Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Đề tài lạm phát ảnh hưởng như thế nào đến tỷ giá hối đoái tại việt nam giai đoạn 2008 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.1 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, kinh tế Việt Nam đã bước sang
một trang sử mới với sự phát triển vượt bậc về mọi mặt. Việt Nam đã được đánh giá
là một “con hổ” của nền kinh tế Châu Á. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải đối mặt với
rất nhiều vấn đề nan giải như: lạm phát, mất giá đồng nội tệ, nhập siêu cao Đặc biệt
trong thời gian gần đây, việc tỷ giá hối đối giữa VND và USD tăng cao đã có những
tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam theo cả hai mặt tốt vàxấu.
Tỷ giá hối đoái xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời, phát triển của thương
mại quốc tế, nó có vai trị rất quan trọng là mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi
quốc gia đều hướng tới. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ tạo điều kiện
cho việc duy trì, mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế trong nước và quốc tê,
giúp cho nền kinh tế trong nước có điều kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày càng
mạnh mẽ hơn.
Trong đó giữa hai biến số kinh tế lạm phát và tỷ giá hối đối có mối liên hệ, tác động,
ảnh hưởng qua lại chặt chẽ với nhau. Tất cả những vấn đề đó đã thơi thúc chúng em
đi vào và tìm hiểu đề tài “Lạm phát ảnh hưởng như thế nào đến tỷ giá hối đoái tại
Việt Nam giai đoạn 2008-2013”


PHẦN I:CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Tính cấp thiết của đề tài.
Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai biến số kinh tế quan trọng của không chỉ của
một quốc gia nào. Lịch sử đã chứng minh sự ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng đến sự
phát triển kinh tế thế giới. Khơng những lạm phát và tỷ giá hối đối có thể tác động
đến mọi hoạt động kinh tế mà chúng còn chịu sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác
động này làm cho diễn biến của chúng ngày càng biểu hiện khó lường, gây khó khăn
cho cơng tác kiểm sốt vĩ mơ nền kinh tế của Chính Phủ.
Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi như hiện nay thì vấn đề ổn định nền
kinh tế ln là mục tiêu cấp thiết hàng đầu của các quốc gia. Bởi vậy, nắm bắt được
quy luật về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho chính phủ các
nước có những chính sách kinh tế phù hợp, tạo nên một sự phát triển kinh tế ổn định


và tích cực hơn.
II.Các khái niệm.
2.1. Tỷ giá hối đoái
2.1.1.

Định nghĩa tỷ giá hối đoái:
Tỉ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước này sang thành những
đơn vị tiền tệ nước khác.

2.1.2.

Các hình thức biểu hiện:
* Biểu hiện trực tiếp: Là phương pháp biểu thị một đơn vị ngoại tệ bằng bao nhiêu
đơn vị tiền tệ của nước mình.
+ Đặc điểm: Ngoại tệ là đồng yết giá, còn tiền trong nước là đồng định giá.


→ Đây là phương pháp phổ biến trên thế giới hiện nay.
*Biểu hiện gián tiếp: Là phương pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ trong nước bằng
bao nhiêu đơn vị ngoại tệ.
+ Đặc điểm: Tiền trong nước là đồng tiền yết giá, ngoại tệ là đồng định giá.
→ Hình thức này phổ biến ở nước Anh và một số nước thuộc liên hiệp Anh.
2.1.3.

Vai trò của tỷ giá hối đối:
Tỉ giá hối đối có vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Nó tác động đến giá cả
tương đối của hàng hố trong nước và hàng hố nước ngồi. Qua đó tác động đến tình
hình xuất nhập khẩu hàng hoá và sự cạnh tranh hàng hoá giữa các nướcvới nhau trên
thị trường quốc tế.
+ Khi đồng tiền của một nước tăng giá, hàng hố của nước đó tại nước ngồi

đắt hơn và hàng hố nước ngồi tại nước đó rẻ hơn. Điều này dẫn đến những nhà sản
xuất trong nước đó gặp khó khăn hơn trong việc bán hàng của họ ở nước ngoài.
+ Khi đồng tiền rẻ của mỗi nước sụt giá thì hàng hố của nước đó tại nước
ngồi rẻ hơn trong khi hàng hố nước ngồi tại nước đó đắt hơn.
→ Những nhà sản xuất trong nước có ưu thế cạnh tranh trong việc bán hàng ở thị
trường nước ngoài, đồng thời hạn chế nhập khẩu.

2.1.4.

Cơ sở xác định tỉ giá hối đối:
* Trong lưu thơng tiền đúc bằng kim loại: tỷ giá được hình thành dựa trên trọng
lượng kim loại của các đồng tiền được so sánh với nhau.
* Trong chế độ tiền giấy được tự do chuyển đổi ra vàng: Tỉ giá được hình thành
dựa trên trọng lượng vàng theo luật định của các đồng tiền được so sánh với nhau.
Ví dụ: Trước năm 1970, nội dung vàng của một đồng bảng Anh (GBP) là
2.4888281 gram vàng nguyên chất, 1USD là 0.888671 gram vàng nguyên chất. Như
vậy 1GBP = 2.8 USD (2.488281: 0.888671).


* Ngày nay, khi giấy bạc ngân hàng của các nước không được tự do chuyển đổi ra
vàng: tỉ giá được hình thành dựa trên sức mua của các đồng tiền, hay còn gọi là ngang
giá sức mua.
2.1.5 Phân loại tỷ giá.
Tùy vào mục đích sử dụng, tỉ giá được phân chia theo các tiêu thức khác nhau.
2.1.5.1 Căn cứ vào phương tiện chuyển hối
* Tỉ giá điện hối: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ, cũng như các giấy tờ có giá bằng ngoại
tệ được chuyển bằng điện.
* Tỉ giá thư hối: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ, cũng như các giấy tờ có giá bằng ngoại
tệ được chuyển bằng thư.
2.1.5.2


Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại tệ

* Tỉ giá mở cửa: Là tỉ giá áp dụng cho việc mua bán món ngoại tệ đầu tiên trong
ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái.
* Tỉ giá đóng cửa: Là tỉ giá áp dụng cho mua bán món ngoại tệ cuối cùng trong ngày
làm việc tại các trung tâm hối đoái.
2.1.5.3.

Căn cứ vào phương thức mua bán, giao nhận ngoại tệ

* Tỉ giá giao nhận ngay: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng sẽ thực
hiện chậm nhất sau 2 ngày làm việc.
* Tỉ giá giao nhận có kì hạn: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng
được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định.
2.1.5.4. Căn cứ vào chế độ quản lí ngoại hối
* Tỉ giá hối đối chính thức: Là tỉ giá do Nhà nước cơng bố thường là Ngân hàng
Trung ương.
* Tỉ giá tự do: Là tỉ giá được hình thành tự phát và diễn biến theo quan hệ cung cầu
về ngoại tệ trên thị trường. Tỷ giá tự do hay còn gọi là tỷ giá trên thị trường chợ đen.
2.1.6 Chính sách tỉ giá hối đoái
2.1.6.1. Định nghĩa:


Là chính sách mà Ngân hàng Trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng
cách thay đổi lãi suất.
+ Khi tỉ giá lên cao, Ngân hàng Trung ương tăng cường bán ngoại hối ra thị trường
để kéo tỉ giá ngoại hối tụt xuống.
→ Ngân hàng Trung ương cần phải có dự trữ ngoại hối lớn.
+ Khi tỉ giá xuống, Ngân hàng Trung ương tiến hành thu mua ngoại hối trên thị

trường để đẩy tỉ giá ngoại hối tăng lên.
2.1.6.2. Phân loại chính sách tỷ giá.
* Chế độ tỉ giá cố định: Là chế độ tỉ giá mà Ngân hàng Trung ương buộc phải can
thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỉ giá biến động xung quanh một mức tỉ giá
cố định (gọi là tỉ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước.
→ Chế độ tỷ giá này giảm bớt rủi ro trong việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang
đồng tiền khác.
* Chế độ tỷ giá thả nổi an toàn: Là chế độ tỉ giá được xác định hoàn toàn tự do theo
quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có sự can thiệp của Ngân hàng
Trung ương.
→ Chế độ tỷ giá này giúp cho chính sách tiền tệ quốc gia được độc lập.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Là chế độ tỉ giá mà Ngân hàng Trung ương tiến
hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng đến tỉ giá nhưng không cam
kết duy trì một tỉ giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung tâm.
2.2. Lạm phát.
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho
chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. Lạm phát có
những đặc trưng là:
-

Hiện tượng gia tăng q mức của lượng tiền có trong lưu thơng dẫn đến đồng

tiền bị mất giá;
-

Mức giá cả chung tăng lên.


2.2.1. Phân loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các nhà

kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành 3 mức
độ khác nhau:
-

Lạm phát vừa phải:

Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ 1 con số hàng năm
( dưới 10% một năm ). Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát nước kiệu hay lạm phát
một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
-

Lạm phát cao:

Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hàng năm ( từ
10%-100% một năm). Lạm phát cao còn đươc gọi là lạm phát phi mã. Thật ra, cũng
có một số nhà kinh tế quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã bao gồm cả lạm
phát ở mức độ ba con số ( như 100%, 200%...). Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại
đến sự phát triển kinh tế-xã hội.
-

Siêu lạm phát:

Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở
lên. Siêu lạm phát cịn được gọi là lạm phát siêu tốc. Khơng có điều gì là tốt khi nền
kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát.
2.2.2.

Các


nguyên

nhân

gây

ra

lạm

phát.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát do
cầu kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.
Cân đối thu chi là điều khơng thể tránh khỏi khi xảy ra lạm phát.
-

Lạm

phát

do

cầu

kéo:

Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên
về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn
đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên



về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu kéo”.
-

Lạm

phát

do

chi

phí

đẩy:

Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả ngun liệu đầu vào,
máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố
này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì
thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là mức
giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.
-

Lạm

phát

do




cấu:

Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền cơng “danh nghĩa”
cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh không hiệu quả,
doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền cơng cho người lao động.
Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng tiền
công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để
đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
-

Lạm

phát

do

cầu

thay

đổi:

Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu về
một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá
cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà khơng thể giảm, như giá điện
ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn khơng giảm giá. Trong khi đó mặt
hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến
lạm

-

phát.
Lạm

phát

do

xuất

khẩu:

Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ
lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến
lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng
cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy


sinh
-

lạm
Lạm

phát

phát.
do


nhập

khẩu:

Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới
tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá
nhập

khẩu

-

đội
Lạm

lên

sẽ

hình

thành

phát

tiền

lạm

phát.

tệ:

Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương
mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay
do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền
trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
2.3.Mối quan hệ giữa tỷ giá với lạm phát
Lạm phát ảnh hưỏng như thế nào đến tỷ giá hối đoái?
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đối khơng
đổi, hàng hố dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng
hố dịch vụ nước ngồi rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư
dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu
tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đối tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngồi
sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị
trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu
ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đối tăng
nhanh hơn. Trên thị trưịng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ
chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ
giá hối đoái tăng.
Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ
thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát


cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái
tăng.
Khi mức độ phá giá của tiền tệ lớn hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ
gia tăng. Khi mức độ mất giá của tiền tệ thấp hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát
sẽ được hạn chế. Bởi vậy khi lạm phát trầm trọng, tăng tỷ giá có thể hạn chế được lạm
phát.” Quan hệ giữa tỷ giá hối đối và lạm phát khơng phải là quan hệ một chiều mà
là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và

cái kia là kết quả”.
Ví dụ mức tỷ giá hối đối năm 2010
1USD=19800VND
Đến năm 2013 là 1USD=21000VND,thì tất cả các sản phẩm nhập khẩu tính
thành tiền Việt Nam đều tăng giá, trong đó có nguyên vật liệu, máy móc cho sản xuất.
Nếu các yếu tố khác trong nền kinh tế khơng thay đổi , thì điều này tất yếu sẽ làm mặt
bằng giá cả trong nước tăng lên.

Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo (thậm chí cả
so với USD), lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng luẩn quẩn
theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này.
Việc nới lỏng biên độ tỷ giá chỉ có tác động nhất thời. Theo các chuyên gia của
Dragon Capital Ngân hàng Nhà nước đã dùng các công cụ chính sách thắt chặt tiền tệ
(thắt chặt cung tiền, thắt chặt tín dụng), áp đặt trần lãi suất vừa qua mang tính hành
chính và đã khơng có hiệu quả và khơng thể trì hỗn việc cải tổ chính sách tỷ giá. Do
thắt chặt tiền tệ đã xảy ra vấn đề thiếu thanh khoản, do bị áp trần lãi suất nên ngân
hàng khó thu hút được tiền trong dân cư, kích thích người dân đầu tư và giữ vàng
và/hay ngoại tệ. Các sàn giao dịch vàng đang đua nhau mở cửa là một dấu hiệu không


mấy lành mạnh. Hơn nữa nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu ngoại tệ càng cao.Nền kinh
tế bị càng bị đơ la hóa (và vàng hóa) hơn. Và USD khan hiếm là khơng khó hiểu. Các
ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi USD, khiến chênh lệch lãi suất USD ở trong
nước và ngồi nước ngày càng dỗng ra, điều này lại khuyến khích các dịng vốn
ngắn hạn (đầu cơ hay cho ngân hàng trong nước vay ngắn hạn) chảy vào gây áp lực
hơn nữa lên lạm phát.
Không thể dùng các biện pháp hành chính, khơng thể áp trần lãi suất vì làm
như vậy chỉ khiến cho tình hình khó khăn thêm và là lợi bất cập hại. Nên để cho lãi
suất phát huy tác dụng sàng lọc, lựa chọn của nó. Và cũng rất nên xem xét lại chế độ
tỷ giá hối đoái các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc

gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.


PHẦN II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ
HỐI ĐỐI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2008-2013
1.

Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
Tình hình lạm phát ở Việt Nam đang dần đi vào ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng

CPI trong tháng 9 đã giảm xuống chỉ còn 0,18% - mức thấp nhất kể tử đầu năm. Tuy
nhiên, nước ta vẫn đang ở trong tình trạng lạm phát phi mã. Vì vậy,kiểm sốt lạm phát
hiện nay vẫn là một trong những mục tiêu được ưu tiên hàng đầu của Chính phủ.
Trong thời gian qua, Chính phủ cũng đã sử dụng chính sách tỷ giá hối đối như 1
công cụ đề kiềm chế lạm phát. Mặc dù vậy, cũng phải nhận thấy rằng việc điều chỉnh
tỷ giá trong cịn có lúc chậm, bị động và chưa đủ mức. Trong điều kiện nền kinh tế
mới mở cửa từng phần, những hạn chế này phần nào đã không được bộc lộ và chưa
gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nếu tiếp tục để xảy ra như vậy trong
tương lai, khi Việt Nam đã mở cửa và hội nhập mạnh hơn thì hậu quả của một chính
sách tỷ giá kém linh hoạt sẽ có nguy cơ lấn át những tác động tích cực mà một chính
sách tỷ giá cố định tương đối tạo ra. Dưới góc nhìn của các chuyên gia kinh tế, Việt
Nam cần kiềm chế lạm phát bằng cách tăng cường hơn nữa các biện pháp trong chính
sách tỷ giá hối đối.
Tăng cường linh họat tỷ giá hối đoái. Hiện tại, biên độ dao động tỷ giá mới ở
Việt Nam chỉ là ±2% . Theo ý kiến của các chuyên gia, mức biên độ này vẫn còn
tương đối hẹp và chưa thật sự hiệu quả. Với tình hình ở lạm phát cao Việt Nam hiện
nay, NHTW nên nới rộng biên độ dao động của VNĐ, chiều rộng khung này có thể ở
mức 10%. Tuy nhiên, do tình hình lạm phát tăng cao nên biện pháp này chủ yếu nhằm
mục đích nâng giá VNĐ trong ngắn hạn. Giảm việc phát hành VNĐ làm cho cơ chế



thị trường tác động nhiều hơn nữa vào tỷ giá. Giảm sức ép lên lạm phát bằng việc
nâng giá VNĐ tương đối so với USD sẽ làm giảm giá nguyên vật liệu nhập khẩu .
Một điều băn khoăn lớn nhất hiện nay là tại sao chúng ta làm ra lương thực, thực
phẩm mà giá lại tăng cao như vậy. Nguyên nhân chính là do giá đầu vào như: xăng
dầu, giống, phân bón, thuốc trừ sâu... tăng và phần lớn những nguyên liệu đầu vào
này đều nhập khẩu. Vậy làm thế nào để chúng ta giảm giá lương thực, thực phẩm? Có
2 cách để giải quyết vấn đề này : Một là, tiến hành điều chỉnh tỷ giá tức là nâng giá
VNĐ trên thị trường ngoại hối. Hai là, phải tự sản xuất trong nước. Tuy nhiên, nền
kinh tế của nước ta hiện nay cịn phụ thuộc vào nước ngồi q nhiều. Vì vậy, chúng
ta chỉ có thể chọn giải pháp nâng giá VNĐ so với USD để giảm giá nguyên vật liệu
nhập khẩu, từ đó giảm được chi phí sản xuất, 1 trong 2 nguyên nhân chủ yếu gây ra
lạm phát trong thời gian vừa qua. VND tăng giá sẽ tăng cung hàng nội địa, góp phần
giảm khan hiếm hàng hóa trong nước hiện nay .Khi lượng cung hàng tăng, lạm phát
cũng sẽ giảm dẫn đến việc thay đổi tỷ giá có khả năng hạn chế xuất khẩu nhằm bảo vệ
sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của nước ngoài. Đồng thời việc thay đổi tỷ
giá theo hướng ngăn chặn việc nhập khẩu tràn lan những hàng hoá, dịch vụ mà trong
nước có khả năng sản xuất được, góp phần giảm bớt căng thẳng về cầu ngoại tệ phục
vụ cho nhập khẩu trên thị trường ngoại hối. Việc linh hoạt chính sách tỉ giá sẽ giúp
NHNN hạn chế được lượng cung tiền vào thị trường . Tỷ giá tăng tạo điều kiện thuận
lợi cho để thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm bớt nhu cầu VND, điều này sẽ
làm giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế. Mặt khác, lượng USD
mà các ngân hàng mua vào cũng sẽ có được đầu ra do nhu cầu USD của các doanh
nghiệp để nhập khẩu hàng hóa, ngun, vật liệu. Lượng USD trong lưu thơng sẽ
giảm, Ngân Hàng Trung Ương sẽ khơng lo lắng vì phải bỏ VND ra để mua USD nữa.
Giúp chọn lọc vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có một số
triệu chứng tiền khủng hoảng như: yếu kém về hệ thống tài chính, bong bóng bất
động sản, tỷ giá neo... Ở Việt Nam nay, VND bị neo cứng nhắc với đồng USD đang



mất giá toàn diện trên thế giới là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhập
khẩu chi phí đầu vào cao. Dẫn đến lạm phát cũng tăng theo mà NHNN sẽ khơng kiểm
sốt được. Chính vì vậy NHNN cần phải nâng tỷ giá ngoại hối lên để kịp thời kiểm
sốt lạm phát.Những nhà đầu tư nước ngồi đang giữ vốn bằng VND lên giá sẽ khơng
có ý định rút vốn ra khỏi VN. Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế VN chưa hấp
thu hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngồi, nếu VND lên giá sẽ có thể giảm lượng
ngoại tệ chảy vào VN. Nó có tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư lâu dài thực sự
có hiệu quả cao, hạn chế được những nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn.
Tất nhiên về dài hạn, VN sẽ có chính sách phù hợp để có thể thu hút vốn nước ngồi
khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần là lạm phát trong tầm kiểm soát. Linh hoạt
tỷ giá để VNĐ tăng giúp giải quyết cả 2 nguyên nhân gây lạm phát là chi phí sản xuất
tăng và lượng cung tiền lớn. Nó vừa có tác dụng ngắn hạn vừa có tác động dài hạn do
vậy chính là sự lựa chọn đúng đắn và cần thiết cho Việt Nam trong việc chống lạm
phát hiện nay.
2.

Thực trạng lạm phát ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong các giai
đoạn.
2.1.

Giai đoạn 2008-2010.

Năm 2008 được giới phân tích tài chính coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với những
biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mơ, cung cầu
ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn.


Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa
từng có trong lịch sử. Tỷ giá liên tục tăng giảm,cụ thể ở từng giai đoạn sau:
Giai đoạn từ tháng 01/01-25/03/2008: Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và

NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt,
tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008).
NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông,
tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.Tỷ
giá liên tục giảm,dưới mức sàn.
Tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức
16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị
trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD
Giai đoạn 2 (từ 26/03 – 16/07/2008): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt
USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.Trong giai đoạn này, tỷ giá


tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400
đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần, còn trên TTTD cao
hơn khoảng 100-150 đồng, sau đó dịu lại khi NHNN nới biên độ từ 1% lên +/2%(27/6) và kiểm soát chặt các bàn thu đổi.
Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của
doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ
của giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu
đến hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và
quốc tế.

Giai đoạn 3 (từ 17/07 – 15/10/2008): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
Tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch
bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11
Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng.
Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN
đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị
trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.
Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn
thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại

tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua
ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán
ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến hết năm 2008): tỷ giá USD tăng trở lại.


Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là
16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế,
cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày
7/11/2008, tăng tới mức 1 7.440 đồng/USD.
Sang năm 2009 tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu
năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ
giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức
18000đồng/USD. Trong bối cảnh nguồn ngoại tệ ròng vào VN là + trong 4 tháng đầu
năm thì dường như yếu tố chính khiến cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh lại là do sự
găm giữ ngoại tệ.
Một mặt lạm phát ảnh hưởng đến cuộc sống của bộ phận dân cư nói chung và
nền kinh tế nói riêng khiến các doanh nghiệp phải ngừng sản xuất – thậm chí bị phá
sản ra khỏi thị trường, lao động thì sa thải hàng loạt, các cơng ty – doanh nghiệp đành
phải rút bớt khoản chi phí đó là chi phí nhân cơng và các khoản chi phí khác để làm
sao cho doanh nghiệp không bị nợ nần năm 2009. Đặc biệt, mối quan hệ kinh tế quốc
tế - trao đổi hàng hóa với nhau cũng ảnh hưởng khơng kém, trong đó lạm phát tác
động mạnh đến các đồng tiền mạnh trên thế giới, đây chính là mối lo ngại nhất trên
nền kinh tế, một đồng tiền được coi nhẹ so với các đồng tiền khác thì chứng tỏ giao
thương kinh tế với nhau rất khó khăn và sản xuất cũng trở nên kém hiệu quả hơn. Vì
vậy làm phát đã làm cho đồng tiền của chúng ta (VND/USD) thấp cho với đồng USD
chúng ta đành phải phá giá đồng tiền của mình để tăng sản xuất trong năm 2009,
chúng ta hai lần bị phá giá đồng tiền của chính mình, ngân hàng nhà nước đã điều
chỉnh tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày
25/12/2008 lên mức 16.989đ/USD và hiện nay 17/04/2009 là 18.544đ/USD nhằm tạo

mặt bằng tỷ giá mới sẽ góp phần hỗ trợ xuất khẩu, kiểm sốt nhập siêu và đảm bảo sự
bền vững của cán cân thanh toán quốc tế, đồng thờ hạn chế tâm lý kỳ vọng tỷ giá sẽ


tăng cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh ổn
định. NHNN sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết để giữ ổn định mức tỷ giá này. Từ
ngày 07/11/2008, biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND được mở rộng từ mức 2% lên
3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN Việt Nam công bố (quyết định
2635/QĐ-NHNN ngày 06/11/2008).
Trong năm 2009: Trong bối cảnh kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh
tế thế giới, mức độ tự do hóa các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của các
luồng vốn đầu tư, đặc biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung cầu
ngoại tệ và tỷ giá. Luồng vốn đầu tư gián tiếp đã liên tục biến động, khiến cho cung
cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn này gia tăng đáng kể trong 3 thàng đầu năm, gây
áp lực tăng giá VND, sau đó có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu ngoại tệ khi tình hình
kinh tế thế giới tiếp tục khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu
tăng cao. Sau khi có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại do kinh tế vĩ mô Việt Nam diễn biến
khả quan, trong các tháng cuối năm tình trạng khủng hoảng thị trường tài chính quốc
tế lại khiến cho các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn về nước để bảo đảm thanh tốn
của các tổ chức ở chính quốc.
Lạm phát là sự giảm sức mua của đồng tiền so với hàng hóa và dịch vụ trong
nước, và là sự giảm giá đồng nội tệ so với ngoại tệ chuẩn (là phương tiện thanh tốn,
tích trữ quốc tế). Lạm phát ở Việt Nam chịu tác động từ 5 nguyên nhân chính sau: Kỳ
vọng lạm phát (ví dụ do tỷ giá tăng, vàng lên giá, lãi suất trái phiếu chính phủ ở mức
cao…); Tiền tệ (do tăng cung tiền trong lưu thông…); Cầu kéo (do tổng cầu cao hơn
tổng cung…); Chi phí đẩy (do tăng giá nhập khẩu nguyên vật liệu …); Đình đốn sản
xuất (do chi phí vốn cao trong một thời gian dài…)


Việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không công bố một cách rõ ràng về định

hướng chính sách tiền tệ (nới lỏng hay thắt chặt) và tỷ giá đã tạo cơ hội cho việc dự
đốn chính sách một cách chủ quan, thiếu cơ sở, tạo tâm lý không ổn định cho cộng
đồng doanh nghiệp và dân cư. Điều này thường bị lợi dụng để đẩy giá hàng hóa (bao
gồm cả USD và vàng) lên cao hơn và kỳ vọng lạm phát theo đó cũng gia tăng. Một
trong những động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng ở Việt Nam là đầu tư. Do
hiệu quả đầu tư còn thấp nên việc gia tăng đầu tư được gắn với tăng cung tiền. Năm
2009, mức cung tiền M2 tăng 28,7%; tín dụng tăng 37,7%, trong khi GDP chỉ tăng
5,32%. Cung tiền năm 2010 đã bị hạn chế hơn, chỉ còn tăng 21,7%, nhưng vẫn cao
hơn kế hoạch (20%), và dẫn đến đồng tiền bị mất giá mạnh trong năm.
Năm 2010, tổng cầu tăng đột biến đối với một số mặt hàng do Việt Nam có sự
kiện đại lễ 1000 năm Thăng Long, lại phải chịu nhiều đợt thiên tai bão lũ lịch sử.
Trong khi sản xuất hàng hóa trong nước khó được đẩy mạnh do chi phí vốn cao, việc


nhập khẩu hàng hóa cũng bị tác động tiêu cực bởi tỷ giá, tổng cầu cao hơn tổng cung
khiến lạm phát tiếp tục gia tăng.
Sau thời kỳ suy thoái, kinh tế thế giới đang dần ổn định trở lại. Hầu hết các
quốc gia đều có tăng trưởng GDP dương trong năm nay. Cùng với kỳ vọng hồi phục
của nền kinh tế thế giới, giá hàng hóa tiếp tục gia tăng. Do Việt Nam phải nhập khẩu
nhiều loại nguyên vật liệu, phụ liệu cho sản xuất nên việc giá cả hàng hóa thế giới
tăng

đã

góp

phần

gia


tăng

chi

phí

đẩy.

Sự tắc nghẽn dịng vốn hiện nay cũng là nguyên nhân quan trọng làm gia tăng
lạm phát. Để tăng hiệu quả hoạt động, ngân hàng (khi không thể giảm được lãi suất


đầu vào) phải tìm cách tăng lãi suất đầu ra thơng qua nhiều hình thức như thu thêm
phí, lệ phí…Nguy hiểm hơn, ngân hàng buộc phải chấp nhận cấp tín dụng cho các
khoản vay có rủi ro cao (cùng với kỳ vọng sẽ có lợi nhuận cao) như bất động sản,
chứng khốn. Nguồn vốn - vốn đã ít - lại không đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh
mà chuyển vào kênh đầu cơ không sinh ra giá trị gia tăng cho xã hội. Sự lãng phí
nguồn vốn này khiến cho chi phí đầu vào của doanh nghiệp bị đội cao, gây đình đốn
sản xuất.
Để có thể tính tốn được mức tỷ giá hợp lý cần phải có thơng tin về tình hình
cung cầu (VND/USD) thực tế và dự đốn chính xác về diễn biến cung - cầu trong
tương lai. Do còn tồn tại đồng thời 3 thị trường tỷ giá: tỷ giá chính thức do NHNN
cơng bố, tỷ giá liên ngân hàng do các ngân hàng tự giao dịch với nhau; và tỷ giá chợ
đen, nên việc xác định tổng cung - tổng cầu tại mỗi thời điểm là khơng thể thực hiện
được. Dự đốn cung cầu trong tương lai cũng khơng thực hiện được do Việt Nam
chưa có thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai, cả về hàng hóa lẫn tiền tệ. Ngồi
ra, do đồng VND chưa tự do chuyển đổi nên các hợp đồng kỳ hạn tiền gửi không giao
dịch (NDF - non deliverable forward) hầu như khơng thể dùng để dự đốn tỷ giá
trong tương lai. Mặc dù vậy, có thể xác định sơ bộ tỷ giá hối đối thơng qua chênh
lệch lạm phát giữa Việt Nam và một quốc gia chuẩn, do về thực chất tỷ giá hối đoái

thể hiện tương quan sức mua giữa hai đồng tiền. Tuy nhiên, tỷ giá hối đối ở Việt
Nam khơng được thả nổi theo tín hiệu thị trường mà được điều chỉnh linh hoạt theo
“định hướng” của NHNN. Vì vậy, NHNN có thể can thiệp thị trường dựa trên kho dự
trữ ngoại hối của mình - độ lớn của kho này lại là một con số không được công bố.
Do vậy, không thể định lượng tỷ giá hối đối, nhưng có thể định tính rằng đồng VND
sẽ còn được điều chỉnh giảm do các nguyên nhân: Thâm hụt thương mại kéo dài;
Thâm hụt cán cân thanh tốn tổng thể năm nay lớn, có thể lên đến 4 tỷ USD; Dự trữ
ngoại hối của Việt Nam ở mức thấp; Kỳ vọng tỷ giá còn tăng (dù chênh lệch lãi suất


tiền gửi VND và USD lên đến 7 - 8% nhưng các tổ chức, cá nhân vẫn hạn chế bán
ngoại tệ cho ngân hàng); Bội chi ngân sách lớn, nợ công cao.
Trong năm 2010 ngân hàng Nhà nước đã 2 lần điều chỉnh tỷ giá giao dịch bình
quân liên ngân hàng, tổng cộng hơn 5,5% so với USD. Tỷ giá chợ đen đạt đỉnh
21.400 VND/USD, vượt giá trần chính thức hơn 10%. Việc tỷ giá trên thị trường tự
do tăng liên tục trong năm qua không chỉ là một hoạt động đầu cơ thuần túy, mà cho
thấy một thực trạng rằng đồng VND hiện nay vẫn chưa phản ảnh chính xác (dù là chỉ
là tương đối) giá trị của nó. Để tỷ giá có thể diễn biến ổn định, có định hướng, còn
cần nhiều thời gian (để tạo ổn định tâm lý) cũng như cơng cụ (để có thể đủ sức tác
động, can thiệp thị trường).

2.2.

Giai đoạn 2011-2012.
Khởi đầu năm 2011, kinh tế vĩ mô trong nước phải đương đầu với những bất

ổn lạm phát, tỷ giá… vốn đã khởi phát từ giai đoạn trước đó.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước trong hai tháng 1 và 2 đều duy trì mức tăng kỷ lục
lần lượt là 1.74% và 2.09%, khá cao so với kỳ vọng. Điều này đã phần nào hé lộ bức
tranh kém tươi sáng về tình hình lạm phát trong năm 2011. Nói cách khác, lạm phát

sẽ tiếp tục là thách thức đáng kể nếu không có những biện pháp hữu hiệu để kiềm
chế.
Bất ổn tỷ giá cũng là vấn đề nhức nhối mà cơ quan quản lý phải đối mặt. Tình
trạng tỷ giá USD/VND giao dịch trên thị trường tự do luôn lớn hơn tỷ giá niêm yết
khoảng 8% đã kéo dài trong khoảng 4 tháng trước đó.
Ngày 11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành văn bản số 74/TBNHNN, nâng tỷ giá liên ngân hàng USD/VND thêm 9.3%, từ 18,932 lên 20,693


VND/USD và thu hẹp biên độ dao động từ 3% xuống còn 1%. Đây là lần nâng tỷ giá
USD/VND đầu tiên kể từ ngày 18/8/2010.

Bảng 1: Biến động tỷ giá liên ngân hàng USD/VND trong năm 2011.
Sau quyết định điều chỉnh tỷ giá, vào ngày 18/2, NHNN tiếp tục nâng lãi suất
tái cấp vốn thêm 2% lên 11%, mức cao nhất trong 2 năm. Thêm vào đó, các lãi suất
cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ của NHNN cũng được điều chỉnh tăng.
Việc tăng lãi suất này là một thông điệp rõ ràng cho thấy NHNN đang thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, và sau đó đã tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngoài
ra, động thái này cũng nhắm đến một mục tiêu khác là ổn định tỷ giá.
Từ tháng 2.2011 tới nay tỷ giá bình quân liên ngân hàng thay đổi trong phạm vi rất
hẹp, trong khi chỉ số CPI đã tăng thêm hơn 10%. Đây sẽ là một sức ép rất lớn lên tỷ
giá vào cuối năm nay và đầu năm 2012.


Trong năm 2012, lượng dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước tăng thêm 15
tỷ USD, yếu tố giảm tổng cầu đã giúp cho tỷ giá Việt Nam năm 2012 ổn định.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu sấp sĩ ở mức
114,3 tỷ USD, lượng kiều hối ước khoảng 10,5 tỷ USD là liều thuốc tiếp sức quý báu
cho tình trạng sức khỏe kinh tế khá nhạy cảm năm 2012. Lần đầu tiên kể từ năm
2007, cán cân thanh toán tổng thể trong năm 2012 đã thặng dư 10 tỷ USD. Tình trạng

xuất siêu xảy ra trong năm qua là hệ quả biểu hiện của một nền kinh tế suy giảm, hơn
là dấu hiệu tích cực của tăng trưởng xuất khẩu. Bởi nền kinh tế Việt Nam phát triển là
nhờ vào xuất khẩu, nhưng cơ cấu xuất khẩu lại chủ yếu phụ thuộc vào nguyên vật liệu
nhập khẩu. Cả năm 2012, biên độ điều chỉnh tỷ giá tối đa được ghi nhận là +1%, tỷ
giá bình quân liên ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên ở mức 20.828
VND/USD.
2.3.

Giai đoạn những tháng đầu năm 2013.

“Hướng điều hành tỷ giá năm 2013 sẽ giống như năm 2012. Lạm phát là một nỗi ám
ảnh kinh hoàng đối với nền kinh tế èo uột như Việt Nam, do đó các đề nghị phá giá
đồng nội tệ so với USD sẽ nhanh chóng bị bác bỏ vì mục tiêu kiềm chế lạm phát...”
Xu hướng diễn biến của lạm phát trong năm 2013 vẫn còn mịt mù nhiều ẩn số.
Tuy nhiên, có lẽ khơng q sớm khi đưa ra những tiên liệu về hướng đi của chính
sách điều hành tỷ giá hối đối năm nay.
Tình trạng lạm phát năm 2013 sẽ thể hiện nhiều qua CPI (chỉ số giá tiêu dùng)
trong 2 tháng đầu năm. Tháng 1/2013, CPI đã tăng 1,25%; CPI của tháng 2 chỉ tăng
1,32%. Tính trong vòng 10 năm qua, CPI tháng 2/2013 đứng thứ hai về mức tăng
thấp, khi chỉ cao hơn tháng 2/2009 (1,2%). Cần phải thấy rằng, nguyên nhân chỉ số
giá tiêu dùng tháng 2/2013 tăng thấp là do sức mua thấp, người tiêu dùng không thể
mạnh tay chi tiêu; đây là hệ lụy từ việc 52.000 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân


đã giải thể hoặc phá sản. Các doanh nghiệp còn hoạt động thì chỉ sản xuất được từ
30% đến 40% công suất, thu nhập của người lao động giảm trong năm qua.
Giữa tỷ giá hối đối và lạm phát có tác động cộng hưởng. Chẳng hạn, căn cứ
theo mơ hình định lượng mà giới nghiên cứu tài chính Việt Nam thường sử dụng, nếu
phá giá đồng nội tệ 1% sẽ tác động làm tăng CPI trong ngắn hạn khoảng 0,65% với
độ trễ khoảng 3 tháng (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi). Nếu điều chỉnh

tỷ giá USD/VND ở mức tăng 3 - 4% sẽ gián tiếp làm tăng CPI ở mức 1,95 - 2,60%
với độ trễ khoảng 3 tháng. Ngoài ra, mức độ lạm phát của Việt Nam liên quan với
nhiều biến số khác nhau, chẳng hạn như tình hình kinh tế thế giới. Dự báo về tương
lai kinh tế thế giới khơng giống nhau. Có ý kiến cho rằng, hiện đã có những dấu hiệu
cho thấy sự cải thiện của nền kinh tế thế giới, riêng khu vực Á châu đã có những bước
đi vững vàng hơn. Tuy nhiên, cũng có ý kiến như Ngân hàng Trung ương Hàn quốc
(BOK) thì nhận định trong năm 2013, tình trạng kinh tế yếu kém sẽ kéo dài ở khu vực
sử dụng đồng euro và kinh tế Mỹ chậm phục hồi. Một nền kinh tế còn lệ thuộc nhiều
vào xuất khẩu như Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp từ mức độ hồi phục của kinh tế
thế giới.
Tự bản thân tỷ giá không quyết định được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, vì nếu
xem kim ngạch xuất khẩu là một hàm nhiều biến, thì tỷ giá hối đối chỉ là một biến
số. Và cần phải nhận định rằng, các tuyên bố giữ ổn định tỷ giá ngoại tệ cũng khơng
hẳn chỉ có mặt tích cực, mặt trái của chủ trương này là sẽ kích hoạt luồng tiền nóng từ
bên ngoài vào Việt Nam để hưởng chênh lệch lãi suất và tận dụng bảo hiểm tỷ giá
“miễn phí”.
Năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã mua ròng 15 tỷ USD và tiếp tục mua ròng
5 tỷ USD trong khoảng thời gian từ đầu năm 2013 đến trước Tết Nguyên đán, nâng
dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức cao nhất từ trước tới nay. Tự số liệu lượng dự trữ
ngoại hối năm 2012 tăng gấp đối so với năm 2011 và tiếp tục mua trong hai tháng đầu
năm 2013 đã phản ánh VND đã và đang chịu sức ép tăng giá so với USD, động thái


Ngân hàng Nhà nước liên tục phải mua USD cần nhận định đã là một phương cách
giữ cho VND không tăng giá gây bất lợi cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến phá giá đồng nội tệ không hẳn lúc nào cũng
xuất phát từ nhu cầu mua ngoại hối hoặc các bức bách về thanh khoản ngoại tệ trong
hệ thống ngân hàng. Mặt khác, lượng dự trữ ngoại hối khoảng 20,9 tỷ USD (tính đến
cuối tháng 12/2012) của Việt Nam chỉ là con số khiêm tốn so với các nước trong khu
vực. Theo số liệu đăng công khai của CIA (Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ), ở

cùng thời điểm, dự trữ ngoại hối của Malaysia là 140,4 tỷ USD (với dân số 29 triệu
người); Singapore có 253,3 tỷ USD (với dân số hơn 5 triệu người); Thái Lan có 172,8
tỷ USD (với 67 triệu người); Philippin có 80,58 tỷ USD (với 103,7 triệu người).
Nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế trong hồn cảnh khơng ổn định, giải pháp định giá
thấp đồng nội tệ hay được các chính phủ đem ra sử dụng. Phá giá đồng nội tệ là một
hình thức áp thuế tinh vi lên người làm công ăn lương.
Trước mắt, việc đưa VND ra mua USD để giữ ổn định giá nội tệ mà vẫn kiểm
soát được lạm phát là cực kỳ khó. Quan điểm kiên trì kiềm chế lạm phát thể hiện rõ
trong năm 2012 đã thắng thế. Có lẽ biên độ điều chỉnh tỷ giá hối đoái năm 2013 chỉ ở
mức +/- 3%. Trong cuộc phỏng vấn ngày 22/2 vừa qua ở Cổng Thông tin điện tử
Chính phủ, ngay Thơng đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cũng xem lạm
phát là một nguy cơ có nhiều yếu tố sẽ xuất hiện trong năm 2013. Kiềm chế lạm phát
thấp hơn là một trong những mục tiêu kinh tế của chính phủ Việt Nam trong năm
2013. Sau hết mọi vấn nạn, vào thời điểm đầu năm hiện nay đã xuất hiện hoàn cảnh
thuận lợi cho lĩnh vực tài chính của Việt Nam. Với lượng dự trữ ngoại tệ khả dĩ, lãnh
đạo Ngân hàng nhà nước có thể chủ động điều chỉnh tỷ giá theo nhiều hướng: giảm,
giữ ổn định, hay để VND tăng giá so với USD.


×