Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

giáo án dạy thêm ngữ văn 7 (phần tập làm văn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.58 KB, 120 trang )

PHẦN: TẬP LÀM VĂN
Tài liệu gồm 2 phần
(Phần I, Lý thuyết. Phần II là các đề và dàn ý chi tiết)
I) LÍ THUYẾT
A – Để làm tốt bài văn nghị luận
I – Đặc điểm và yêu cầu của văn nghị luận
Trong đời sống, người ta luôn phải bày tỏ ý kiến của mình về các hiện tượng
tự nhiên về các hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh. Một cuộc thảo
luận tổ, một cuộc họp, một vấn đề trong cuộc sống, một chính sách mới, một tác
phẩm nghệ thuật, ... đều đòi hỏi mọi người bày tỏ thái độ của mình. Khác với lối
bày tỏ bằng cảm xúc trong văn biểu cảm, việc bày tỏ ý kiến trong văn nghị luận
nhằm giải thích, chứng minh, thuyết phục người nghe, người đọc một tư tưởng,
một quan điểm nào đó
Muốn cho người đọc người nghe cũng hiểu như mình, đồng tình và ủng hộ quan
điểm của mình, người viết văn nghị luận phải có những luận điểm rõ ràng, có lí
lẽ đúng đắn, chặt chẽ rút từ sách vở, từ đời sống và có những dẫn chứng đáng tin
cậy, thuyết phục
Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận để dẫn đến
luận điểm
Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới
hình thức khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán.
Luận điểm là linh hồn của bài viết. Luận điểm đúng đắn, chân thật, đáp ứng nhu
cầu thực tế thì mới có sức thuyết thục. Ví dụ trong bài “Chống nạn thất học”,
luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh là: Phải nâng cao dân trí, muốn nâng cao
dân trí thì phải chống nạn thất học, cụ thể là mỗi người Việt Nam phải biết đọc,
biết viết. Trong bài Sự giàu đẹp của Tiếng Việt, luận điểm chính là: Tiếng Việt
của chúng ta là một thứ tiếng vừa giàu, vừa đẹp. Đó là quan niệm, là cách đánh
giá của nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai
Luận điểm mà người viết nêu ra có tính thuyết phục phải có hai yếu tố quan
trọng. Đó là phải được đảm bảo bẳng luận cứ chắc chắn và lập luận chặt chẽ.



Luận cứ là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cở sở cho luận điểm. Trong bài “Tinh thần
yêu nước” của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu luận điểm: “Dân ta có
một long nồng nàn yêu nước”. Luận điểm này được đảm bảo bằng luận cứ rút từ
sự thực lịch sử từ các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung,... được đảm bảo bởi lận cứ lấy từ cuộc kháng chiến chống Pháp ở
mọi miền, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp
Lập luận là cách đưa ra lí lẽ, cách xếp đặt các luận cứ để dẫn đến kết luận nêu
trong luận điểm. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài “Đức tính giản dị của
Bác Hồ” đã nêu lên luận điểm: “Bác là nhà cách mạng có sự nhất quán giữa đời
hoạt động chính trị lay chuyển trời đất với đời sống vô cùng giản dị và khiêm
tốn”. Để chứng minh cho luận điểm này, tác giả đã nêu các luận cứ và trình bày
theo trình tự: Bác giản dị trong bữa cơm, đồ dùng, cái nhà, lối sống. Mỗi luận cứ
đều có các dẫn chứng cụ thể có thể kiểm chứng được dễ dàng
II – Cách làm bài văn nghị luận
1, Quy trình làm bài văn nghị luận
Bài văn nghị luận cũng được làm theo quy trình chung của một bài tập làm văn
gồm bốn bước: tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, tạo lập văn bản (viết bài và sửa
bài). Muốn viết được bài văn nghị luận thành công thì phải tìm hiểu đề và tìm
được các ý cho đề bài đó. Sau khi tìm được ý (theo cách lập ý thường gặp dưới
đây) sẽ lập dàn ý và viết bài. Trong khi viết có thể bổ sung, thêm bớt ý cho dàn
bài hoàn chỉnh. Bước cuối cùng là sửa lại bài viết, nhất là sửa các lỗi chính tả,
lỗi ngữ pháp.
2, Cách lập ý cho bài văn nghị luận
Muốn lập ý cho bài văn nghị luận, đầu tiên cần phải đọc kĩ đề bài để xác định
luận điểm. Người viết cần xác định đúng vấn đề, phạm vi, tính chất của nó. Luận
điểm chính địi hỏi cần bàn bạc, cho ý kiến là gì? Tùy theo đề bài thuộc loại nào
(giải thích, ca ngợi, khuyên bảo, nhắn nhủ, suy nghĩ, bàn luận, tranh luận, phản
bác, ...) mà xác định luận điểm chính cho phù hợp
Tiếp theo là tìm luận cứ cho luận điểm. Thơng thường muốn tìm luận cứ phải

đưa ra câu hỏi: Vấn đề cần bàn bạc là gì? Định nghĩa như thế nào? Vì sao có


nhận xét như vậy? Điều đó có lợi hay có hại, lợi hại cụ thể như thế nào? Các lí lẽ
và dẫn chứng nào có thể phục vụ cho việc thuyết phục mọi người?
Sau khi tìm các luận cứ, phải xây dựng lập luận, tức là phải tổ chức, sắp xếp các
lí lẽ, luận cứ theo một trình tự nhất định để luận điểm của người viết có sức
thuyết phục.
B – Những kiểu bài thường gặp
Thật ra, đây là các thao tác lập luận chính khi làm bài văn nghị luận. Một bài
văn nghị luận có tính thuyết phục thì người viết bao giờ cũng kết hợp các thao
tác như giải thích, chứng minh, bình luận,... Tuy nhiên để phù hợp với việc rèn
luyện các thao tác, chúng ta tạm quy ước thành các kiểu bài làm văn nghị luận.
Trong chương trình Ngữ văn lớp 7 có ba kiểu bài phối hợp hai hình thức là lập
luận giải thích kết hợp chứng minh
I – Kiểu bài thứ nhất: Lập luận chứng minh
1, Lưu ý chung
a, Chứng minh trong văn nghị luận là phép lập luận dùng các lí lẽ, chứng cứ xác
thực, đáng tin cậy, được mọi người thừa nhận để chứng tỏ một luận điểm nào đó
(một ý kiến, một nhận định, một đánh giá,...) là đúng hay sai, có lợi hay có hại,
đáng tin hay khơng đáng tin
Các lí lẽ trong khi chứng minh được sắp xếp, trình bày theo một hệ thống nhất
định. Có thể từ xưa đến nay , từ xa đến gần, từ rộng đến hẹp, từ khái quát đến cụ
thể (và ngược lại, tùy theo dụng ý của người nói hoặc viết). Trong bài Đừng sợ
vấp ngã (Ngữ văn 7, tập hai, trang 41), để thuyết phục người đọc không sợ vấp
ngã, tác giả đã lập luận rằng ai cũng từng vấp ngã, vấp ngã nhiều lần đến nỗi
khơng nhớ nữa. Nhưng có sao đâu. Để tăng tính thuyết phục về khơng sợ vấp
ngã, người viết đã đưa ra năm dẫn chứng cụ thể về những người thành công, nổi
tiếng ở các châu lục khác nhau, thuộc các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật khác
nhau. Vấp ngã khơng chỉ một lần, mà có khi còn “nhiều lần” (Oan Đi – xnay),

tới năm lần (Hen – ri Pho). Thế nhưng khơng vì vấp ngã mà những đó chùn
bước, trái lại họ đạt đến thành cơng rực rỡ. Kết luận và cũng là luận điểm chính
của bài là: Không sợ vấp ngã, không sợ thất bại


Các dẫn chứng đưa ra trong phép chứng minh (số liệu, sự kiện, hiện tượng, danh
ngôn, thơ văn,... ) cần phải có độ tin cậy, có tính chính xác, có tính chất tiêu
biểu, tính chất tồn diện. Tác giả Phạm Văn Đồng chứng minh Tiếng Việt giàu
trên cơ sở đời sống tư tưởng và tình cảm của ta giàu, trên cơ sở kinh nghiệm đấu
tranh lâu đời và phong phú của dân tộc, trên cơ sở kinh nghiệm sống giàu có của
nhân dân ta trong bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
b, Muốn làm bài văn nghị luận chứng minh phải nắm vững vấn đề cần chứng
minh. Đó là vấn đề gì? Phạm vi của nó đến đâu? Các dẫn chứng có thể tìm ở
nguồn nào? Vấn đề và yêu cầu chứng minh nằm ngay trong đề bài. Bởi vậy
khâu tìm hiểu đề bài rất quan trọng, quyết định phương hướng đúng đắn cho bài
viết hay nói
Sau khi tìm hiểu, xác định vấn đề chứng minh, cần tìm các dẫn chứng, lí lẽ. Có
thể lấy từ trong đời sống, trong lịch sử, trong sách vở. Làm bài chứng minh một
vấn đề đạo đức, một vấn đề đạo đức, một vấn đề xã hội chủ yếu cần tìm dẫn
chứng trong đời sống. Làm bài chứng minh một nhận định về vấn đề văn học
hay tác phẩm văn học chủ yếu lấy dẫn chứng trong tác phẩm. Và cũng có vấn đề
địi hỏi lấy dẫn chứng kết hợp từ nhiều nguồn ấy với nhau
Dẫn chứng phải đảm bảo tính đúng đắn, phải chính xác, căn cứ trên sách vở và
những nguồn thông tin đáng tin cậy
Vấn đề quan trọng khác là cách lập luận, trình bày dẫn chứng sao cho tập trung,
chặt chẽ. Điều này đòi hỏi nghệ thuật lập luận của người viết. Cách sắp xếp dẫn
chứng mạch lạc, lớp lang sẽ đạt hiểu quả chứng minh cao. Ngược lại, nếu không
biết sắp xếp, các dẫn chứng sẽ lộn xộn, rời rạc, không thể tập trung làm rõ vấn
đề cần chứng minh
2, Hướng dẫn tìm hiểu đề, lập dàn ý, tạo lập văn bản

Dàn bài chung
Mở bài:
Giới thiệu vấn đề cần chứng minh: một nhận định, một ý kiến, một kinh nghiệm,
một mệnh đề (xuất xứ từ đâu, ai nói, ai nhận định, ai viết, ...)
Thân bài:


Lần lượt chứng minh các vấn đề
- Vấn đề thứ nhất
Lập luận, dẫn dắt, đưa ra các dẫn chứng:
+ Dẫn chứng 1
+ Dẫn chứng 2
- Vấn đề thứ hai
Lập luận, dẫn dắt, đưa ra các dẫn chứng:
+ Dẫn chứng 1
+ Dẫn chứng 2
+ Dẫn chứng 3
Tổng hợp lại những vấn đề đã chứng minh, nhấn mạnh tính chặt chẽ, rõ ràng,
không thể bác bỏ được
Kết bài:
- Nhắc lại những điểm chính đã làm sáng tỏ
- Khẳng định lại một lần nữa vấn đề đã chứng minh từ nhiều góc độ khác
nhau
II – Kiểu bài thứ 2: Lập luận giải thích
1, Lưu ý chung
a, Giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng,
đạo lí, phẩm chất, quan hệ, ... cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức,
trí tuệ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho con người
Người ta thường giải thích bằng cách: nêu định nghĩa, kể ra các biểu hiện, so
sánh, đối chiếu với các hiện tượng khác, chỉ ra các mặt lợi, hại, nguyên nhân,

hậu quả của hiện tượng, vấn đề được giải thích. Ví dụ giải thích về lịng
khiêm tốn có thể được coi là một bản tính căn bản cho con người; liệt kê các
biểu hiện của khiêm tốn; Chỉ ra cái lợi của khiêm tốn, cái hại của khơng
khiêm tốn; Nêu rõ lí do cần phải khiêm tốn.


Khi giải thích, lí lẽ phải rõ ràng, dẽ hiểu và chặt chẽ thì mới có sức thuyết
phục. Tất nhiên, trong một chừng mực, để đảm bảo cho lí lẽ có sức thuyết
phục, người giải thích cũng cần nêu dẫn chứng, nhưng phần chứng minh này
chỉ có mục đích làm sáng tỏ lí lẽ mà thơi.
b) Giải thích một quan niệm, một câu danh ngôn, một nhận định, nội dung
một câu ca dao, tục ngữ đòi hỏi phải hiểu rõ vấn đề cần giải thích chứa đựng
trong đó.
Người viết khơng chỉ đưa ra cách hiểu của riêng mình mà cần phải đưa ra
cách hiểu chung nhất, phổ biến nhất về vấn đề đó.
Để làm rõ vấn đề, người viết căn cứ vào yêu cầu của đề để tập hợp lí lẽ, sắp
xếp lí lẽ. Vận dụng các phương pháp giải thích một cách thích hợp( định
nghĩa, diễn giải, liệt kê, nêu ví dụ, đối sánh,..) để làm sáng tỏ vấn đề một cách
tồn diện.
Trong q trình giải thích, có khi cần lấy một vài dẫn chứng để chứng minh
cho lập luận, dẫn giải. Nhưng cần chú ý không lấy dẫn chứng tràn lan và
khơng biến việc giải thích thành việc chứng minh.
Với những vấn đề khó nên đưa ra nhận định ở mức cần thiết không to tát,
cứng nhắc và có thể giới thiệu cịn có những cách hiểu khác nữa, nhưng cần
tập trung vào cách hiểu được trình bày.
2, Hướng dẫn tìm hiểu đề, lập dàn ý, tạo lập văn bản.
Dàn bài chung:
a) Mở bài
- Giới thiệu vấn đề cần giải thích: một nhận xét, một đánh giá, một câu tục
ngữ, bài ca dao…

- Nêu phương hướng, phạm vi cần giải thích: những từ ngữ nào , nội dung
gì…
b) Thân bài
- giải thích lần lượt các nội dung đã định hướng ở phần mở bài


- Lí lẽ của người giải thích
- Nội dung của những vấn đề cần giải thích( định nghĩa, nghĩa đen, nghĩa
bóng, phạm vi tác động..)
- Cách hiểu đúng đắn, tồn diện đối với vấn đề, căn cứ vào điều kiện lịch sử,
cụ thể.
c) Kết bài
- Nhấn mạnh cách hiểu đúng, khơng thể bác bỏ hay xun tạc.
- Cũng có thể liên hệ với thực tế hay rút ra bài học cho bản thân.
III- Kiểu bài thứ 3- Lập luận giải thích, kết hợp với chứng minh
* Lưu ý chung
Đây là kiểu bài nghị luận hỗn hợp, yêu cầu kết hợp cả hai phương thức lập
luận giải thích và chứng minh. Yêu cầu kĩ năng của loại bài này cao hơn loại
giải thích và chứng minh biệt lập.
Cách làm như là đối với việc chứng minh và giải thích đã nêu bên trên. Điểm
khác biệt là kiểu bài này phải sử dụng giải thích để làm sáng tỏ vấn đề, sau đó
chứng minh tính chất của vấn đề hoặc ngược lại lần lượt giải thích hoặc
chứng minh. Tỉ lệ vận dụng cả hai kiểu lập luận tùy theo mức độ yêu cầu của
đề bài.
Có ba kiểu kết hợp chính thường gặp là:
- Giải thích vấn đề nêu ra. Sau đó chứng minh vấn đề đó bằng dẫn chứng
trong lịch sử, trong văn học và trong đời sống.
- Chứng minh vấn đề. Sau đó dùng lí lẽ giải thích để làm sáng tỏ thêm điều
đã chứng minh.
- Lần lượt giải thích, chứng minh vấn đề xen kẽ nhau. Nêu lí lẽ, dẫn chứng,

lập luận như yêu cầu của hai kiểu: lập luận chứng minh và lập luận giải thích.
Tỉ lệ của phần giải thích, chứng minh tùy theo yêu cầu cụ thể của từng đề bài.
Điều khó nhất là làm thế nào để phần giải thích và chứng minh gắn bó mật


thiết, thống nhất trong một bài viết, chứ không phải là ghép hai phần đó vào
nhau tạo ra văn bản rời rạc.

C) HỆ THỐNG CÁC CHÙM ĐỀ CƠ BẢN SAU:
Chùm đề 1: Tình u thương
Chùm đề 2: Lịng biết ơn
Chùm đề 3: Ý chí nghị lực
Chùm đề 4: Học tập, sách
Chùm đề 5: Đồn kết
Chùm đề 6: Thiên nhiên, mơi trường
Chùm đề 7: Ứng xử, giao tiếp
Chùm đề 8: Một số đề khác
Chùm đề 9: Viết đoạn văn
D) DÀN Ý, BÀI VIẾT THAM KHẢO CÁC CHÙM ĐỀ CƠ BẢN :
Chùm đề 1: Tình yêu thương
ĐỀ 1:

Nhiễu điểu phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng

Lập dàn ý:
1) Mở bài
- Yêu thương con người là truyền thống quí báu của cha ông ta từ xưa đến nay
- Truyền thống ấy đã được đúc kết trong câu ca dao:
Nhiễu điểu phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng
2. Thân bài


* Trước hết, ta đi tìm hiểu nội dung, ý nghĩa câu ca dao:
- Nhiễu điều là tấm vải lụa màu đỏ, phủ lên giá gương, giúp gương không bị bụi
bám bẩn, màu đỏ được sáng trong.
- “Giá gương” là giá đỡ trước gương
-> Con người phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau
* Vì sao vậy?
- Vì yêu thương con người là truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Nhờ
có tình u thương mà mối quan hệ giữa người với người trở nên tốt đẹp hơn.
Con người có nghị lực vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
* Thực tế cuộc sống đã chứng minh:
- Trong gia đình con cháu kính trọng ơng bà, cha mẹ, anh chị em yêu thương
nhau
- Ngoài xã hội: yêu thương giúp đỡ những người có hồn cảnh khó khăn, hoạn
nạn( Ví dụ: quyên góp, ủng hộ đồng bào vùng lũ lụt, hạn hán)
- Trong trường lớp( quyên góp sách vở giúp đỡ những bạn học sinh nghèo)
- Một câu tục ngữ có nội dung tương tự: “ Lá lành đùm lá rách”
* Là một học sinh em phải yêu thương gia đình, giúp đỡ những người gặp khó
khăn, hoạn nạn, chia sẻ giúp đỡ những bạn học sinh trong trường, lớp có hồn
cảnh khó khăn.
3, Kết bài
u thương con người là truyền thống q báu của ơng cha ta. Mỗi chúng ta cần
duy trì điều đó.
** Bài viết tham khảo:
u thương con người là truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ta từ xưa
đến nay. Truyền thống ấy đã đi vào những cau ca dao, tục ngữ ngắn gọn, nhưng
đầy ý nghĩa. Một trong số đó là:

Nhiễu điểu phủ lấy giá gương


Người trong một nước phải thương nhau cùng
Trước hết, ta đi tìm hiểu ý nghĩa câu ca dao. “ Nhiễu điều” là tấm lụa đỏ quý
phủ lên giá gương, khỏi bị bụi bẩn, giúp gương luôn trắng sáng mãi. “ Giá
gương” là giá đỡ chiếc gương nói chung, vật này nâng đỡ, che chở cho nhau. Đó
là nghĩa đen. Từ hai hình ảnh ẩn dụ trên, câu ca dao muốn đề cập đến ý nghãi
sâu xa hơn. Cũng giống như tấm lụa quý, biết chịu thiệt thòi bảo vệ cho tấm
gương, con người phải biết yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
Vì sao vậy? Bởi đây là truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam.
Nhờ có tình thương mà quan hệ giữa người với người trở nên tốt đẹp hơn, xã hội
trở nên văn minh hơn, con người có nghị lực để vượt qua mọi khó khăn thử
thách.
Thật vậy, thực tế đã chứng minh khá rõ nét về điều đó. Trong mỗi gia đình, ta
khơng chỉ u bản thân chúng ta mà cịn kính u ơng bà, cha mẹ, anh chị em.
Đến trường, ta phải kính thầy yêu bạn, giúp đỡ bạn mỗi khi bạn gặp gặp khó
khăn trong học tập. Ở mỗi xóm giềng, bà con lối xóm ln quan tâm, chia sẻ
niềm vui, nỗi buồn. Nhà ai có chuyện vui, bà con đến chúc mừng, gặp chuyện
buồn bà con đến thăm hỏi, động viên. Nhìn rộng ra ngồi xã hội, ta thấy nghìn
năm nay, dân tộc Việt Nam- những người con Lạc cháu Hồng yêu thương, gắn
bó với nhau, cùng nhau đánh giặc ngoại xâm. Hằng năm, trên các phương tiện
truyền thông, cứ ở đâu có thiên tai, lũ lụt, lập tức ở đó có hàng triệu tấm lịng
chia sẻ, giúp đỡ. Phong trào quyên góp, ủng hộ dấy lên trong cả nước. Có những
cụ già bớt những đồng tiền lương ít ỏi, những em bé cẩn thận gấp những bộ
quần áo cũ, tiết kiệm từng cái bút, quyển sách để ủng hộ đồng bào gặp khó khăn,
góp phần động viên họ vượt qua cơn hoạn nạn. Rồi chiến dịch “ Mùa hè xanh”,
có hàng ngàn thanh niên tình nguyện sẵn lịng xơng pha đến những nơi xa xôi,
hẻo lánh giúp bà con dựng lại mái nhà, mảnh vườn. Phong trào “ Trái tim cho
em”, “ Ánh sáng cho người mù” mang niềm vui, ánh sáng cho những người bất

hạnh và còn rất nhiều người có lịng u thương khác nữa.
Bên cạnh đó, cịn rất nhiều câu ca dao, tụ ngữ khác cũng gợi lịng u thương,
đó là “ Lá lành đùm lá rách”.
Trái lại, có những người lại bàng quang, lạnh lùng với nỗi đau của đồng bào,
những kẻ đó thật đáng lên án.


Hiểu được tính đúng đắn của câu ca dao, mỗi chúng ta phải rèn luyện lòng yêu
thương. Với bản thân, em kính u ơng bà, cha mẹ, anh chị em, em thấy mình
phải u thương, giúp đỡ bạn bè, tích cực tham gia phong trào từ thiện do nhà
trường phát động để mang tình yêu đến mọi người.
Câu ca dao ngắn gọn nhưng rất sâu sắc, là lời khuyên, bài học quí giá đối
với mỗi chúng ta. Em mong mọi người hãy yêu thương lẫn nhau để xã hội mãi
văn minh, lịch sự và hạnh phúc.
Đề 2 : Em hãy giải thích câu tục ngữ: “ Thương người như thể thương
thân”
** Bài viết tham khảo:
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống u thương đồn kết giúp đỡ lẫn
nhau. Tình cảm yêu thương con người ấy đã trở thành máu thịt trong mỗi chúng
ta. Từ đó hình thành nên lịng nhân ái, tình người bao la. Ơng bà ta xưa có dạy:
“ Thương người như thể thương thân”
Đây là một lời khun chí tình, chí nghĩa nhằm nhắc nhở con cháu phải
biết yêu thương giúp đỡ người khác như yêu thương chính bản thân mình: Như
một lời nói tự nhiên chân thành ngắn gọn, mà lại chứa chan bao điều giáo huấn.
Câu tục ngữ được tách thành hai vế: Một bên là người “ nhân loại”, một bên là
bản thân bởi cách so sánh “như thể”. Lời dạy trên muốn nhấn mạnh: Nếu ta
thương thân ta như thế nào thì phải thương người chung quanh ta như thế ấy.
Thân thể của ta thì phải q trong, phải chăm sóc. Chỉ một vết trầy xước nhỏ,
một chứng đau nhẹ cũng khiến cho ta phải quan tâm lo sợ…cho tấm thân ta.
Thấm được cái đau khi mình mắc phải sẽ giúp ta thông cảm với nỗi đau của

người khác. Nếu như người chung quanh ta khơng may gặp khó khăn, hoạn nạn
thì ta nên giúp đỡ, quan tâm, chăm sóc họ như u thương chăm sóc chính bản
thân mình.
Chúng ta ai cũng hiểu rằng : Là người sống sống trong xã hội, không ai sống lẻ
loi, đơn độc được mà phải tập hợp thành đồn thể, cộng đồng. Trong gia đình ta
có mối quan hệ anh em, những người cùng huyết thống, cùng có những kỉ niệm
vui buồn bên nhau. Họ chẳng khác nào như chân với tay trong cùng một cơ thể.
Do đó khi có ai gặp hoạn nạn khó khăn, mọi người đâu nỡ quay mặt làm ngơ
cho được, bởi “ máu chảy ruột mềm”


Xa hơn nữa là bạn bè, bà con hàng xóm, những người đã cùng ta “ tối lửa tắt
đèn” có nhau. Tuy không cùng máu mủ nhưng họ lại là người có tình có nghĩa
sâu nặng với ta. Những lúc “trái gió trở trời”, những khi cùng đường bí lối, họ
đến với ta bằng những tấm lòng chân thành để “chia ngọt sẻ bùi”. Tình nghĩa ấy
sâu đậm chẳng khác gì anh em một nhà. Vì vậy khi họ khơng may rơi vào hồn
cảnh khó khăn, lẽ nào ta lại ngoảnh mặt thờ ơ cho đành. Lúc này thái độ
“nhường cơm se áo”, “ chị ngã em nâng” là một việc làm mà ta phải thực hiện
tốt. Ngay đến cộng đồng xã hội mà ta đang sống, những người dù ở miền ngược
hay miền xuôi, dù nơi miền núi hay đồng bằng cũng đều là anh em, bởi lẽ họ
với ta cùng một dân tộc, có chung một mẹ Âu Cơ.. Chính mối quan hệ gắn bó
này tạo nên tình cảm tương thân, tương ái giữa con người với con người trong xã
hội. Tình cảm ấy đã bao đời nay trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Trải qua những năm tháng kháng chiến gian khổ, gay go cả nước đều chung lịng
đồn kết giúp đỡ lẫn nhau để đi đến thắng lợi vẻ vang. Và cũng đã biết bao lần
tồn dân ta đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi “ một miếng khi đói bằng một gói
khi no” của Đảng và nhà nước ta để chung góp từ tiền bạc đến thuốc men vật
dụng hầu chia sẻ nỗi đau với các nạn nhân của thiên tai lũ lụt. Những việc làm
ấy đã thể hiện rất rõ tấm lòng “ thương người như thể thương thân” mà ông cha
ta đã truyền dạy. tình cảm cao đẹp ấy là một đạo lí, là một net đẹp của con

người, là nền tảng để xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc.
Cho nên, mỗi chúng ta cần hiểu rằng u thương người khác như u thương
chính bản thân mình là một việc làm tốt đáng để cho mọi người noi theo. Ngày
nay, câu tục ngữ khơng cịn mang ý nghĩa hẹp của cá nhân mà nó mang nội dụng
rộng lớn, nó trơt thành tình cảm chung, nếp sống chung của tồn xã hội. Và tình
cảm nhân đạo ấy được phát triển lan rộng qua mối quan hệ với cả cộng đồng
nhân loại.. Thấm nhuần lời dạy ấy, bản thân mỗi chúng ta cần phải có ý thức rèn
luyện đạo đức. Ngay từ nhỏ phải biết sống đoàn kết yêu thương nhau từ trong
gia đình, lớp học đến mọi người xung quanh. “ tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, khơng có
gì lớn lao, chỉ cần biết giúp đỡ bạn trong lớp, tham gia quyên góp giúp đỡ đồng
bào thiên tai, giúp đỡ gia đình neo đơn, người già, người tàn tật. Đó chính là
biểu hiện tốt đẹp giữa người với người trong xã hội mà mỗi chúng ta cần phải
thực hiện trong cuộc sống hằng ngày.
Tóm lại, câu tục ngữ đã cho ta một bài học về đạo lí làm người. Lời dạy
ấy mãi vang bên tai ta nhắc nhở ta phải có lịng nhân ái, phải biết u thương


mọi người chung quanh như thương yêu chính bản thân mình. Phát huy được
truyền thống tốt đẹp của ơng cha là chúng ta vừa thể hiệ nhân cách làm người
vừa góp phần xây dựng một đất nước văn minh tiến bộ.
Đề bài 3: Ca dao Việt Nam có những câu quen thuộc :
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn.
Em hãy chứng minh vấn đề nêu trong câu ca dao trên.
Bài văn chứng minh cần đảm bảo các ý cơ bản sau :
- Mở bài:
+ Dẫn vào đề : kho tàng ca dao Việt Nam rất phong phú, có những câu hay
cả về tư tưởng và hình thức nghệ thuật, đặc biệt là về tư tưởng.
+ Định hướng và phạm vi chứng minh : tư tưởng đoàn kết dân tộc thể hiện

trong câu ca dao đã được thực tế đời sống của nhân dân Việt Nam từ xưa
đến nay chứng minh là hùng hồn.
- Thân bài:
+ Giải thích ý nghĩa và bản chất của vấn đề : hình ảnh bầu - bí khác giống
nhưng chung một giàn. Cần yêu thương là cách nói ẩn dụ tượng trưng
nhằm thể hiện một cách kín đáo và sâu sắc tình u thương đồn kết, đùm
bọc nhau của các dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
+ Luận chứng chứng minh theo ba luận điểm :
♦ Thương yêu giúp đỡ nhau trong đời sống nghèo túng vấn vả : Chị ngã em
nâng, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ,...
♦ Đùm bọc nhau trong hoạn nạn thiên tai, lá lành đùm lá rách, cả nước giúp
đỡ đồng bào lũ lụt, nhường cơm sẻ áo,...
• Đồn kết thương yêu nhau trong hai cuộc kháng chiến.
- Kết bài:
+ Đoàn kết thương yêu nhau đã trở thành sức mạnh giúp ta thành công.
+ Rút ra bài học cho bản thân : khắc phục tính đố kị, cá nhân, ích kỉ;
thực sự đoàn kết, hoà nhập và yêu thương các bạn trong lớp, làng
xóm.
***Bài làm tham khảo:
Nhân dân Việt Nam ta vốn có truyền thống u thương đùm bọc, đồn kết
giúp đỡ lẫn nhau. Điều đấy đã được ông cha ta nhắc nhở qua câu ca dao:


Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Câu ca dao đưa ra hai hình ảnh so sánh giáu sức biểu cảm là “ bầu” và “
bí”. Bầu và bí dù có khác nhau về tên gọi, về cay trái nhưng đều thuộc loại dây
leo cùng phát triển trưởng thành trên cái giàn, ngôi nhà quê hương của lồi ấy..
Chúng thương có chung một điều kiện sống, chính vì vậy chúng càng gần gũi
thân thiết với nhau. Bầu thân mềm, bí cũng thân mềm. Bầu phải tựa vào giàn

mới phát triển được. Bí cũng như thế. Chung giàn cịn có nghĩa là bầu và bí tựa
vào nhau, tựa vào giàn. Giàn đổ thì bầu gặp tai nạn, bí cũng gặp tai nạn. Bầu và
bí cùng chung một phận. Vì sao bầu bí khác giống mà vẫn phải yêu thương
nhau? Nhân dân đưa ra lí do “ chung giàn”. Chung một giàn là chung nhau địa
điểm, chung nhau khơng gian. Bầu và bí chịu mưa, chịu nắng, cùng sống chung
bằng những tấc đất bạc màu hay trù phú, cùng được tưới những dòng nước mát
hay cùng chịu những ngày hạn hán. Như vậy, cảnh ngộ của chúng khơng khác gì
nhau. Lẽ nào một mình bầu có thể tươi xanh khi bí thì khơ héo. Bầu thương bí
cũng chính là thương mình. Bí có sống thì bầu mới sống. Nếu bí cỗi cằn thì bầu
cũng chẳng thể tươi xanh.
Câu ca dao nói về bầu và bí nhưng dân gian khơng chỉ nói chuyện cỏ
cấy. Hình ảnh bầu và bí là hình ảnh ẩn dụ để khun nhủ người đời. Con người
cũng như cây bầu cây bí tuy khác giống nhưng lại sống chung một làng, một xã
trên một mảnh đất cùng dân tộc. Vì vậy phải biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Tại sao chúng ta phải yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau? Là người Việt Nam
cùng một mẹ Âu Cơ mang chùng dòng máu Rồng Tiên dù ở bất cứ nơi đâu,
miền ngược hay miền xuôi, đồng bằng hay rừng núi cũng đều là ruột thịt, đều là
anh em. Thực tế đã chứng minh sự đoàn kết, gắn bó của dân ta mỗi khi có giặc
ngoại xâm. Tình yêu thương trong những trận chiến đấu ấy đã làm cho dân tộc ta
có sức mạnh để chiến thắng từ miền ngược đến miền xuôi, từ Bắc xuống Nam,
từ người già đến trẻ em, ai cũng đồng lòng bởi vì họ đều là dân của VN, cùng
chịu chung ách nô lệ, cùng chịu chung nỗi khổ đất nước . Chính vì vậy, nhân dân
ta đã đồn kết, u thương nhau cùng nhau chiến thắng kẻ thù. Sống trong xã
hội, khơng ai sống lẻ loi mà cần có sự giúp đỡ lẫn nhau nhất là khi gặp hoạn nạn


khó khăn, “ lá lành đùm lá rách” đó là tình người. Những lúc gặp thiên tai lũ lụt:
“ Một miếng khi đói bằng một gói khi no” nên kẻ giàu người nghèo quyên góp
lại tiếp ứng cho những nạn nhân không may mắn chia sẻ phần nào nỗi mất mát
đau thương của họ, đó là truyền thống q báu từ ngàn xưa.

Yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau là một nghĩa cử, một việc làm tốt không
những thể hiện đạo đức của con người mà nó cịn là cơ sở của tình yêu quê
hương. Bởi lẽ, giúp đỡ cho những người bị thiên tai, dịch hoạn tức là góp phần
trong việc “xóa đói giảm nghèo”, góp phần ổn định cuộc sống của người dân.
Tóm lại, đồn kết thương u nhau đã trở thành sức mạnh giúp ta thành
công. Để lời dạy của người xưa cịn ngun giá trị thì bản thân mỗi học sinh cần
phải khắc phục tính đố kị, cá nhân, ích kỉ; thực sự đồn kết, hồ nhập và yêu
thương các bạn trong lớp, làng xóm.
Đề 4: Hãy giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ : “Lá lành đùm lá rách”
***Lập dàn ý:
1, MỞ BÀI: Giới thiệu nội dung câu tục ngữ cần giải thích
2, THÂN BÀI
- Nghĩa đen của từng thành phần trong câu tục ngữ: lá lành, lá rách, mối quan hệ
của hai loại lá: đùm ( bao bọc, bảo vệ, chở che). Lá lành lặn che bọc cho lá rách.
- Vì sao hai loại lá này cần che chở cho nhau, bảo vệ nhau?
+ Vì sự tồn tại và phát triển của bản thân chúng nói riêng và của cái cây nói
chung.
+ Vì vẻ đẹp và sự bền chắc khi người ta dùng lá để gói (bánh, giị, nem…)
- Nghĩa bóng của lá lành, lá rách: người giàu, người nghèo; người bình an, người
gặp nạn; người tốt, người chưa tốt,…Con nguwoif cần yêu thương, đùm bọc,
che chở nhau.
- Vì sao con người phải yêu thương đùm bọc nhau?
+ Thế nào là yêu thương, giúp đỡ nhau?


+ Vì sao phải yêu thương nhau( trong gia đình, bạn bè, xã hội).
+ Tình yêu thương biểu hiện như thế nào trong đời sống xã hội ( trong lao động
sản xuất, chiến đấu, trong nhà trường và đời sống hiện đại,…)?
+ Tính tích cực của lịng u thương ( Sống khơng có tình u thương sẽ có tác
hại như thế nào?)

+ Khẳng định tình cảm đó chính là đạo lí tốt đẹp, là truyền thống quý báu của
dân tộc, xã hội ta.
3, KẾT BÀI
- Cảm nhận về sự sáng suốt và khôn ngoan của người xưa khi khuyên nhủ con
người đùm bọc, hỗ trợ nhau.
- Xác định thái độ đúng đắn về thái độ đoàn kết, giúp đỡ, chia sẻ trong cuộc
sống.
*** Bài viết tham khảo:
Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu thương đỡ
đần, giúp đỡ lẫn nhau. Lòng yêu thương, tinh thần nhân đạo đó càng ngời sáng
là những lúc gặp khó khăn, gian khổ. Truyền thống ấy đã thấm nhuần vào máu
thịt của con người và nó được đúc kết lại thành những bài học, những câu tục
ngữ .... mà ông cha ta thường nhắc nhở:
“Lá lành đùm lá rách”
Không phải ngẫu nhiên mà ơng cha ta mượn hình ảnh chiếc lá để làm bài
học giáo dục cho con người. Câu tục ngữ gợi lên những hình ảnh quen thuộc,
gần gũi với những sự việc bình thường trong cuộc sống
“Lá lành” là những chiếc lá còn nguyên vẹn, còn giữ nguyên dáng hình của
chiếc lá. “Lá lách” là chiếc bị sâu rầy đục kht hoặc gió làm tơi đi nên khơng
cịn ngun vẹn như trước. Ta thử nhìn lên một thân cây với nhiều cành cây
xanh um tươi tốt, nếu nhìn kĩ ta sẽ thấy những chiếc lá lành đan cài, bao trùm
che lấp một vài chiếc lá sâu rách ở phía sau. Cũng như chiếc bánh chưng, bánh ú
được gói bằng nhiều lớp lá: Bên ngoài là lớp lá tốt, lành lặn, bên trong là những
lớp lá nhỏ, xấu xí, khơng nguyên vẹn. Chính nhờ nhiều lớp lá, nhất là những


chiếc lá tốt bọc bên ngồi nên nhìn vào ta không thấy được những chiếc lá xấu ở
trong. Nhờ những chiếc lá tốt ấy mà chiếc bánh gọn gàng, khéo léo hơn
Từ hình ảnh trên ta liên tưởng đến con người. Chiếc lá lành tượng trưng cho
người có cuộc sống đầy đủ, ấm no. Cịn chiếc lá rách là hình ảnh của người

khơng may mắn, có cuộc sống thếu thốn ...Nếu chiếc lá lành biết đùm bọc, che
chở cho chiếc lá rách khơng may mắn, có cuộc sống thiếu thốn thì lẽ nào ta là
con người mà khơng biết giúp đỡ, yêu thương những kẻ gặp hoạn nạn sao? Là
người sống trong xã hội, ai cũng muốn có cuộc sống sung túc và đầy đủ nhưng
mấy ai được như ý muốn của mình. Có người gặp những điều khơng may này
nối tiếp những điều khơng may khác. Trước hồn cảnh đó, cũng là một anh em
sống trong cùng một đất nước ta phải hết lòng giúp đỡ họ
Sự giúp đỡ từ những tấm lòng của người may mắn sẽ an ủi được phần nào
những mất mát đau thương của kẻ gặp khó khăn. Đùm bọc, yêu thương giúp đỡ
lẫn nhau là tình cảm thiêng liêng q báu, là đạo lí làm người. Sống trên một
lãnh thổ, cùng nói một thứ tiếng, cùng một tổ tiên, một lịch sử, như vậy là anh
em trong một nhà. Lá lành hay lá rách cũng là lá, cũng như nghèo hay giàu, sang
hay hèn đều là con người, thì ta đối xử với nhau cho ra cái đạo lí làm người.
Bởi lẽ đó mà dân tộc ta trải qua biết bao gian nan khổ sở mà vẫn đứng vững, vẫn
trường tồn. Những trận thiên tai, lũ lụt giáng xuống các miền đồng bằng Nam
Bộ cũng như các vùng cao nguyên gây biết bao nhiêu thiệt hại về tài sản sinh
mạng của con người. Thế nhưng nhờ “Lá lành đùm lá rách”, “của ít lịng nhiều”
của bà con, của nhân dân đóng góp nên cũng an ủi và giả quyết được phần nào
những mất mát, đau thương ấy. Tình yêu đồng bào, đồng loại đã làm ấm lại, làm
lành lại những nỗi đau, những vết thương vì hồn cảnh. Sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn
nhau đã tạo nên tình thân ái trong nhân dân và nó là truyền thống rất tốt đẹp của
dân tộc ta.
Lời dạy trên là một bài học sâu sắc về đạo lí làm người mà mỗi người
chúng ta cần thực hiện tốt. Có được như thế thì mọi người sẽ u thương nhau,
đùm bọc lẫn nhau trong cơn hoạn nạn, khó khăn trong xã hội sẽ tốt đẹp biết
đường nào. Lời nhắc nhở của cha ông sẽ là phương châm cho hành động của
chúng ta khi sống trong cõi đời này.


Chùm đề 2: Lòng biết ơn

Đề bài 1: Chứng minh rằng nhân dân ta ln sống theo đạo lí: “Ăn quả nhớ
kẻ trồng cây; Uống nước nhớ nguồn”
Dàn ý tham khảo:
1, Mở bài: Khẳng định lòng biết ơn là truyền thống quí báu của dân tộc ta từ
xưa đến nay. Truyền thống đó đã được ơng cha ta đúc kết trong hai câu tụ ngữ:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây; Uống nước nhớ nguồn”
2, Thân bài
* Xét về lí lẽ( Trả lời câu hỏi là gì? Là sao?): Giải thích
- Đúng vậy( khẳng đinh)
+ Giải thích: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây là gì? Uống nước nhớ nguồn là gì?
+ Dùng lí lẽ để lập luận( Vì sao vậy)
. Vì mọi thành quả chúng ta đang sử dụng ( mọi thứ chúng ta đang dùng) khơng
phải tự nhiên mà có, tất cả đều do công sức lao động của con người mà ra.
. Vì vậy, chúng ta phải biết q trọng những thành quả lao động đó.
* Xét về thực tế( Trả lời câu hỏi như thế nào? Làm gì?) Chứng minh:

- Thật vậy, thực tế đã chứng minh: có rất nhiều việc làm thể hiện lòng biết
ơn( đưa ra một số dẫn chứng)
+ Ngày giỗ tổ Hùng Vương 10-3
+ Ngày thương binh liệt sĩ 27-7
+ Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11
* Bản thân em đã làm gì để thể hiện lịng biết ơn đó?
3, Kết bài: Khẳng định lịng biết ơn là truyền thống quí báu của dân tộc ta từ
xưa đến nay.


** Bài viết tham khảo:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây; Uống nước nhớ nguồn” là những câu tục ngữ
cho thấy lối sống biết ơn người đi trước, biết ơn cội nguồn. Đó chính là đạo lí tốt
đẹp và bền vững của nhân dân ta từ xưa đến nay.

Trước hết, ta đi tìm hiểu đạo lí tốt đẹp này qua hai câu tục ngữ. Đầu tiên, “
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là mỗi khi thưởng thức một loại hoa thơm, traí ngọt, ta
phải nhớ ơn người đã vun trồng, chăm sóc cây cho quả đó. Cịn “ Uống nước
nhớ nguồn” nghĩa là khi uống một ngụm nước mát, trong lành, ta phải nhớ đến
nơi khởi điểm, bắt đầu của nguồn nước đó. Hai câu tục ngữ trên hồn tồn đúng
đắn.
Từ các hình ảnh ẩn dụ trên hai câu tục ngữ đã nêu lên đạo lí: Mỗi khi hưởng thụ
thành quả tôt đẹp nào cả về vật chất lẫn tinh thần, ta phải biết ơn những người
làm ra nó, tạo ra nó, biết ơn tổ tiên cội nguồn…. Và vì vậy, chúng ta phải nhớ
đến những người tạo ra thành quả đó với tất cả sự biết ơn, bởi họ đã mất bao
công sức vất vả để làm ra thành tựu ấy. Đó cũng như cha mẹ đã một nắng hai
sương vất vả biết bao để làm ra hoặc mua về những hạt gạo, mớ ra. Con cá…
Hay người công nhân đã cần cù, chăm chỉ, biết mấy để làm ra những mảnh vải,
những bộ quần áo.. Và cô lao công cũng đã cực nhọc, lao lực để có được con
đường sạch sẽ, thoáng đãng.
Vậy chúng ta cần thể hiện đạo lí “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “ Uống nước nhớ
nguồn” như thế nào? Thật vậy, thực tế trong cuộc sống đã chứng minh khá rõ nét
về điều đó. Trong mỗi gia đình, dù giàu sang hay nghèo khó đều có bàn thờ gia
tiên. Dẫu chỉ là nén nhang, chén nước hay một vài bơng hoa trong bình..nhưng
những người con cháu đã gửi gắm vào đó tấm lịng biết ơn vô hạn. Hằng năm.
Nước ta long trọng tổ chức các lễ hội: Ngày 20-11 là ngày tôn vinh các thầy cô
giáo. Ngày 27-7 là ngày biết ơn những anh hùng liệt sĩ dân tộc. Rồi những chính
sách đã ngợi ca, phụng dưỡng đối với những người có cơng, những người mẹ
Việt Nam anh hùng. Ngày nay, mỗi bát cơm chúng ta ăn, mỗi tấm áo chúng ta
mặc hay tất cả bất kì là đồ vật nào ta đang sử dụng đều nhờ vào bàn tay lao động
của con người. Có nhiều bài thơ, bài hát ca ngợi Đảng Bác kính u. Và cũng
có nhiều câu ca dao, tục ngữ cũng ca ngợi lịng biết ơn như:
“Con người có tổ có tơng



Như cây có cội như sơng có nguồn”
Câu tục ngữ “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “| Uống nước nhớ nguồn”
là biết ơn những người đi trước, biết ơn cội nguồn. Cần làm gì để đạo lí tốt đẹp
đó ngày càng một phát triển và bền vững? Đó là câu hỏi được đặt ra cho chúng
ta, trong đó có bạn và tơi.
Đề 2: Tục ngữ có câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Em hiểu thế nào về câu
tục ngữ trên?
***Bài làm tham khảo:
Lòng biết ơn đối với người khác từ xưa đến nay vốn là truyền thống của dân tộc
ta. Ơng cha ta ln nhắc nhở, dạy bảo con cháu phải sống ân nghĩa thủy chung,
đã nhận ơn của ai thì khơng bao giờ qn. Truyền thống đạo đức đó được thể
hiện rõ nét qua câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Đây là một lời giáo huấn vô cùng sâu sắc. Khi ăn những trái cây chín mọng với
hương vị ngọt ngào ta phải nhớ tới cơng lao vun xới, chăm bón của người trồng
nên cây ấy. Từ hình ảnh ấy, người xưa ln nhắc nhở chúng ta một vấn đề đạo
đức sâu xa hơn: người được hưởng thành quả lao động thì phải biết ơn người tạo
ra nó. Hay nói cách khác: Ta phải biết ơn những người mang lại cho ta một cuộc
sống ấm no hạnh phúc như hôm nay.
Tại sao như vậy? Bởi vì tất cả những thành quả lao động từ của cải vật chất đến
của cải tinh thần mà chúng ta đang hưởng thụ khơng tự nhiên mà có được.
Những thành quả đó là mồ hơi, nước mắt và cả xương máu của biết bao lớp
người đã đổ xuống để tạo nên. Bát cơm ta ăn là do cơng lao khó nhọc vât vả
“một nắng hai sương” của người nông dân trên đồng ruộng. Tấm áo ta mặc, ngôi
nhà ta ở, cả những vật dụng ta tiêu dùng hàng ngày là do sức lao động cần cù,
miệt mài của những người thợ, những chú công nhân. Cũng như những thành
tựu van hóa nghệ thuật, những di sản của dân tộc cịn để lại cho đời sau hôm
nay là do công sức, bàn tay, khối óc của những nghệ nhân lao động sáng tạo
khơng ngừng ...Cịn rất nhiều, nhiều nữa những cơng trình vĩ đại ,,, mà ơng cha
ta làm nên nhằm phục vụ cho con người. Chúng ta là lớp người đi sau, thừa
hưởng những thành quả ấy, lẽ nào chúng ta lại lãng quên, vô tâm không cần biết

đến người đã tạo ra chúng ư? Một thời gian đằng đẵng sống trong những đêm
dài nô lệ, chúng ta phải hiểu rằng đã có biết bao lớp người đã ngã xuống lớp


khác đứng lên quyết tâm đánh đuổi kẻ thù ...để cho ta có được cuộc sống độc
lập, tự do như ngày hơm nay. Vì vậy, ta khơng thể nào qn được những hi sinh
to lớn và cao cả ấy
Có lịng biết ơn, sống ân nghĩa thủy chung là đạo lí làm người, đó cũng là bổn
phận, là nhiệm vụ của chúng ta đối với đời. Tuy nhiên, lòng biết ơn khơng phải
là lời nói sng mà phải thể hiện bằng hành động cụ thể. Nhà nước ta đã có
những phong trào đền ơn đáp nghĩa, xây dựng những ngôi nhà tình nghĩa cho
các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương binh liệt sĩ. Việc đền ơn đáp
nghĩa này đã trở thành phong trào, là chính sách lan rộng trên cả nước. Đây
không chỉ là sự đền đáp cơng ơn đơn thuần mà nó trở thành bài học thiết thực về
đạo lí làm người của chúng ta. Cho nên mỗi người ai ai cũng cần phải có ý thức
bảo vệ và phát huy những thành quả đạt được ấy ngày càng tốt đẹp hơn , có
nghĩa là ta vừa là “người ăn quả” của ngày hôm nay, vừa là “người trồng cây”
cho ngày mai. Cũng từ đó ta càng thấm thía hiểu được rằng: Cha mẹ, thầy cơ
cũng chính là người chồng cây, cịn ta là người ăn quả. Vì vậy ta cần phải thực
hiện tốt bổn phận làm con trong gia đình, bổn phận của người học trò trong nhà
trường. Làm được như vậy tức là ta tức là ta đã thể hiện được lòng biết ơn sâu
sắc của mình đối với những người đã hi sinh, thương yêu lo lắng cho ta. Đây là
một việc làm khơng thể thếu được ở thế hệ trẻ hiện nay.
Tóm lại, câu tục ngữ trên giúp ta hiểu hơn về đạo lý làm người. Lịng biết ơn
là tình cảm cao q và cần phải có trong mỗi con người. Vì vậy, chúng ta cần
phải luôn trau dồi phẩm chất cao q đó, nhất là đối với cha mẹ, thầy cơ ... với
những ai đã tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ. Lòng biết ơn mãi mãi là bài học
quý báu và câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” có giá trị và tác dụng vơ cùng
to lớn trong cuộc sống của chúng ta


Đề 3: Giải thích câu tục ngữ : “Lá lành đùm lá rách”
*** Bài làm tham khảo:
Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu thương đỡ
đần, giúp đỡ lẫn nhau. Lòng yêu thương, tinh thần nhân đạo đó càng ngời sáng


là những lúc gặp khó khăn, gian khổ. Truyền thống ấy đã thấm nhuần vào máu
thịt của con người và nó được đúc kết lại thành những bài học, những câu tục
ngữ .... mà ông cha ta thường nhắc nhở:
“Lá lành đùm lá rách”
Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta mượn hình ảnh chiếc lá để làm bài học
giáo dục cho con người. Câu tục ngữ gợi lên những hình ảnh quen thuộc, gần
gũi với những sự việc bình thường trong cuộc sống
“Lá lành” là những chiếc lá còn ngun vẹn, cịn giữ ngun dáng hình của
chiếc lá. “Lá lách” là chiếc bị sâu rầy đục khoét hoặc gió làm tơi đi nên khơng
cịn ngun vẹn như trước. Ta thử nhìn lên một thân cây với nhiều cành cây
xanh um tươi tốt, nếu nhìn kĩ ta sẽ thấy những chiếc lá lành đan cài, bao trùm
che lấp một vài chiếc lá sâu rách ở phía sau. Cũng như chiếc bánh chưng, bánh ú
được gói bằng nhiều lớp lá: Bên ngoài là lớp lá tốt, lành lặn, bên trong là những
lớp lá nhỏ, xấu xí, khơng ngun vẹn. Chính nhờ nhiều lớp lá, nhất là những
chiếc lá tốt bọc bên ngồi nên nhìn vào ta khơng thấy được những chiếc lá xấu ở
trong. Nhờ những chiếc lá tốt ấy mà chiếc bánh gọn gàng, khéo léo hơn
Từ hình ảnh trên ta liên tưởng đến con người. Chiếc lá lành tượng trưng cho
người có cuộc sống đầy đủ, ấm no. Cịn chiếc lá rách là hình ảnh của người
khơng may mắn, có cuộc sống thếu thốn ...Nếu chiếc lá lành biết đùm bọc, che
chở cho chiếc lá rách không may mắn, có cuộc sống thiếu thốn thì lẽ nào ta là
con người mà không biết giúp đỡ, yêu thương những kẻ gặp hoạn nạn sao? Là
người sống trong xã hội, ai cũng muốn có cuộc sống sung túc và đầy đủ nhưng
mấy ai được như ý muốn của mình. Có người gặp những điều không may này
nối tiếp những điều không may khác. Trước hồn cảnh đó, cũng là một anh em

sống trong cùng một đất nước ta phải hết lòng giúp đỡ họ
Sự giúp đỡ từ những tấm lòng của người may mắn sẽ an ủi được phần nào
những mất mát đau thương của kẻ gặp khó khăn. Đùm bọc, yêu thương giúp đỡ
lẫn nhau là tình cảm thiêng liêng quí báu, là đạo lí làm người. Sống trên một
lãnh thổ, cùng nói một thứ tiếng, cùng một tổ tiên, một lịch sử, như vậy là anh
em trong một nhà. Lá lành hay lá rách cũng là lá, cũng như nghèo hay giàu, sang
hay hèn đều là con người, thì ta đối xử với nhau cho ra cái đạo lí làm người.


Bởi lẽ đó mà dân tộc ta trải qua biết bao gian nan khổ sở mà vẫn đứng vững, vẫn
trường tồn. Những trận thiên tai, lũ lụt giáng xuống các miền đồng bằng Nam
Bộ cũng như các vùng cao nguyên gây biết bao nhiêu thiệt hại về tài sản sinh
mạng của con người. Thế nhưng nhờ “Lá lành đùm lá rách”, “của ít lịng nhiều”
của bà con, của nhân dân đóng góp nên cũng an ủi và giả quyết được phần nào
những mất mát, đau thương ấy. Tình yêu đồng bào, đồng loại đã làm ấm lại, làm
lành lại những nỗi đau, những vết thương vì hồn cảnh. Sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn
nhau đã tạo nên tình thân ái trong nhân dân và nó là truyền thống rất tốt đẹp của
dân tộc ta.
Lời dạy trên là một bài học sâu sắc về đạo lí làm người mà mỗi người
chúng ta cần thực hiện tốt. Có được như thế thì mọi người sẽ yêu thương nhau,
đùm bọc lẫn nhau trong cơn hoạn nạn, khó khăn trong xã hội sẽ tốt đẹp biết
đường nào. Lời nhắc nhở của cha ông sẽ là phương châm cho hành động của
chúng ta khi sống trong cõi đời này.
Chùm đề 3: Ý chí nghị lực
Đề bài 1: Chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ: “ Có chí thì nên”
Dàn bài:
1, Mở bài:
- Nêu vai trị quan trọng của ý chí, nghị lực đối với cuộc sống của con người.
- Trích dẫn câu tục ngữ “ Có chí thì nên”
2, Thân bài

* Trước hết, ta đi tìm hiểu nội dung, ý nghãi của câu tục ngữ:
- “ Chí” là gì” Chí là ý chí, nghị lực, là hồi bão, ước mơ, là lịng quyết tâm của
mỗi con người.
- Ai có chí, sẽ vượt qua mọi khó khăn, sẽ có được thành cơng trong cơng việc và
trong cuộc sống.
-> Khơng có chí sẽ chẳng làm được việc gì?
* Vì sao vậy?


- Vì chí là điều kiện cần thiết giúp con người thành cơng
+ Bất cứ việc gì dù nhỏ và đơn giản nhưng khơng chun tâm, khơng có chí thì
liệu có thành cơng được hay khơng?
+ Nếu gặp khó khăn mà bỏ dở thì sẽ chẳng làm được việc gì.
* Như thế nào?
- Thực tế đã chứng minh( dẫn chứng)
+ Thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí: Dù bị liệt cả hai tay, nhưng vẫn cố gắng học tập,
thi đỗ đại học và trở thành thầy giáo.
+ Các vận động viên bị tật nguyền, vẫn cố gắng luyện tập và đạt thành tích .
+ Trong kháng chiến, nhờ ý chí nghị lực và sự kiên trì đã giúp nhân dân ta đánh
thắng bao kẻ thù hùng mạnh.
+ Có nhiều câu tục ngữ cùng nội dung: “ Có cơng mài sắt, có ngày nên kim”
* Làm gì?
- Trong học tập: nhiều người nhờ có chí nên đã thành cơng( thi đỗ đại học)
- Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, em phải xác định cho mình mục
tiêu phấn đấu: chăm chỉ học tập, kiên trì học ở thầy cơ, bạn bè, cố gắng vượt qua
những thất bại vì “ Thất bại là mẹ thành cơng”.
3. Kết bài: Khẳng định: Ý chí, nghị lực, hồi bão và ước mơ có vai trị quan
trọng trong cuộc sống của con người.
** Bài viết tham khảo:
Sống tức là khắc phục khó khăn, khơng có ý chí, niềm tin, nghị lực thì

khơng thể thành đạt được. Do đó, từ xưa nhân dân ta đã dạy: “ Có chí thì nên”.
Câu tục ngữ trên hồn tồn đúng đắn. Trước hết, ta đi tìm hiểu ý nghĩa của
câu tục ngữ. “ Chí” có nghĩa là hồi bão, lí tưởng tốt đẹp, là ý chí, nghị lực. Ai
có những điều kiện đó thì sẽ thành cơng trong cơng việc và sự nghiệp.
Vì sao vậy? Bởi lẽ bất cứ việc gì dù xem là có vẻ giản đơn như chơi thể thao,
học ngoại ngữ…nhưng khơng có ý chí quyết tâm, kiên trì thì liệu có làm được


khơng khi gặp việc gì cng thấy khó khăn? Nếu thấy khó khắn mà bỏ dở thì sẽ
chẳng làm được việc gì.
Thực tế cuộc sống đã chứng minh khá rõ nét về điều đó: Xưa nay, đã có biết bao
tấm gương nêu cao ý chí, nhờ có chí mà thành cơng. Để hồn thnahf chương
trình học phổ thơng đối với người bình thường đã khó, huống chi là đối với
người bị khuyết tật thì việc đó lại vơ cùng là khó khăn. Anh Nguyễn Ngọc Kí bị
liệt cả hai tay phải tập viết bằng chân. Nhờ có sự kiên trì, quyết tâm, anh đã đỗ
đại học và trở thành một thầy giáo giỏi. Còn Pa- đu-la người Anh bị mù nhưng
đã phấn đấu trở thành người mẫu nổi tiếng. Các vận động viên khuyết tật điều
khiển xe lăn bằng tay đã đem về những tấm huy chương vàng cho đất nước. Hay
trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, nhân dân ta đã phải đương đầu với biết bao
loại giặc hung ác, lớn mạnh. Nhưng nhờ có ý chí, nghị lực, lòng quyết tâm đã
chiến thắng và dành lại độc lập tự do cho đất nước. Trong sản xuất cũng vậy.
Nhìn nhưng con đê sừng sững ngăn lũ nước và bảo vệ mùa màng, ta mới hiểu
được ơng cha ta có ý chí, nghị lực phi thường. Ngay cả trong học tập cũng vậy.
Nhờ có ý chí nghị lực và lịng quyết tâm mà nhiều người đã gặt hái được thành
công lớn.
Bên cạnh đó, cịn có những câu tục ngữ khác cũng ca ngợi ý chí, nghị lực, kiên
trì: “ Có cơng mài sắt, có ngày nên kim”
Trái lại với những người có ý chí, nghị lực là những người ln sống ỷ nại, ln
ngại khó, ngại khổ, chùn bước trước những khó khăn. Những kẻ đó thường thất
bại trong cuộc sống. Hiểu được tính đúng đắn của câu tục ngữ, chúng ta phải rèn

luyện phẩm chất tốt đẹp đó.
Câu tục ngữ tuy ngắn gọn, nhưng mang ý nghãi thật sâu sắc. Đó là lời
khun, là bài học q báu cho tất cả chúng ta. Em mong mỗi người, đặc biệt là
mỗi học sinh, hãy tu dưỡng, rèn luyện ý chí để vun đắp cuốc sống ngày càng
tươi đẹp. Bản thân em thấy mình dần phải rèn ý chí, rèn lịng quyết tâm để vươn
lên học tốt.
Đề bài 2: Giải thích câu tục ngữ: “ Có cơng mài sắt, có ngày nên kim”
Dàn bài:
1. Mở bài


×