sơi nổi hay khơng, có
giải quyết được lý luận và thực tiễn hay không … điều đó đánh giá được việc
chuẩn bị bài của học viên tốt hay không tốt, đánh giá được chất lượng tự học của
học viên ở mức nào.
Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn CTĐ, CTCT ở đơn vị. Chúng ta
biết rằng chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ
chính trị ở Học viện Hải Qn có tốt hay khơng được đánh giá bằng rất nhiều
14
tiêu chí trong đó có hoạt động thực tiễn ở đơn vị, đặc biệt là hoạt động CTĐ,
CTCT là một tiêu chí quan trọng, thơng qua hoạt động này có thể đánh giá được
việc vận dụng những kiến thức KHXH&NV vào trong thực tiễn hoạt động CTĐ,
CTCT của người học đến đâu, từ đó đánh giá được chất lượng tự học các môn
KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân.
1.1.2. Đặc điểm về việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn
của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân.
Các môn KHXH&NV bao gồm: triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa
xã hội khoa học, tâm lý học, giáo dục học, pháp luật, văn học, nghệ thuật…
nghiên cứu sự vận động, biến đổi và phát triển của tự nhiên, xã hội và con
người, vì vậy việc tự học các mơn khoa học này có những đặc điểm riêng, Hơn
thế nữa khi học các môn khoa học này là nền tảng cho các môn khoa học khác
và tạo một thế giới quan, cách nhìn nhận vấn đề của bản thân một cách khách
quan hơn.
Về đặc điểm các mơn KHXH&NV xét một cách tổng thể nó mang tính
phổ biến, bởi lẽ KHXH&NV là khoa học nghiên cứu về xã hội, con người và
cộng đồng người. Xưa nay, phàm làm bất kỳ việc gì thì cũng phải động chạm
đến những hiểu biết về xã hội, con người và cộng đồng người, cho nên kiến thức
KHXH&NV hiện hữu ở khắp mọi nơi và cần đến ở khắp mọi nơi. Trong phạm
vi một quốc gia, một cơng trình nghiên cứu khoa học tự nhiên và cơng nghệ thì
giỏi lắm cũng chỉ có vài trăm người đọc (in được vài trăm bản) cịn một cơng
trình nghiên cứu KHXH&NV thường có tới vài nghìn, thậm chí vài vạn người
đọc. Vì vậy việc tiếp cận những môn này không phải là chuyện khó khăn, việc
tự học và tự nghiên cứu các mơn này có sự khó, dễ khác nhau tùy thuộc vào sự
tiếp cận và khả năng của từng người.
Nghiên cứu các mơn KHXH&NV liên quan mật thiết đến lĩnh vực chính
trị xã hội, đạo đức nhân cách, tư tưởng, văn hóa của dân tộc cho nên đây là một
lĩnh vực rất quan trọng. Chúng ta đều biết, những sai lầm về kinh tế, kỹ thuật để
lại hậu quả lớn, nhưng vẫn có thể khắc phục được trong một thời gian nhất định.
Thế nhưng những sai lầm thuộc về lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo
15
dục… sẽ để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng và lâu dài, có khi mất đến hàng
chục, hàng trăm năm mới khắc phục được. Vì vậy người học viên đào tạo cán bộ
chính trị ở Học Viện Hải Quân phải nhận thức được đặc điểm, tầm quan trọng
của KHXH&NV, từ đó có phương pháp học tập, nghiên cứu, củng cố vững chắc
kiến thức về KHXH&NV làm điều kiện cho công tác sau này đạt hiệu quả cao.
Trong thực tiễn, bất cứ công việc nào, bất cứ ngành nghề nào cũng như
bất cứ mơn học nào cũng đều có độ khó, dễ riêng của nó, tuỳ theo cách cảm
nhận, cách tiếp thu và lòng đam mê của mỗi người mà những cái đó trở nên dễ
đối với người này cũng như sẽ trở nên khó đối với người khác. Khi học các môn
KHXH&NV cũng vậy, đều là những môn học địi hỏi người học phải chịu khó
đọc nhiều tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững bản chất vấn đề, bởi vì học
các mơn này khá trừu tượng, nhiều thuật ngữ khó, có tính lý luận, tính khái qt
cao; luôn quan hệ mật thiết với thực tiễn xã hội; ln có sự thống nhất cao giữa
tính khoa học và tính tư tưởng; ln mang tính chiến đấu… khi nghiên cứu nếu
người học khơng có phương pháp tự học tốt và khơng biết cách tiếp cận thì sẽ
khiến cho người học bị ngập vào trong các khái niệm, phạm trù, quy luật… vì
vậy người học phải tự tìm cho mình phương pháp nghiên cứu các môn này một
cách hiệu quả nhất.
Với những đặc điểm riêng như trên vì thế để học tốt các mơn KHXH&NV
nói riêng và các mơn học khác nói chung thì trước hết tinh thần tự học, tự
nghiên cứu, miệt mài, chăm chỉ là rất quan trọng. Trước khi lên lớp người học tự
nghiên cứu, tham khảo tài liệu trước, ghi và đánh dấu những nội dung khó hiểu
hoặc vướng mắc để trên lớp cùng trao đổi với bạn bè hoặc giảng viên. Trên lớp
tập trung chú ý nghe giảng tranh thủ ghi tốc ký những nội dung, các ví dụ, dẫn
chứng của giảng viên để làm cơ sở cho việc nghiên cứu, trao đổi, thảo luận. Sau
mỗi buổi học, luôn chủ động trao đổi những nội dung còn vướng mắc với giảng
viên, hoặc bạn bè, tranh thủ tìm hiểu, tham khảo những kiến thức trên thư viện,
lên mạng Internet tìm thêm tài liệu để đào sâu nghiên cứu, mở rộng các vấn đề
mà bài giảng đề cập kết hợp với tài liệu, sách giáo khoa trong giờ tự học... Đối
16
với các môn KHXH&NV, nếu biết tự học tập, tự nghiên cứu thì ai cũng có thể
học giỏi.
1.1.3. Đặc điểm đối tượng đào tạo cán bộ chính trị.
Thứ nhất: Với đối tượng là quân nhân chuyên nghiệp (đã có bằng trung
cấp về chuyên môn kỹ thuật), thi tuyển theo qui chế của nhà trường. Ưu điểm
của đối tượng này có kiến thức về chuyên môn kỹ thuật bậc trung cấp, các tố
chất cần thiết để phát triển thành cán bộ chính trị viên đã được bộc lộ qua thời
kỳ đào tạo trung cấp và quá trình hoạt động thực tiễn quân sự ở các đơn vị, đối
tượng này 100% là Đảng viên có nhận thức và động cơ tốt khi thi vào trường,
trong học tập có ý thức tự giác cao, có những kinh nghiệm nhất định trong thực
tiễn ở trong môi trường quân đội cho nên việc vận dụng các kiến thức
KHXH&NV vào thực tiễn có sự thuận lợi. Tuy nhiên với đối tượng này còn bộc
lộ nhiều điểm yếu trong quá trình tự học, tự nghiên cứu các môn KHXH&NV.
Thứ hai: đối tượng là cán bộ trung đội trưởng, có bằng cử nhân quân sự
cấp phân đội, được tuyển chọn về đào tạo cán bộ chính trị, đặc điểm của đối
tượng này là, đã được trang bị khối lượng kiến thức về cử nhân quân sự cơ bản,
có động cơ phấn đấu, những phẩm chất cần thiết để phát triển và hoàn thành
nhiệm vụ của người cán bộ chính trị viên đã được bộc lộ qua rèn luyện trong
thời kỳ đào tạo cử nhân quân sự và thực tiễn quản lý chỉ huy đơn vị. Đối tượng
này, đã hoàn thành mục tiêu về học vấn và mục tiêu về chức vụ chỉ huy cấp phân
đội theo qui định của bộ quốc phịng, có những kinh nghiệm quản lý chỉ huy,
nên thuận lợi cho việc đào tạo chức vụ chính trị viên, có kinh nghiệm trong học
đại học, có kinh nghiệm nhất định trong tự học, tự nghiên cứu. Có thể nói đây là
đối tượng phù hợp để tạo ra chất lượng và hiệu quả đáp ứng yêu cầu đào tạo
chính trị viên hiện nay. Tuy nhiên đối tượng này chất lượng tự học các mơn
KHXH&NV cũng có những hạn chế nhất định đó là: những đối tượng này trước
kia hầu hết đều học về kiến thức quân sự hoặc kiến thức về khoa học tự nhiên là
chính, cho nên khi vào trường tiếp xúc với các môn KHXH&NV đa phần cịn
nhiều lúng túng, chưa có cách tiếp cận khoa học, chưa có phương pháp học tập
hiệu quả.
17
Như vậy, đối tượng đầu vào cho đào tạo chính trị viên ở Học Viện Hải
Quân hiện nay gồm nhiều nguồn, mỗi nguồn lại có những đặc điểm riêng chi
phối đến q trình đào tạo nói chung, chất lượng tự học các mơn KHXH&NV
nói riêng. Qua các đối tượng trên ta thấy: Việc nâng cao chất lượng tự học các
môn KHXH&NV có những thuận lợi và khó khăn nhất định, cần phải có những
giải pháp tích cực và mang tính đồng bộ.
1.2. Thực trạng chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân
văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở học viện Hải Quân hiện nay.
1.2.1. Những kết quả đã đạt được trong quá trình tự học các mơn
KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân trong
thời gian qua.
Đối với học viên
Xuất phát từ đặc điểm đối tượng đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải
Quân đa phần là những quân nhân có kinh nghiệm trong thực tiễn hoạt động
quân sự, được tuyển chọn hoặc qua tuyển sinh có chất lượng đầu vào khá tốt, có
nhận thức chính trị cao vì vậy đa phần học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học
viện Hải Quân đã nhận thức tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện tại trường, có
động cơ phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành người cán bộ chính trị.
Trong quá trình học tập học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải
Qn đã cơ bản có nhận thức tốt về vị trí, vai trị của việc tự học, tự nghiên cứu;
thấy được việc tự học, tự nghiên cứu là hình thức địi hỏi tính độc lập cao, đặc
biệt là đối với các mơn KHXH&NV, qua đó giúp bản thân củng cố, mở rộng,
đào sâu, hệ thống hóa kiến thức, đồng thời người học bước đầu cũng đã rèn
luyện được kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng và giải
quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra một cách khoa học. Đã chủ động tìm
hiểu những đặc điểm, yêu cầu của mơn học nắm được những thuận lợi, khó khăn
trong q trình học tập, qua đó rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập
kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tâm lí, thể lực cho quá trình học
tập. Việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu của cá nhân cơ bản đã có tính khoa học
18
và đã được triển khai thực hiện khá nghiêm túc, phát huy vai trò chủ thể trong
hoạt động nhận thức, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo.
Học viên bước đầu đã biết độc lập tiếp xúc tài liệu trước khi nghe giảng
và xử lý thông tin sau khi nghe giảng viên giảng bài. Đã tự giác, nỗ lực tự học,
tự rèn, xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, nắm vững mục tiêu, yêu
cầu và nhiệm vụ GD–ĐT, tích cực, chủ động, tìm tịi, lựa chọn cho mình một
phương pháp học tập hợp lý, thường xuyên rút kinh nghiệm, cải tiến phương
pháp tự học của mình cho phù hợp với từng môn học.
Đa số học viên đã tận dụng được thời gian trong việc tự học, chịu khó tìm
tịi, nghiên cứu giáo trình, tài liệu, trên thư viện cũng như trên mạng internet.
Theo kết quả điều tra đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị: Trong giờ tự học,
đồng chí có nghiên cứu giáo trình, tài liệu trên thư viện hay trên các website
khơng? có 80% trả lời thường xuyên, 18% thỉnh thoảng, 2% ít khi, 0% chưa khi
nào. Với kết quả này cho thấy việc tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu của học viên
rất tích cực, tự giác.
Phần đơng học viên đã nắm được những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật của Nhà nước và các kiến thức
KHXH&NV; biết liên hệ, vận dụng có hiệu quả những kiến thức đã được học
vào thực tiễn và cơng tác của mình. Tỷ lệ học viên đạt kết quả học tập khá cao.
Qua khảo sát thực tế kết quả kiểm tra, thi kết thúc các mơn KHXH&NV thì có
100% đạt u cầu, trong đó có 50% - 60% khá giỏi.
Về đội ngũ giảng viên
Trong GD – ĐT luôn được Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện, các cơ quan
chức năng, các khoa giảng viên đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới toàn diện về
nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi dưỡng quá
trình tự học, tự rèn luyện của học viên. Thường xuyên quán triệt mục tiêu, yêu
cầu đào tạo cho học viên. Xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm, ý thức tự giác
học tập, rèn luyện, khắc phục khó khăn, đồn kết giúp đỡ lẫn nhau hồn thành
tốt nhiệm vụ. Tích cực bồi dưỡng phương pháp, kinh nghiệm học tập, tập bài,
luyện tập và thường xuyên rút kinh nghiệm về phương pháp tự học, đánh giá
19
tinh thần, thái độ, trách nhiệm học tập của người học một cách khách quan, do
đó đa số học viên có thái độ học tập đúng đắn, xây dựng ý trí quyết tâm cao, tích
cực học tập, rèn luyện, tổ chức mạn đàm, thảo luận tìm ra những phương pháp
học tập thích hợp hiệu quả với từng mơn học. Học viên đã nắm được kiến thức
và khả năng vận dụng các kiến thức vào trong q trình học tập, cơng tác nỗ lực
hoàn thành tốt nhiệm vụ theo mục tiêu yêu cầu đào tạo đề ra.
Bước đầu đã phát huy được tính độc lập, tự chủ của học viên, chú ý đến
việc hướng dẫn học viên tự học, tự nghiên cứu, phát huy tính dân chủ cơng khai
trong q trình dạy học, tạo điều kiện để học viên tự điều chỉnh để nâng cao chất
lượng học tập, rèn luyện thái độ và phương pháp học tập, tự nghiên cứu một
cách sáng tạo. Đã kết hợp sử dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp theo
từng môn học. Giảng viên chỉ giảng tập trung vào những nội dung cơ bản, gắn
với thực tiễn xã hội của từng môn học, từng ngành học …định hướng cho học
viên tự nghiên cứu giáo trình, các tài liệu tham khảo và tự cập nhật, bổ sung các
thơng tin liên quan.
Ngồi ra trong những năm qua, đội ngũ giảng viên Khoa KHXH&NV đã
không ngừng trau dồi trình độ kiến thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tích cực
nghiên cứu học tập để nâng cao trình độ mọi mặt đủ sức hoàn thành mọi nhiệm
vụ huấn luyện được giao. Nhiều giảng viên đã đạt học vị tiến sỹ, thạc sỹ, có
năng lực thực sự trong cơng tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy, đủ khả năng
đảm nhiệm tốt nhiệm vụ giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học, đây là cơ sở, là
tiềm lực đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giảng dạy các môn KHXH&NV
cho các đối tượng học viên đáp ứng yêu cầu đào tạo chính trị viên của nhà
trường
Về tổ chức quản lý học viên
Việc quản lý, duy trì kỷ luật kết hợp với quản lý chất lượng tự học của
học viên ở Học Viện Hải Quân đã làm cho q trình đào tạo trở lên khép kín từ
khâu trang bị kiến thức đến khâu tổ chức cuộc sống. Hệ thống nơi ăn, ở tập
trung tuân theo chế độ, điều lệnh, điều lệ của Quân Đội, có hệ thống chỉ huy, hệ
thống Đảng, các tổ chức quần chúng đã giúp cho việc quản lý chặt chẽ không
20
chỉ chất lượng tự học mà cả chất lượng hoạt động thưc tiễn, không chỉ năng lực
mà cả phẩm chất chính trị tư tưởng. Cũng thơng qua đó mà làm cho mọi học
viên trong một tập thể có cùng chung nhiều ý tưởng, có sự gắn bó, đồn kết với
nhau trên tình u thương đồng chí, đồng đội, ln có tinh thần giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ trong học tập, qua đây tạo ra được môi trường giáo dục tốt, tạo ra
khơng khí thi đua sơi nổi giữa các cá nhân với nhau trong việc tự học nắm bắt
kiến thức.
Hệ thống chỉ huy các cấp trong Học Viện Hải Quân được tổ chức một
cách khá chặt chẽ, đã nắm bắt, định hướng một cách kịp thời tư tưởng, hành
động của học viên, duy trì nghiêm túc các chế độ trong ngày, đảm bảo cho học
viên có thể phát huy khả năng của cá nhân trong việc tự học, tự nghiên cứu của
mình, đã quản lý tốt thời gian, chất lượng học tập của học viên trong các giờ tự
ôn, tạo điều kiện thuận lợi nhất môi trường học tập cho học viên. Vì vậy chất
lượng tự học, tự nghiên cứu của học viên được nâng cao.
Cán bộ quản lý đã tổ chức bồi dưỡng, giúp đỡ cho học viên về phương
pháp tự học, hàng tháng đã có những buổi sinh hoạt chuyên đề nâng cao chất
lượng tự học cho học viên, việc tổ chức rút kinh nghiệm học tập tháng cho từng
lớp đã dần đi vào nề nếp. Kết quả cho thấy qua việc bồi dưỡng, giúp đỡ của cán
bộ quản lý phần đơng học viên đã dần hình thành được kỹ năng tiếp cận kiến
thức, có những phương pháp học tập phù hợp với khả năng của mình.
1.2.2 Những hạn chế trong việc tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân hiện
nay
Đối với học viên
Hiện nay, thiếu sót trong phương pháp tự học của học viên thể hiện ở
nhiều mặt, học thiếu hệ thống về kiến thức xã hội do đặc điểm đối tượng đào tạo
trước đây là những nhân viên chuyên môn kỹ thuật, họ được đào tạo qua trường
trung cấp kỹ thuật, học tập các môn chuyên ngành kỹ thuật là chính, họ ít quan
tâm đến các mơn KHXH&NV, vì vậy mà cách học và cách tiếp cận một vấn đề
đôi khi chưa khoa học, trong khi học có khi chỉ căn cứ vào nguồn tài liệu là sách
21
giáo khoa ít tham khảo tài liệu có liên quan, chọn nội dung học để đối phó với
thi cử, học thuộc lịng ít suy nghĩ, đặt lại vấn đề. Tất cả cách tự học không khoa
học trên dẫn tới hậu quả là kiến thức không vững bền và điều quan trọng là
khơng rèn cho người học sự suy luận, tính lôgic về nội dung kiến thức.
Độ tuổi của học viên đào tạo cán bộ chính trị viên tàu cũng ảnh hưởng
phần nào đến quá trình học tập, phần lớn các học viên đều là những quân nhân
chuyên nghiệp đã học qua các trường trung cấp kỹ thuật, độ tuổi trung bình
khoảng 29 tuổi, có những khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức bậc đại học và
kiến thức về các môn KHXH&NV, điều này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng tự
học, tự nghiên cứu của học viên. Theo kết quả điều tra: Theo đồng chí chất
lượng tự học các mơn KHXH&NV của học viên hiện nay như thế nào? có 18%
đạt hiệu quả, 72% bình thường, 10% chưa hiệu quả
Việc nắm kiến thức các môn KHXH&NV, nhất là hiểu bản chất, khả năng
phân tích khái quát, tổng hợp vấn đề… ở học viên còn chưa cao; khả năng liên
hệ, vận dụng, gắn nội dung lý luận với thực tiễn và nghề nghiệp của một số học
viên còn hạn chế. Đặc biệt, vẫn còn tồn tại một số học viên lười học, lười rèn
luyện.
Thực trạng chất lượng tự học các môn KHXH&NV cuả học viên chưa cao
đó là học viên chưa tận dụng hết thời gian trong giờ tự học cũng như trong thời
gian nhàn rỗi, chưa lập được kế hoạch tự học một cách khoa học. Mặt khác đặc
điểm của các môn KHXH&NV là phải đọc nhiều, nghiên cứu nhiều tài liệu,
giành nhiều thời gian tự học nhưng người học cịn chủ quan, ít đào sâu suy nghĩ.
Kết quả điều tra cho thấy: Trong những ngày nghỉ giờ nghỉ đồng chí có thường
hay tự nghiên cứu các mơn KHXH&NV khơng? có 50% trả lời ít khi, 25% thỉnh
thoảng, 20% thường xuyên, 5% chưa khi nào. Kết quả này cho thấy, tuy học
viên đã có ý thức tự giác trong việc đầu tư thời gian cho tự học, nhưng việc tận
dụng thời gian cho việc tự học chưa nhiều.
Học viên chưa có phương pháp học phù hợp, chịu ảnh hưởng của phương
pháp học truyền thống là “học thuộc lịng”; chưa có thái độ và tâm lí học tập
đúng đắn nên khơng tích cực tham gia vào bài giảng của giáo viên, chưa đào sâu
22
nghiên cứu tài liệu theo yêu cầu của giảng viên đưa ra; chưa có thói quen hoặc
lười làm việc, đóng góp vào bài giảng của giảng viên. Qua điều tra: học viên có
thường xuyên phát biểu đóng góp ý kiến, xây dựng bài trong giờ học các môn
KHXH&NV không? Kết quả 20% thường xuyên, 32% thỉnh thoảng, 40% ít khi,
8% chưa khi nào. Trong quá trình học, phần lớn học viên còn lệ thuộc vào bài
giảng của giảng viên, chưa tích cực nghiên cứu giáo trình, tài liệu. Do đó trong
giờ thảo luận và thực hành học viên ít tranh luận làm sáng tỏ những vấn đề thực
tiễn đặt ra, hoặc ý kiến tranh luận chưa sâu, cách lập luận giải quyết vấn đề chưa
chặt chẽ, thiếu tính lơgic khoa học.
Trong quá trình đào tạo, phần lớn học viên thường ở vị trí khách thể, thụ
động tiếp thu kiến thức và tìm cách tái hiện những điều giảng viên đã giảng trên
lớp. Cách thức học tập này đã trở thành một thói quen của khơng ít học viên.
Thực trạng trên dẫn đến học viên nắm thực chất vấn đề còn hạn chế, chưa chịu
khó đào sâu suy nghĩ, tiếp thu kiến thức thụ động, thường rập khuôn một chiều
theo thầy và chấp nhận những giải pháp quen thuộc.
Đối với giảng viên
Trong những năm qua, Học viện Hải Quân đã coi trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giảng viên nên chất lượng dạy học ngày càng một tăng lên.
Tuy nhiên, phương pháp, quy trình giới thiệu của giảng viên có lúc chưa kích
thích được tính say mê, hứng thú, sáng tạo của người học. Việc sử dụng phương
pháp giảng dạy để phù hợp với từng môn học, từng đối tượng là một vấn đề đặt
ra, đối với phương pháp thuyết trình thì giảng viên trình bày nội dung cần truyền
đạt cho học viên bằng cách nêu vấn đề theo nội dung u cầu, sau đó phân tích,
giải thích, lấy ví dụ dẫn chứng, chứng minh những nội dung cần truyền đạt cho
học viên lĩnh hội. Quá trình này diễn ra theo một chiều thầy giảng, trò nghe và
ghi chép, sau đó về học bài. Trong q trình giảng rất ít có sự phản hồi thơng tin
ngược chiều của học viên. Sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy có
nhiều ưu điểm: trong một thời gian ngắn giảng viên có thể chuyển tải được khối
lượng thơng tin nhiều cho học viên. Nhưng nếu chỉ sử dụng một phương pháp
này trong giảng bài sẽ làm cho học viên trở thành đối tượng thụ động, không
23
phát huy được tính chủ động sáng tạo, đơi khi gây ức chế về mặt tâm lý, học
viên cảm thấy mệt mỏi và không tập trung vào nội dung của bài giảng. Theo một
kết quả điều tra, việc sử dụng phương pháp thuyết trình có 35% chú ý ghi, 18%
chú ý nghe, 2% lơ đãng, 45% chú ý lắng nghe và ghi chép cẩn thận. Như vậy,
chất lượng hiệu quả bài giảng chưa thực sự cao, học viên còn thụ động, giảng
viên dạy cái gì học cái đó.
Trong những năm qua việc đổi mới phương pháp giảng dạy đặt ra nhiều
vấn đề, trong đó có việc bồi dưỡng, định hướng, giúp đỡ học viên về phương
pháp tự học, tuy giảng viên đã có những định hướng cho học viên về cách tiếp
cận vấn đề phù hợp với từng nội dung mơn học, nhưng việc bồi dưỡng, định
hướng đó vẫn chưa được thường xuyên, liên tục.
Trong kiểm tra, thi đánh giá kết quả vẫn cịn có bất cập cần phải cải tiến
như: ra đề thi có học phần cịn đơn giản, chưa địi hỏi tính suy luận và sáng tạo
của người học; đội ngũ cán, bộ giảng viên có lúc chưa thống nhất quan điểm
đánh giá, còn chịu tác động yếu tố khác; kết quả thi có bài cịn chưa phản ánh
đúng, chính xác chất lượng của người học. Mặt khác, ở một số học viên chưa có
nhận thức đúng đắn về mục đích, động cơ, trách nhiệm trong học tập, cịn có
biểu hiện dựa dẫm, ỉ lại, ngại học, ngại rèn (học đối phó qui chế, chưa có ý thức
học để làm việc và để học tiếp trong suốt đời quân ngũ của mình).
Đối với các tổ chức, đội ngũ cán bộ quản lý
Hệ thống chỉ huy các cấp tuy đã có sự kiểm tra sát sao trong việc duy trì
học viên trong các giờ tự ơn, tuy nhiên việc quản lý hiệu quả còn chưa cao; hệ
thống tổ chức cán bộ quản lý ở các Hệ, tiểu đoàn học viên ở Học Viện Hải Quân
còn nổi nên những bất cập, cán bộ quản lý trực tiếp (lớp trưởng) là những học
viên kiêm nhiệm, kinh nghiệm về quản lý chưa nhiều, việc duy trì các chế độ
cịn nhiều lỏng lẻo, cán bộ lớp còn ngại nhắc nhở học viên trong các giờ tự ơn,
việc duy trì thời gian tự ơn có lúc cịn chưa nghiêm túc, chưa có phương pháp tổ
chức trong việc tự học của học viên, cán bộ cấp trên có lúc chưa kiểm tra kịp
thời việc tự học của học viên, việc bồi dưỡng phương pháp tự học cho học viên
24
còn chưa thường xuyên… tất cả những nguyên nhân trên đều ảnh hưởng rất
nhiều đến chất lượng tự học của học viên.
Nguyên nhân
Ưu điểm
Một là, học viên cơ bản đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí, vai trị của
việc tự học, tự nghiên cứu các mơn KHXH&NV, đã có tính tự giác trong tự học,
tự rèn, xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, trau dồi kiến thức về mọi
mặt đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ, chức trách của người cán bộ chính trị.
Hai là, trong q trình GD–ĐT được sự quan tâm thường xuyên của Đảng
ủy, ban giám đốc Học viện, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các phòng, khoa giáo
viên đã quan tâm đến việc đổi mới toàn diện về nội dung chương trình, phương
pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi dưỡng để nâng cao chất lượng tự học, tự
rèn luyện của học viên.
Ba là, đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm trong quản lý học viên, có
trình độ, năng lực cơng tác tốt, duy trì nghiêm các chế độ, có sự kiểm tra, đơn
đốc, nhắc nhở và bồi dưỡng học viên nâng cao chất lượng tự học, xây dựng
được môi trường học tập, rèn luyện tốt đảm bảo được tính định hướng trong q
trình học tập, rèn luyện của học viên.
Nhược điểm
Có thể nhận định, việc chất lượng tự học các mơn KHXH&NV vẫn cịn
những bất cập nêu trên là do:
Thứ nhất: Phương pháp học tập của học viên tuy có nhiều tiến bộ, song
nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Học viên các lớp chun mơn kỹ
thuật đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân đã qua đào tạo ở các trường
trung cấp kỹ thuật trong toàn quân và qua ít nhất 3 năm cơng tác thực tiễn tại đơn
vị, họ đã có trình độ nhận thức nhất định đó là điều kiện thuận lợi trong q trình
học tập, tuy nhiên việc nắm bắt về phương pháp học ở bậc đại học cịn hạn chế.
Thứ hai: Cơng tác quản lý học viên trong giờ tự học cũng còn những bất
cập, sự kiểm tra của cán bộ quản lý có lúc chưa được thường xuyên.
25
Ba là: Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và các tệ nạn xã hội đã dẫn
đến một số học viên có nhận thức chưa đúng về vị trí, vai trị của việc học tập
các mơn KHXH&NV, tư tưởng ngại học và vi phạm kỷ luật trong học tập, thi cử
là điều khó tránh khỏi.
Bốn là: Trong những năm gần đây, số lượng môn học tăng, trong khi đó
đội ngũ giảng viên lại thiếu, cường độ giảng dạy lớn. Thời gian qua mặc dù nhà
trường cũng đã có sự đổi mới về phương pháp học tập theo phương pháp mới,
đã có nhiều hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học như dạy học nhóm,
xêmina… tuy nhiên trong q trình thực tế cịn tồn tại nhiều bất cập. Một bộ
phận giảng viên có phần e ngại khi đổi mới, tìm kiếm phương pháp giảng dạy
theo hướng hiện đại.
1.2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tự học.
Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, tri thức có vai trị thúc đẩy
sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia đều dựa trên
nền tảng tri thức, muốn có tri thức thì phải phát triển giáo dục. Như Bác Hồ
thường nói “Non sơng Việt Nam có vẻ vang, có sánh vai cùng các cường quốc
năm châu hay khơng? Chính là nhờ phần lớn công học tập ở các cháu”, dù cho
giáo dục khơng phải là phương thuốc thần kì có thể thực hiện được mọi mơ ước
song dù sao nó cũng là một con đường hơn mọi con đường khác huớng vào phục
vụ phát triển toàn diện con người. Ý thức được tầm quan trọng đó của tri thức
giáo dục, nước ta coi giáo dục và đào tạo là quốc sách, Đảng và nhà nước ta
đang nỗ lực xây dựng một xã hội học tập với phương hướng, con đường thực
hiện là kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và tự học. Trong đó tự học để trưởng
thành là vô cùng quan trọng.
Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội tự học là
tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học khơng bao giờ là muộn”. Quan niệm
tự học suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa khố mở cửa đi vào
thế kỉ 21 - thế giới của nền kinh tế tri thức. Nó đáp ứng những thách thức của
một thế giới đang thay đổi nhanh chóng trên mọi lĩnh vực. Xuất phát từ sự phát
triến của tri thức không bao giờ dừng lại mà luôn phát triển Trong xã hội tự học
26
người ta học vì: học để biết, học để làm người, học để làm việc, học để chung
sống – những động cơ này luôn thôi thúc con người ta phải ln học tập để đạt
đến chân- thiện-mỹ.
V.I Lênin nói : "Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm
giầu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả kho tàng tri thức mà nhân loại đã
tạo ra "4 muốn hiểu biết được tất cả kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra thì
trước tiên con người phải biết tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực
trí tuệ của mình để tìm tịi học hỏi, tức là phải có khả năng tự học. Tự học là nói
đến nội lực của người học, chất lượng của học tuỳ thuộc chủ yếu vào nội lực, dù
điều kiện tác động từ bên ngòai đối với họat động học tốt đến mấy, nhưng nếu
con người khơng có đủ nỗ lực bản thân để tự học, tự biến đổi mình đến mức cần
thiết thì khơng thể nào đạt được mục tiêu mong muốn.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên có vị trí nhất định
trong bộ máy nhà nước, do đó phải khơng ngừng học tập để nâng cao trình độ
hiểu biết mọi mặt, có tư duy độc lập và sáng tạo, cải tiến phương pháp làm việc,
nâng cao chất lượng công tác. Theo Người, vấn đề học tập là “suốt đời” chứ
không phải chỉ là lớp học, khố học hoặc mang tính “thời vụ”, rồi sau đó lại
“đâu vào đấy”. Người chống thói qua loa đại khái, lười học, lười suy nghĩ dẫn
đến tình trạng khi giải quyết cơng việc thì “được chăng hay chớ”, “gặp đâu làm
đấy”, chất lượng công việc thấp, khơng đáp ứng u cầu nhiệm vụ. Do đó,
Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “Ham học tập để nâng cao trình độ của
mình”5 và coi đây là một tiêu chuẩn, một giá trị đạo đức của người cán bộ, đảng
viên, từ đó, Người vạch rõ phương hướng, nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên là
không được sao nhãng việc học tập, phải tu dưỡng không ngừng, đối với người
cán bộ “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. 6 Người đặt lên
hàng đầu “lấy tự học làm cốt”7, cán bộ, đảng viên phải biết “tự động học tập”,
phải xác định tư tưởng cho đúng, học tập phải trở thành nhu cầu, thói quen, hành
vi hàng ngày của cán bộ, đảng viên. Cán bộ nào lười học, lười suy nghĩ, không
thường xuyên tiếp nhận, cập nhật thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là
một biểu hiện suy thoái về đạo đức.
27