Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.91 KB, 104 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>THUỐC (LỖ TẤN)</b>
1. Tác giả
+ Lỗ Tấn (1881-1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh
Chiết Giang, miền Đông Nam Trung Quốc. Ông là nhà văn cách mạng lỗi lạc của
Trung Quốc thế kỉ XX. “Trước Lỗ tấn chưa hề có Lỗ Tấn; sau Lỗ Tấn có vơ vàn
Lỗ Tấn” (Quách Mạt Nhược)
+ Tuổi trẻ của Lỗ Tấn đã nhiều lần đổi nghề để tìm một con đường cống hiến
cho dân tộc: từ nghề khai mỏ đến hàng hải rồi nghề y, cuối cùng làm văn nghệ
để thức tỉnh quốc dân đồng bào. Con đường gian nan để chọn ngành nghề của
Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại, vừa nói lên
tâm huyết của một người con ưu tú của dân tộc.
+ Quan điểm sáng tác văn nghệ của Lỗ Tấn được thể hiện nhất quán trong toàn
bộ sáng tác của ông: phê phán những căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân
mê muội, tự thoả mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa
sổ”.
+ Tác phẩm chính: AQ chính truyện (Kiệt tác của văn học hiện đại Trung Quốc
và thế giới), các tập Gào thét, Bàng hoàng, Truyện cũ viết theo lối mới, hơn chục
tập tạp văn có giá trị phê phán, tính chiến đấu cao
2. Hồn cảnh sáng tác truyện Thuốc
Thuốc được viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ. Đây là
thời kì đất nước Trung Hoa bị các đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé.
Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa, nhưng nhân dân lại
an phận chịu nhục. “Người Trung Quốc ngủ mê trong một cái nhà hộp bằng sắt
khơng có cửa sổ” (Lỗ Tấn). Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thoả mãn, cản trở
Gia đình lão Hoa Thun có đứa con trai “mười đời độc đinh” bị bệnh ho lao. Một
đêm mùa thu gần về sáng , Lão Hoa đem số tiền vợ chồng dành dụm được ra
pháp trường , gặp đao phủ mua một cái bánh tẩm máu tử tù về cho thằng
sức kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vịng hoa. Mẹ Hạ Du lẩm bẩm “
Thế này là thế nào nhỉ ?”
II – Phân tích :
1-Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người:
Nhan đề thiên truyện là Thuốc (nguyên văn là Dược) . Thuốc ở đây chính là
chiếc bánh bao tẩm máu người mà lão Hoa đã mua về cho thằng Thuyên ăn để
chữa bệnh lao.Nhan đề này có nhiều nghĩa .
Nghĩa tường minh , chỉ phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm
máu người . Đây là một phương thuốc mê tín, lạc hậu tương tự như hai vị thuốc
mà ông thầy lang đã bốc cho cho bố Lỗ Tấn để chữa bệnh phù thủng là rễ cây
mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực , con cái dẫn đến cái chết
của ông cụ.
Nghĩa hàm ẩn , đó là phương thuốc để chữa bệnh tinh thần : căn bệnh gia
trưởng , căn bệnh u mê lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc .
Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và gia trưởng đã áp đặt cho nó một phương
thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người dẫn đến cái chết của nó . Rồi tất cả đám
-Tầng nghĩa thứ ba của Thuốc , của chiếc bánh bao tẩm máu người là phương
thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của người dân Trung
Quốc ( đám đông quần chúng khơng hiểu gì về Cách mạng nên mới xem HD là
giặc …) và căn bệnh xa rời quần chúng của người cách mạng Trung Quốc thời
bấy giờ . Hạ Du vì xa rời quần chúng nên sự hi sinh của anh thật đáng thương
hại. Tóm lại: Nhan đề truyện và hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã thể
hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa
thời cận đại : nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” còn người
cách mạng thì “bơn ba trong chốn quạnh hiu”
2- Các nhân vật:
a-Hình ảnh đám đơng quần chúng:
-Khi trời sáng hẳn, ở quán trà đã đông khách của lão Hoa , Cậu Năm Gù ,Cả
Khang ,người râu hoa râm…cùng bàn tán về : công hiệu của bánh bao tẩm máu
người có thể chữa bách bệnh, họ tin rằng thằng Thuyên ăn vào “thế nào cũng
khỏi”. Họ rất hăng say bàn về cái chết của Hạ Du với thái độ miệt thị. Họ cho anh
là cái “thằng khốn nạn”, “hắn điên thật rồi”.Và họ cho rằng trong cái chết của Hạ
Du có hai người gặp may . May nhất là Cụ Ba nhờ tố cáo cháu mình nên được
thưởng một số tiền lớn mà gia đình khỏi bị liên luỵ, cịn lão Hoa thì có máu Hạ
Du để chấm bánh bao làm thuốc chữa bệnh cho thằng Thuyên. Tóm lại, qua hai
sự việc trên,và bằng ngôn ngữ của người kể chuyện , ta thấy đám đông quần
chúng thật là mê muội về khoa học. Sự hiểu biết và thái độ của họ về những vấn
đề của đất nước,về bệnh tật ,về cuộc đời cịn q hạn chế. Nói như Lỗ Tấn thì
b-Nhân vật Hạ Du: Nhân vật Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà
được giới thiệu thông qua các nhân vật khác và qua thái độ của người kể
chuyện . Hạ Du là một người yêu nước , một nhà cách mạng tiên phong , dũng
cảm xả thân vì nghĩa lớn. Nhưng anh rất cô đơn ,không ai hiểu anh kể cả mẹ
anh .Anh đã đổ máu vì quần chúng thế mà họ lại lấy máu anh để tẩm bánh bao
chữa bệnh lao. Hạ Du chính là hình ảnh tượng trưng của cuộc cách mạng Tân
Hợi, một cuộc cách mạng góp phần đánh đổ chế độ phong kiến Trung Quốc
nhưng lại xa rời quần chúng nên thất bại.Qua hình tượng Hạ Du ,Lỗ Tấn muốn
bày tỏ lịng kính trọng với cuộc cách mạng này. Ta cũng thấy nhân vật Hạ Du là
một người yêu nước nhưng anh cũng thật cô đơn .
3-Cảnh hai bà mẹ đi thăm mộ con: Các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng: a.
Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người: “Bánh bao tẩm máu người”, nghe
như chuyện thời trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước Trung Hoa trì trệ. Tầng
nghĩa thứ nhất - nghĩa đen của tên truyện là: thuốc chữa bệnh lao. Thứ mà ông
bà Hoa Thuyên xem là “tiên dược” để cứu mạng thằng con “mười đời độc đinh”
đã khơng cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó - đó là thứ thuốc mê tín.
+ Trong truyện, bố mẹ thằng Thuyên đã áp đặt cho nó một phương thuốc quái
gở. Và cả đám người trong quán trà cũng cho rằng đó là thứ thuốc tiên. Như
vậy, tên truyện cịn hàm nghĩa sâu xa hơn, mang tính khai sáng: đây là thứ
thuốc độc, mọi người cần phải giác ngộ ra rằng cái gọi là thuốc chữa bệnh lao
được sùng bái là một thứ thuốc độc. Người Trung Quốc cần phải tỉnh giấc,
không được ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt khơng có sửa sổ.
của hi sinh. Tên truyện vì thế mang tầng nghĩa thứ ba: Phải tìm một phương
thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó
b. Hình ảnh con đường: Tác giả cịn phác họa hình ảnh con đường dẫn đến khu
nghĩa địa này : có một con đường mịn ở giữa chia làm hai: Ở giữa có con
đường nhỏ hẹp , cong queo, do những người hay đi tắc dẫm mãi thành đường.
Nghĩa địa người chết chém phía bên trái nghĩa địa người nghèo phía bên phải
.Con đường mòn là biểu tượng cho một tập quán xấu đã trở thành thói quen. Là
cái ranh giới tự nhiên để phân cách ngăn cách giữa những người chiến sĩ cách
mạng như Hạ Du với quần chúng , như gia đình Hoa Thuyên , cả Khang ,Năm
Gù ... Không chỉ sống họ mới cách biệt nhau mà cho đến khi chết họ cũng cách
biệt nhau bởi con đường mòn nhỏ hẹp , cong queo ấy c. Vòng hoa trên mộ Hạ
Du - Cả hai bà mẹ cùng rất kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vịng hoa :
“hoa trắng hoa hồng nằm khoanh trên nấm mộ khum khum…
+ Việc làm của Hạ Du đã khiến mọi người phải suy nghĩ một cách nghiêm
túc.Với vòng hoa, Lỗ Tấn đã bày tỏ sự trân trọng và tiếc thương đối với người
chiến sĩ cách mạng tiên phong. Đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng của ơng
với cuộc cách mạng Tân Hợi.
+ Rõ ràng vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du như muốn khẳng định một chân lý lịch
sử và cách mạng: Trong trạng thái mê muội, tê liệt của quần chúng thuở ấy, vẫn
có người nhớ đến, tiếc thương ngưỡng mộ và quyết tâm noi gương người cách
mạng tiên phong đã ngã xuống vì đại nghĩa. Vòng hoa thể hiện cho xu thế cách
mạng, cho niềm lạc quan đối với tiền đồ cách mạng. Vòng hoa trong truyện
“Thuốc” là một dự cảm về con đường bão táp, một tia lửa hôm nay sẽ báo hiệu
một đám cháy ngày mai!
+ Vòng hoa trên mộ Hạ Du: Có thể xem vịng hoa là cực đối lập của “chiếc bánh
bao tẩm máu”. Phủ định vị thuốc là bằng chiếc bánh bao tẩm máu, tác giả mơ
ước tìm kiếm một vị thuốc mới- chữa được cả những bệnh tật về tinh thần cho
toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải
hiểu rõ “ý nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.
giả đã so sánh ngôi mộ ở nghĩa địa Cổ Thiên Ðình Khẩu : như những chiếc bánh
bao của người giàu trong ngày mừng thọ.
Nghĩa thứ nhất đầy thương cảm: người chết nhiều ( chết vì lạc hậu u mê, tăm
tối) Nghĩa thứ hai: Ðây là lối so sánh rất sâu rất đau , hàm chứa một ý nghĩa tố
cáo rất gay gắt . Lối so sánh này cũng tạo nên một sự đối lập để làm nổi bật sự
tham lam tàn ác của giai cấp thống trị . Những người nằm dưới những ngôi mộ
này như cu Thuyên và Hạ Du đều là những người chết trẻ , chết non ,chết yểu .
Vậy mà mộ của họ lại được so sánh như như những chiếc bánh bao của những
kẻ giàu có , sống lâu trong ngày mừng thọ . Một đằng là chết non , chết yểu ,
một đằng là mừng thọ sống cao tuổi .Ðó là sự đối lập hồn tồn . Từ đó tác giả
tố cáo tội ác của giai cấp thống trị : sống phè phỡn , sống sung sướng trên
xương xương máu của những người nghèo và chiến sĩ cách mạng . Nghĩa thứ
ba: Phê phán người dân TQ u mê về chính trị, khơng biết phân biệt đâu chính
đâu tà. Họ đã để mộ Hạ Du chung với những kẻ chết chém vì ăn cướp. e. Thời
gian nghệ thuật của truyện Tiến triển từ mùa thu Hạ Du bị hành hình đến mùa
xuân trong tiết thanh minh năm sau lúc hai bà mẹ đi thăm mộ con.Cái chết của
hai người con cũng như chiếc lá rời cành để tích nhựa cho một mùa xuân hi
vọng.. . dự báo về một tương lai sáng sủa cho cách mạng Trung Hoa. Thời gian
nghệ thuật trong truyện “Thuốc” vận động từ mùa thu đến mùa xuân, từ lúc tử tù
bị chém, thằng Thuyên ho lao rồi chết đến tiết thanh minh, trên ngơi mộ Hạ Du
có vịng hoa, một thằng Thuyên và những nấm mộ khác “lác đác vài nụ hoa bé
tý, trăng trắng, xanh xanh”, trên cành dương liễu đã đâm ra “những mầm non
Trong dịng văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Chí Phèo có lẽ là tác phẩm
thành cơng hơn cả trong việc đem lại cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ,
không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất
của con người, khơi dậy lòng căm ghét cái xã hội vạn ác đã chà đạp lên nhân
phẩm con người, thương xót, cảm thơng với những thân phận cùng đinh bị giày
vị, tha hóa trong chế độ cũ.
trực tiếp miêu tả q trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó cũng là một hiện
thực phổ biến. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con
người: con người khơng được là chính mình, thậm chí, khơng cịn được là con
người mà trở thành một con “quỉ dữ”, bởi âm mưu thâm độc và sự chà đạp của
một guồng máy thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn,
bằng khả năng phân tích lý giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào
và trái tim nhân ái, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị hiện
thực và nhân đạo đặc sắc khơng thể tìm thấy ở các nhà văn đương thời.
Thật ra trong bất cứ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực bao
giờ cũng đi liền với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc, những giá trị ấy
càng thẩm thấu, thống nhất với nhau, khó tách rời. Chí Phèo của Nam Cao cũng
khơng nằm ngồi quy luật ấy. Bởi vì nội dung phản ánh (và tiếp nhận) - yêu
thương, trân trọng hay căm ghét, khinh bỉ? Tách riêng ra hai giá trị là làm phá vỡ
sự gắn liền hữu cơ của một chỉnh thể nghệ thuật vốn dĩ thống nhất.
Đọc xong tác phẩm Chí Phèo ta thấy gì? Mở đầu tác phẩm là cảnh Chí Phèo
ngật ngưởng trên đường đi vừa chửi, từ trời đến người, tiếng chửi hằn học, cay
độc và chua xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là
máu tươi. Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một khơng khí ngột ngạt, bế
tắc đến khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng
quê Việt Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt, giết chóc, ăn
vạ, gây gổ… trong đó Chí Phèo hiện lên như một biếm họa tiêu biểu. Hãy nghe
nhà văn miêu tả: “Bây giờ thì hắn trở thành người khơng tuổi rồi. Ba mươi tám
hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngồi bốn mươi. Cái mặt hắn khơng trẻ
cũng khơng già; nó khơng cịn phải là mặt người: nó là mặt một con vật lạ, nhìn
mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành một
con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn khơng có ngày tháng
bởi những cơn say triền miên. Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập
đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi
say nữa, say vơ tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để
nhớ hắn có ở đời. Có lẽ hắn cũng biết rằng hắn là quỉ dữ của làng Vũ Đại để tác
quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập
nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước
mắt của bao nhiêu người lương thiện… Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt
hắn mỗi lần hắn qua…”
“ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn
tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo,
thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hất hủi. Sau
cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh
sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền
chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm
thanh ấy bao giờ chả có. Nhưng hơm nay Chí mới nghe thấy. Chao ơi là buồn,
trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau
và cơ độc – cái này cịn sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở mang bát
Mở bài:
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngồi xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân
vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài -
Thân bài:
Để tạo nên hình tượng người đàn bà ấy nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc
đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận: Truyện được
kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc
chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa
để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh
đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “Trước mặt tôi là một
bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đơi chút màu hồng hồng do ánh
mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh đẹp đến nỗi
Phùng có cảm giác bối rối, trái tim như bị bóp thắt vào. Nhưng đằng sau chiếc
thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ
phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà
nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt.
Nghịch cảnh ấy khiến lịng anh tan vỡ. Xun suốt tồn bộ câu chuyện, hầu như
người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC
đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ,
khi thì gọi chị ta.... Khơng phải nhà văn "nghèo" ngơn ngữ đến độ không thể đặt
cho chị một cái tên mà là vì Chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng
biển nhỏ bé này: CHỊ LÀ NGƯỜI VÔ DANH.
bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, khơng chống trả,
cũng khơng tìm cách trốn chạy”.
Chị là ai ?
+ Trước đây Chị vốn là con của một gia đình khá giả nhưng số phận đã khơng
may mắn với chị. Chị mắc bệnh đậu mùa. Di chứng để lại đó là Cái xấu, cái xấu
xí thơ kệch đã đeo đuổi chị như một định mệnh, suốt từ khi cịn nhỏ cho đến tận
bây giờ.
+ Vì xấu xí khơng ai lấy nên chị trót có mang với một anh hàng chài nhà ở giữa
phá vẫn hay đến nhà chị mua bả về đan lưới. Thế rồi thành vợ thành chồng. Chị
xuống ở luôn dưới thuyền. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam
lũ, bấp bênh: “có nhiều tháng biển động phải ăn cây xương rồng luộc chấm
muối”. Gia đình nghèo lại cịn đơng con, thuyền thì chật,...
+ Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu. Lão chồng của chị từ một anh con
trai “hiền lành nhưng cục tính” đã trở thành một kẻ vũ phu lỗ mãng. Hắn đã lấy
phương pháp đánh vợ để giải tỏa những bế tắc cuộc sống. Bị chồng thường
xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ
khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh 1
con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ". “Mày” ở đây là vợ ông ta. “Chúng mày” là vợ con của ông ta. Họ là
những đồng loại rất gần gũi với ông ta. Cay đắng thay cho số phận của chị.
+ Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, khơng tìm cách chạy
trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Thậm chí chị cịn u cầu hắn “ Muốn
đánh chị thì đưa chị lên bờ để đánh vì chị khơng muốn để những đứa con nhìn
thấy cảnh bố hành hạ mẹ”. - Vì đâu chị lại chịu đựng và cam chịu như vậy ?
+ Chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình,
chị chấp nhận, khơng kêu van, khơng trốn chạy. Vì chị rất thấu hiểu lẽ đời. Chị
hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh trên biển khơng có người đàn ơng. trong
cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe
mạnh, biết nghề “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng
chài ở thuyền chúng tơi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để
+ Chị cũng hiểu và thông cảm cho chồng: chị thừa nhận chồng chị trước kia là
anh con trai hiền lành nhưng cục tính, chẳng qua vì đói nghèo, thất học, túng
quẫn lão chồng mới sinh ra vậy. Đây chính là sự hiểu đời, sự thơng cảm và vị
tha của chị. Chị khơng hề ốn trách chồng mà ngược lại chị rất cảm thông và vị
tha. Chị là người có đức hi sinh cao thượng.
cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa . Vì thương con chị đã ln miệng xin q
tịa đừng bắt con bỏ nó. Chị hiểu như thế nào là nỗi đau của những trẻ thơ sống
trong cảnh bố mẹ ly dị. Chị khơng muốn nhìn cảnh các con thấy bộ mẹ chia tay.
Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão đàn ông vũ phu mang chị lên bờ mà
đánh vì sợ con nhìn thấy. Vì thương con mà chỉ đưa thằng Phác lên bờ để sống.
Vì thương con mà chị đã đau đớn nhìn cảnh thằng Phác vì thương mẹ mà đã
chống trả lại bố đẻ của mình. Trong đau khổ chị vẫn ln chắt lọc những niềm
vui ví như khi nhìn các con được ăn no, được nơ đùa hay có lúc chị và chồng chị
cũng có những giây phút đầm ấm, hòa thuận. Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản
năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương mê muội, đáng thương.
Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vơ bờ bến,
vừa ln mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời.
Thấp thống trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam
nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
+ Phùng và Đẩu là hai cán bộ cách mạng vừa bước ra khỏi chiến tranh. Mới đầu
các anh căng thẳng, các anh khơng hiểu nhưng sau đó, qua câu chuyện của
người đàn bà ở tòa án, Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ. Qua câu chuyện của người đàn
bà, họ càng thấy rõ: Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật,
Nghệ thuật: Sử dụng biện pháp đối lập (giữa hình thức và tâm hồn), đặt nhân
vật trong tình huống nhận thức độc đáo, Nguyễn Minh Châu giúp người đọc
khám phá “….ẩn dấu” trong “bể sâu tâm hồn” người đàn bà hàng chài.
<b>Mở bài:</b>
hình tượng Cây xà nu - một hình tượng độc đáo bao trùm tồn bộ tác phẩm.
Chính hình tượng cây xà nu đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi, lãng mạn
cho câu chuyện về làng Xôman bất khuất kiên cường. Đọc tác phẩm này điều
mà người đọc nhận ra trước tiên là hình tượng cây xà nu đã trở thành một hình
tượng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm gắn bó với cuộc sống và mọi sinh hoạt của
dân Xôman.
<b>Thân bài:</b> Trong bài viết “Về truyện ngắn Rừng xà nu”, tác giả Nguyên Ngọc (bút
danh là Nguyễn Trung Thành” đã tâm sự: “Ngay từ năm 1962, trên đường vào
miền Nam công tác, đến tỉnh Thừa Thiên, giáp Lào, tôi được chứng kiến những
rừng xà nu bát ngát xanh tít tận chân trời. Đấy là những cây họ thông, hùng vĩ và
cao thượng, Mai dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút vạm vớ nhựa ưá ra, tán lá
vừa thanh nhã vừa rắn rỏi”. Những cây xà nu có phẩm chất đặc biệt ấy đã gây
ấn tượng mạnh mẽ và khơi nguồn cảm hứng cho tác giả ba năm sau (1965) tạo
Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả từ nhiều góc độ và đưa lại hiệu quả
thẩm mỹ đặc biệt. Trong truyện ngắn này, nhà văn không chỉ mở đầu và kết thúc
truyện bằng hình ảnh rừng xà nu bát ngát đến chân trời, mà đã gần 20 lần nói
đến “Rừng xà nu”. “Cây xà nu”, “nhựa xà nu”, “lửa xà nu”… Chất sử thi của thiên
truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm, nếu thiếu đi hình
tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần
đến như vậy, nhất là “các đồi xà nu – 4 lần”; “Rừng xà nu – 5 lần”. Thủ pháp điệp
trùng khi mơ tả cây xà nu đó, vừa làm nền cho toàn bộ diễn biến của câu
đổ ào như một cơn bão”. Ở một chỗ khác, tác giả tả kỹ hơn “nơi chỗ vết thương
nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm
lại đen và đặc lại quện thành cục máu lớn”. Hình ảnh đó gợi lên nỗi đau thương
mất mát, lịng căm thù, kết tụ ý chí phản kháng.
Hình tượng Cây xà nu cịn là hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống và phẩm chất
người dân Xơman nói riêng, Tây Ngun nói chung: như giàu khát vọng tự do,
giải phóng, phẩm chất anh hùng, sức sống mãnh liệt của các thế hệ nối tiếp
nhau.. Chính vì hình ảnh Cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nên sự miêu tả
lồi cây này, ln ln được tác giả đặt trong sự đối chiếu với con người, gợi ra
những liên tưởng về đời sống và số phận cùng phẩm chất của họ. Cây xà nu rất
ham ánh sáng và khí trời: “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Cũng
như Tnú, như dân làng Xôman yêu tự do, khát khao ánh sáng. Bất chấp sự hủy
diệt tàn khốc của bom đạn kẻ thù, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống
mãnh liệt khơng gì tiêu diệt, tàn phá nổi “Bên cạnh một cây Xà nu mới ngã gục,
đã có 4, 5 cây con mọc lên ngọn xanh rờn hình nhọn như mũi tên lao thẳng lên
bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xôman, lớp này kế tiếp lớp khác đứng lên,
tiếp tục cuộc chiến đấu: “Tuốt gươm không chịu xuống quỳ Tuổi xanh chẳng tiếc
sá chi bạc đầu Lớp cha trước, lớp con sau Đã thành đồng chí chung câu quân
Nhưng ở rừng xà nu còn xuất hiện những cây khác vững chãi, không chịu khuất
phục trước giông bão, đạn bom của kẻ thù “ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở
cho xóm làng”. Phải chăng đó là hình ảnh cụ Mết - hiện thân của tinh thần quật
khởi, người đã nuôi ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Cách mạng? “Có
những Cây xà nu cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lơng mao, long vũ,
đạn đại bác khơng gíêt nổi chúng. Những vết thương của chúng chóng lành như
trên một cơ thể của chúng chóng lành như trên một cơ thể cường tráng”. Tất cả
nối tiếp nhau tạo thành một đội ngũ trùng trùng điệp điệp như rừng xà nu nối tiếp
nhau chạy đến chân trời. Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu như một ẩn dụ
trên đây trong khi mô tả Cây xà nu, đã tạo nên sự chuyển hóa, hịa hợp giữa
hình tượng thiên nhiên và con người, tạo nên một bản hợp xướng đầy chất thơ
hào hùng tráng lệ về sức sống bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất kiên trung
của nhân dân Tây Nguyên giành tự do.
thành linh hồn tác phẩm.Vì vậy, tác giả đã đặt cho truyện của mình cái tên thật
có ý nghĩa: “Rừng xà nu”.
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, công chúng đã biết đến Nguyễn Minh Châu
Nhưng những tác phẩm được viết từ sau 1975 và nhất là từ thời kỳ đổi mới của
Nguyễn Minh Châu đã chứng tỏ ở ơng vẫn cịn một vốn viết rất sung mãn. Ông
đã đem đến cho văn đàn sau chiến tranh những khám mới về con người, những
suy tư về thế sự và đó hình như mới đúng là Nguyễn Minh Châu. Không phải vô
cớ mà Nguyên Ngọc coi ông là "người mở đường tinh anh và tài năng" thời kỳ
đổi mới. Chỉ cần viện dẫn truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng đủ thấy
Ngun Ngọc khơng q lời.
Khi được đưa vào chương trình ngữ văn 12 mới, thay thế cho Mảnh trăng cuối
rừng, nhiều giáo viên văn tỏ ra nuối tiếc thiên diễm tình lãng mạn giữa bom đạn
Trường Sơn. Cùng với tâm lí ấy là sự cảm thấy khó khăn khi thâm nhập vào thế
giới nghệ thuật của Chiếc thuyền ngồi xa. Tác phẩm này quả thực khơng dễ
dàng tiếp nhận vì nó là tiếng nói đa thanh, đa nghĩa; nó đặt ra rất những vấn đề
bức xúc, phức tạp của thế sự nhưng lại giải quyết trong vỏn vẹn khuôn khổ một
truyện ngắn. Để hiểu tác phẩm này, có thể bắt đầu từ tình huống truyện. Đó là
tình huống của những nghịch lí.
Nhưng cũng trớ trêu thay, chính trong lúc ấy, Phùng lại bàng hồng chứng kiến
cảnh tượng khơng có một chút "thơ" nào. Từ trong cảnh biển đẹp như mơ ấy lại
xuất hiện những con người xấu xí. Đó là người đàn bà cao lớn với những đường
nét thô kệch, rỗ mặt, dáng vẻ mệt mỏi, khuôn mặt tái ngắt. Đó là hình ảnh người
đàn ơng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, con mắt đầy vẻ độc
dữ. Nếu trước đó, cảnh chiếc thuyền ngồi xa n tĩnh, thơ mộng thì cảnh bạo
hành trong gia đình người dân chài lại vơ cùng tàn nhẫn, dã man. Hóa ra người
đàn bà lặng lẽ theo chồng lên bờ là chỉ để hứng chịu những trận địn vơ lí.
Nghịch lí thứ hai là chuyện Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và
cảnh cô chị gái cố đoạt lấy con dao găm trong tay thằng Phác khi nó định dùng
để bảo vệ mẹ. Bản chất của người lính năm xưa trỗi dậy, Phùng khơng nhẫn
nhịn được nên đã can thiệp và bị thương. Anh được đưa đến trạm y tế của tòa
án huyện. Ở đây, Phùng có người bạn đồng ngũ là Đẩu - vị chánh án tòa án
được coi là "bao công của phố huyện". Với sự vô tư, trách nhiệm của một nhà
chấp pháp, Đẩu đã mời người đàn bà đến vì mục đích giải thốt cho chị ta.
Nhưng cả Đẩu và Phùng đều không ngờ rằng, người đàn bà từ chối một cách
quyết liệt thiện chí giúp đỡ của Phùng và Đẩu. Theo lời chị ta thì "q tịa bắt tội
con cũng được, phạt tù con cũng được" nhưng "đừng bắt con bỏ nó"!
Điều gì làm nên cách ứng xử ("lấy cam chịu làm đầu") của người đàn bà qua
những nghịch lí ấy?
thẳng khiến "cứ lúc nào thấy khổ q là lão xách tơi ra đánh".
Lí do thứ hai khiến người đàn bà cam chịu là tình thương với con cái. Vì thương
con mà chị ta tìm mọi cách nhằm vẫn chấp nhận để cho chồng giải tỏa bằng
đánh đập mà vẫn không làm tổn thương đến con. Bản tính người mẹ đã tạo cho
người đàn bà một sự chịu đựng khủng khiếp. Đọc chiếc thuyền ngồi xa, lắm lúc
tơi cứ băn khoăn một lẽ, chẳng biết cái đức hi sinh, nhẫn nhịn truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam - Cái phẩm chất mà từ ca dao, đến ông Tú rồi biết bao
áng thơ văn hiện đại hết lời ca ngợi ấy là ưu hay nhược điểm? Là đáng tự hào
hay không nên q tự hào? Vì khơng muốn để con biết là mình bị đánh nên chị
ta chỉ dám cầu xin một "ân huệ" - xin chồng đưa mình lên bờ để đánh. Trong
những đứa con đông đúc của mình, chị ta thương nhất thằng Phác nên đã gửi
nó lên theo ơng ngoại trên đất liền. Gửi thằng bé lên đó khơng chỉ vì tránh cho
tâm hồn non nớt của nó bị tổn thương mà quan trọng hơn là để nó khỏi làm điều
gì dại dột với bố. Thế nên, khi để thằng Phác chứng kiến mình bị đánh đập, khi
thằng Phác bất chấp tình cha con để bênh vực mẹ, người đàn bà đã khơng thể
chịu đựng nổi nỗi đau. Tình thương con đã biến chị từ chỗ tỏ ra khơng có cảm
giác đau đớn thân xác đã trở nên yếu đuối đến thảm hại.
nhọc". Trái với vẻ nông nổi thiếu thực tế của Phùng và Đẩu, chị hiểu được vai trị
của người đàn ơng trên thuyền để chống chọi với sóng gió, "dù hắn man rợ, tàn
bạo".
Đúng là cái đức hi sinh từ ngàn đời của người phụ nữ Việt đã di truyền cho
người đàn bà này sức chịu đựng khủng khiếp và cùng với sự chịu đựng ấy là
một nỗi khổ ải kỳ cục. Người chồng cũng khổ nhưng còn được giải tỏa bằng việc
... đánh vợ. Thằng Phác cũng khổ nhưng cịn có chỗ che chở là ơng ngoại.
Người đàn bà dân chài này khổ cịn vì khơng biết giải tỏa bằng cách nào, không
thể và không muốn chia sẻ cùng ai. Khổ đến mức, chỉ được chồng chiếu cố cho
cha mình. Kết thúc bỏ lửng ấy không chỉ tránh được công thức mà quan trọng
hơn, nó nhấn sâu hơn bức thơng điệp khắc khoải đau đáu về số phận con
người: cuộc chiến đấu với đói nghèo, lạc hậu cịn diễn ra dai dẳng lâu dài. Nó
cũng khốc liệt chẳng kém gì cuộc chiến chống ngoại xâm vừa qua đi.
<i><b> Tác giả Nguyễn Thư</b></i>
<i><b> (Trường PTTH Chuyên Bắc Giang)</b></i>
Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện
tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX.
Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh...
nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền
văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ,
đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981,
công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài
nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch
nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người.
Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu
cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch
nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của "tiên cờ" Đế Thích, Nam
Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong
thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba
và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống
tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch,
ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và
quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của
Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu
hơn về Trương Ba
một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính
ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ
thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh
hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn
Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Hồn
Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm
thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải). Hồn bức bối bởi khơng
thể nào thốt ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình khơng
cịn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn
Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.Ý thức
được điều đó linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng
cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác
hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vơ ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên
bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn Trương
Ba vào thế đuối lí và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thồ hiệp vì, theo lí lẽ của
xác thịt là "chẳng cịn cách nào khác đâu", vì cả hai "đã hồ vào nhau làm một
rồi". Trước những "lí lẽ ti tiện" của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ,
đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thới cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch
cành mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng. Hai
hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên
đại điện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng
với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung
cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh
dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng
hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng
bản thân Màn đối thoại này cho thấy
• Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì
phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hố.
• Khơng chỉ đừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung
tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá
những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
2. Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân Không phải ngẫu nhiên, tác giả
không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của
Trương Ba với những người thân. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái
càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn. ơng hiểu những gì mình đã, đang và sẽ
• Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bàn tính vị tha nên định nhường
Trương Ba cho cơ vợ anh hàng thịt.
ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác
dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhịa mờ dần đi, đến nối có lúc chính
con cũng khơng nhận ra thầy nữa...".
• Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn
tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không
chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ
đây đã khơng cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tơi khơng phải là
cháu ơng... Ơng nội tơi chết rồi). Cái Gái u q ơng nó bao nhiêu thì giờ đây
nó khơng thể chấp nhận cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như
cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm"
trong mảnh vườn của ơng nội nó. Nó hận ơng vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà
làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với
nó, "Ơng nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã
biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút
đi!". Tuy nhiên, họ chỉ là những người dân thường, họ khơng giúp gì được cho
tình trạng hiện tại của Trương Ba. Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa
chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba thách thức xác anh hàng
thịt: "có thật là khơng cịn cách nào khác?" và phản kháng quyết liệt: "Không cần
đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!"). !". Đây là lời độc thoại có tính
chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt
khốt.
một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng đã
thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: "Con người hạ giới các ông
thật kì lạ". Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và
thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn
và xác phải hài hịa. Khơng thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác
phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân
xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp
siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ
dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình
thì cuộc sống ấy thật vơ nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích
chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của
mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác,
đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc
Đế Thích xuất hiện. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông
điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc
về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn
của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo
để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện
nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.
4. Màn kết: Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh
hôn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn
bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hồn theo quy
luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh
thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thăng
của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.
C. KẾT BÀI
<i><b>Một trong những đặc sắc của truyện Vợ nhặt là Kim Lân đã sáng tạo một </b></i>
<b>Ý cơ bản phải có:</b>
1. Nhan đề Vợ nhặt cũng là một nét độc đáo (giải thích)
2. Mở đầu truyện là bức tranh xám ngắt về ngày đói: (đưa bức tranh ngày đói
vào)
3. Đó là tình huống một anh cu Tràng nghèo khổ xấu trai, ế vợ đang đứng ngấp
nghé bên bờ vực của cái chết vì đói khát lại nhặt được vợ trong nạn đói khủng
khiếp 1945.
+ Thật ra, ban đầu Tràng khơng chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người
như hắn thì khơng thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui “
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bị với anh nì”. Tràng chỉ
muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chịng ghẹo ai cả.
Ai ngờ có người đàn bà đói xơng xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên
Tràng đã khơng giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh
phúc biết bao khi gặp được cái “cười tít mắt của thị” bởi “từ xưa đến giờ có ai
cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”.
+ Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ
có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “ Điêu, người
thế mà điêu”. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình.
Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc
lẫn nhân cách. Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác,
quần áo rách như tổ đỉa. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động
tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn
đói ?
4. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng, và cả
bản thân của Tràng nữa, vì hai lí do: - Một là, Tràng - một người nghèo túng, xấu
xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ) xưa nay đàn bà con gái chẳng ai thèm để
ý. Vả lại khơng có tiền cưới vợ, vậy mà bỗng dưng lấy được vợ, lại là vợ theo
hẳn hoi. - Hai là, giữa lúc đói kém này, người như Tràng, chỉ làm nghề đẩy xe bò
thuê kiếm sống qua ngày, đến ni thân cịn khơng nổi lại còn đèo bòng vợ với
con. Bời vậy mới dẫn đến SỰ NGẠC NHIÊN VÀ THƯƠNG CẢM: Trước hết là
sự ngạc nhiên của cả xóm ngụ cư: Nhìn theo bóng Tràng và người đàn bà, mỗi
người một suy nghĩ khác nhau, ai cũng ngạc nhiên, phân vân “ai đấy nhỉ ? Hay
là người nhà bà cụ Tứ dưới quê lên”, có người cười “ hay là vợ anh cu Tràng ?”,
có người thương hại “Biết có ni nổi nhau qua cái thời đói khát này khơng ?” Bà
cụ Tứ: mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi
trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại cịn chào mình
bằng u nữa. Bà khơng thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi
5. Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật được giá
trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm: - Không cần đến những lời kết
tội to tát mà tội ác của bọn thực dân, phát xít và tay sai vẫn hiện lên rõ mồn một.
Đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945 với trên hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Trong hồn cảnh ấy giá trị của con người thật rẻ rúng. Người ta có vợ theo chỉ
nhờ mấy bát bánh đúc…. Đúng là “nhặt” được vợ như lời tác giả nói. - Người
dân lao động VN dù ở trong tình huống bi thảm như thế nào đi chăng nữa họ vẫn
<i>tin tưởng vào ngày mai tươi sáng: ( Bà cụ Tứ có niềm tin như thế nào ? người vợ</i>
<b>Sự xuất hiện của nhân vật.</b>
Vào một đêm ngồi rừng mưa rì rào như gió nhẹ, dưới ánh lửa xà
nu bập bùng, tất cả dân làng Xôman già trẻ gái trai nghe cụ Mết, một già
làng có thân hình vạm vỡ quắc thước, mắt sáng xếch ngược, râu rài
<b>Lúc còn bé đến khi trở thành chiến sĩ.</b>
Tnú là người con của dân làng Xôman, cha mẹ mất sớm và được
<i>dân làng cưu mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng "có cái bụng</i>
<i>thương núi, thương nước", Tnú đã sớm có lịng u thương nhân dân,</i>
làng xóm. Từ tấm lịng này, Tnú đã mở rộng thành tình u gắn bó trung
thành thủy chung sâu nặng với Cách mạng, cán bộ Cách mạng. Bởi ngay
từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết, người gìn giữ và truyền ngọn
<i>lửa Cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay: "Cán bộ là Đảng.</i>
<i>Đảng còn nước non này cịn". Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời,</i>
Tnú đã xuất hiện với tư cách của người anh hùng Tây Nguyên thời chống
Mỹ. Dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo, đầy quả cảm như
Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính... Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã
man của kẻ thù, chặt đầu những người đi nuôi cán bộ - đầu anh Xút, bà
Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng đầu bản xóm, Tnú đã cùng với Mai
xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng.
Đây là một cơng việc vơ cùng khó khăn và đầy nguy hiểm nhưng Mai à
Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào " Năm năm chưa hề có
cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng".
Tnú cịn là một người có phẩm chất chính trực, trong sáng, trung
thực, thẳng thắn như cây xà nu. Tnú quyết tâm học cho được cái chữ Cụ
Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết, nếu khơng may anh Quyết bị
hy sinh. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa
<i>hịn đá tự đập vào đầu mình máu chảy rịng rịng". Hành động này có cái</i>
của một con người có chí khí, vì khơng học được chữ nên tự trừng phạt
mình cho đau cho nhớ mà cố gắng hơn.
Làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết, Tnú có cái đầu sáng lạ lùng. Vốn
là con người nhanh trí, táo bạo thích mạo hiểm, Tnú khơng bao giờ đi
đường mòn, bị giặc vây các nẻo đường, Tnú leo lên cây cao xé rừng mà
đi vượt qua mọi vòng vây. Tnú không vượt qua suối những nơi nước cạn
dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm như cưỡi lên lưng con
cá kình. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngịm
đã chĩa vào gáy lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng
bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù Kontum với biết bao địn
<i>roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi "Cộng sản ở đâu?" Tnú đã không ngần</i>
<i>ngại đặt tay lên bụng và nói: "Ở đây này!".Và lưng Tnú lại hằn lên những</i>
vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu
phẩm chất thủy chung, trung thành với Cách mạng mà bất khuất hiên
<i>ngang trước kẻ thù "Uy vũ không thể khuất phục".</i>
<b> Tnú và bi kịch gia đình</b>
Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô
man đánh giặc. Và Mai, người bạn từ thuở thiếu thời, đã cùng Tnú
trưởng thành qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh nay
đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu
mùa của mối tình thơ mộng và thủy chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đơi
của Tnú đang đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây
<i>chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy... bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai</i>
<i>con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn". Căm thù đau nhói trong tim và</i>
bừng cháy trong hai con mắt - một chi tiết thật dữ dội. Tnú nhảy vào giữa
đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
Nhưng khơng cịn kịp nữa!
Tnú bị bắt, bị trói. Vợ và con chết cả rồi nhưng Tnú khơng khóc. Anh ghìm
nén nỗi đau, cố gắng vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến
đấu. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình
<i>thật bình thản. Anh nghĩ "Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng đã chết. Mình</i>
<i>rồi cũng chết thôi".Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt và băn</i>
Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú.
Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xơ man.
Nhưng chúng đã nhầm. Chúng đã vơ tình thắp lên ngọn lửa đồng khởi,
ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xơ man. Một ngón, hai ngón rồi ba bốn
ngón của Tnú bốc cháy. Khơng gì đượm băngd lửa Xà nu. Mười ngón tay
của Tnú nhanh chóng thành mười ngọn đuốc sống. Kì lạ thay, người
Cộng Sản ấy không hề kêu van, dù "răng anh đã cắn nát môi anh rồi".
Đúng rồi, Tnú không thèm kêu van nhưng Tnú đã thét lên một tiếng "Giết".
Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà
<i>sâu xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: "sau này,</i>
<i>tao chết rồi, bay cịn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm</i>
<i>súng, mình phải cấm giáo". Đó là chân lý của Cách mạng được nảy sinh</i>
từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một chân lý thật
nghiệt ngã nhưng tất yếu: Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo
lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải
phóng của nhân dân.
<b>Vượt qua bi kích cá nhân, trở thành người chiến sĩ, cán bộ có</b>
<b>tinh thần kỷ luật cao.</b>
Từ đây cả dân làng Xôman vùng dậy cầm lấy giáo mác... làm vũ khí
chống lại súng đạn tối tân tàn bạo của Mỹ - Nguỵ. Và chặng đường cầm
<i>vũ khí của Tnú được nối tiếp bằng việc "đi lực lượng". Tnú đã vượt qua</i>
mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân
để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ
con anh - còn tồn tại trên đất nước Việt Nam này. Khi đã trở thành chiến
sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ
quê hương gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về đúng một đêm
như quy định trong giấy phép.
<b>Hình ảnh Tnú gắn liền với một hình tượng độc đáo: bàn tay.</b>
Tnú. Đây là một hình tượng như có một số phận riêng, gắn bó mật thiết
với cuộc đời Tnú, góp phần tơ đậm thêm những nét phẩm chất, tính cách
cao đẹp của anh. Đó là bàn tay của trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn
<i>viết chữ anh Quyết dạy cho; từng đặt lên bụng mình mà nói: "Cộng sản</i>
<i>đây này". Bàn tay ấy cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng</i>
những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương đồng cảm, lúc Tnú vượt
ngục trở về... Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay Tnú, bàn tay trở thành chứng
tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Lòng
hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo - 10 ngọn đuốc từ
ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xơman.
Bàn tay chỉ cịn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng để Tnú lên
đường rửa hận. Và cuối cùng với chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ
họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú.
<b>Kết luận: Như vậy, câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú vừa có ý</b>
nghĩa cụ thể, cá thể, vừa có ý nghĩa điển hình tiêu biểu của người anh
hùng đại diện cho số phận và con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên
trong thời đại đấu tranh giải phóng. Nhân vật Tnú cịn có cái gì đó phảng
phất như những anh hùng trong các trường ca Đam San, Xinh Nhã.
- Bà cụ Tứ là người dân ngụ cư, nghèo khổ, góa bụa, ở vậy ni con, chịu
nhiều đắng cay, cơ cực. Bà xuất hiện trong bóng chiều hơm chạng vạng tê tái
<i>với hình ảnh "lọng khọng từ ngồi ngõ vào vừa đi vừa lầm bầm tính tốn gì</i>
<i>trong miệng". Bà cũng như bao người mẹ Việt Nam khác rất mực yêu thương</i>
con cái.
<b> Vẻ đẹp nhân văn được thể hiện qua diễn biến tâm trạng</b>
<b> * Lúc đầu bà ngạc nhiên</b>
<i>" đứng sững lại". Bởi căn nhà xưa nay chỉ có bà và Tr nay lại thấy xuất hiện một</i>
người đàn bà xa lạ. Vì thế hàng loạt những câu hỏi luẩn quẩn trong đầu
<i>bà: "Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào đứng</i>
<i>ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Khơng</i>
<i>phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?". Vì ngạc nhiên, phân vân nên bước chân của</i>
bà lão cũng "lập cập". Khi đã vào trong nhà, Bà cụ Tứ lại càng ngạc nhiên hơn
khi nghe thấy tiếng người đàn bà xa lạ chào mình bằng u.
<b> * Khi hiểu ra bà tủi phận.</b>
<i> - Khi nghe Tràng phân trần, cắt nghĩa: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tơi đấy u</i>
<i>ạ", bà cụ mới hiểu. "Bà lão cúi đầu nín lặng". Một sự im lặng chất chứa biết bao</i>
<i>suy nghĩ. "Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao</i>
<i><b>nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Một nỗi tủi</b></i>
<i><b>hờn, xót thương trào lên trong lịng bà cụ Tứ "Chao ôi, người ta dựng vợ gả</b></i>
<i>chồng cho con là lúc ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau</i>
<i>này...Cịn mình thì...". Đằng sau lời độc thoại bỏ lửng đó người đọc có thể thấy</i>
<i>được nỗi cay đắng của bà đang dâng lên tột đỉnh và người mẹ nghèo khổ ấy</i>
<i>đã khóc " Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt...".</i>
<i><b>* Bà lo lắng: Thương con nên lo lắng cho con: "Biết rằng chúng nó có</b></i>
<i>ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này khơng". Suy nghĩ này của bà cụ</i>
Tứ chứng tỏ bà đang rất lo lắng cho tương lai của hai con. Cũng chứng tỏ sự
ám ảnh về nạn đói ấy thật khủng khiếp.
<b>*Từ tủi phận và lo lắng bà lão chuyển sang tâm trạng vừa vui mừng</b>
<b>vừa thương xót anh con trai và người vợ nhặt. Vui mừng vì con có hạnh</b>
phúc, xót thương vì sự thật q phũ phàng. Bà thở dài nhìn người đàn bà đang
vân vê tà áo đã rách bợt nay đã là dâu con của bà. Càng nhìn bà càng thương
<i>thị lại càng thương con mình "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta</i>
<i>mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ. May ra mà qua được cái</i>
<i>tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó".</i>
- Sau khi khẽ dặng hắng một tiếng, bà lão ơn tồn, "nhẹ nhàng" nói với nàng
<i>dâu: "Ừ thơi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng</i>
<i>mừng lịng..." . Ngơn ngữ của bà lão nhẹ nhàng, cái nhìn của bà với nàng dâu</i>
đầy cảm thơng. Tất cả xuất phát từ tình yêu thương con người của bà lão. Lời
<b>* Bà lão chợt nhớ ra cái bổn phận mẹ chồng. Thế là bà lão bắt đầu nói</b>
<i>với 2 vợ chồng, bà dặn dị các con "Nhà ta thì nghèo con ạ! Vợ chồng chúng</i>
<i>mày liệu bảo nhau mà làm ăn". Bà ấp ủ và hướng hai con vào niềm tin tưởng ở</i>
<i>tương lai phía trước với triết lí dân gian gần gũi "Rồi may ra ông giời cho</i>
<i>khá...Biết thế nào hở con,ai giầu ba họ, ai khó ba đời". Điều này chứng tỏ bà là</i>
một bà mẹ chu toàn. Đây chính là niềm lạc quan hy vọng đổi đời.
<b>* Song nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương yêu của bà cụ Tứ : Bà</b>
lão, nhìn người đàn bà, lịng đầy xót thương. Và cũng như biết bao bà mẹ nhân
từ khác, bà cụ Tứ những mong con dâu mình hồ thuận. Bà an ủi đơi vợ chống
<i>son "Kể có được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chẳng</i>
<i>ai người ta chấp nhặt chi lúc này. Cốt làm sao chúng mày hồ thuận là u mừng</i>
<i>rồi. Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u thương q". Bà cụ</i>
Tứ nghẹn lời khơng nói được nữa, nước mắt cứ cháy xuống ròng ròng. Những
giọt nước mắt xót xa, tủi nhục ấy, người vơ tâm như Tràng làm sao có thể hiểu
nổi.
<b>* Sáng hơm sau: Bà cụ Tứ thật khác với ngày hôm qua . Người đọc </b>
<i>thấy bà "nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà</i>
<i>rạng rỡ hẳn lên". Cùng với nàng đâu, bà cụ xăm xắn thu dọn; quét tước nhà</i>
cửa. Người mẹ từng trải và nhân hậu ấy đã bằng mọi cách nhen nhóm một
niềm vui, niềm hi vọng cho dâu con của mình. Bà cụ nói tồn chuyện vui, tồn
<i>chuyện sung sướng về sau này. Bà dặn Tràng nuôi gà để "Chẳng mấy chốc có</i>
<i>ngay đàn gà cho mà xem".</i>
Bà cố gắng tạo niềm vui bằng nồi chè cám, nồi chè bà đã dành dụm chắt chiu
để hơm nay mới có dịp đãi con. Tuy không ai nuốt nổi nhưng chắc chắn rằng
khơng ít người đọc đã chảy nước mắt trước tấm lịng cao thượng ấy của người
mẹ nơng dân nghèo khổ.
<b> Nghệ thuật:</b>
<b>KL :Bà cụ Tứ là hình ảnh điển hình về một người mẹ nghèo khổ nông dân Việt</b>
Nam với phẩm chất cao đẹp: thương con và giầu đức hy sinh, hiểu biết , lạc
quan. Nhân vật mẹ Tứ thấm đượm tình cảm nhân đạo sâu xa vốn có trong
truyền thống dân tộc. Và là một sáng tạo xuất sắc của KL. Khắc họa hình tượng
nhân vật bà cụ Tứ, KL đã sử dụng một ngòi bút trong sáng, chọn lọc để miêu
tả tỷ mỉ, chân thực tấm lòng vừa trắc ẩn, vừa bao dung của một người mẹ nông
thôn VN.
<b>DÀN Ý PHÂN TÍCH</b>
<i><b>Mở đầu tác phẩm Vợ nhặt là bức tranh ngày đói. Chỉ vài nét vẽ phác thảo,</b></i>
nhà văn đã vẽ nên bức tranh ngày đói thật hãi hùng. Xóm ngụ cư chìm trong
bóng đêm chết chóc, tăm tối, ảm đạm. Ở đây thiếu vắng sự sống hoặc sự
sống le lói như ngọn đèn trước gió.Hai lần nhà văn so sánh người với
<i>ma.Bằng chứng là " Hai bên dãy phố úp súp tối om, không nhà nào có ánh</i>
<i>đèn, lửa". Người sống thì " lũ lượt dắt díu, bồng bế nhau lên xanh xám như</i>
<i>những bóng ma" hoặc " dưới những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người</i>
<i>đói đi lại dật dờ lặng lẽ như những bóng ma". Người chết thì như ngả rạ,</i>
khơng một sáng nào đi làm đồng hoặc đi chợ người ta lại khơng thấy ba bốn
cái thây người nằm cịng queo ở bên vệ đường. Mùi tử khí nồng nặc. Tác
giả cịn tơ đậm bức tranh hơn nữa bởi hình ảnh của bầy quạ đen chờ chực
để rỉa xác người chết. Cõi âm và cõi dương nhạt nhòa. Tất cả đang đứng
bên bờ vực của cái chết.
Trên cái nền chết chóc ấy, một buổi chiều người ta thấy Tràng về với
một người đàn bà nữa. Ai vậy ? Đó là vợ Tràng. Điều khơng thể tin lại phải
tin trong tác phẩm của Kim Lân. Vậy Tràng là ai ? Tràng lấy vợ như thế
nào ?
<i> </i>
<b>a/ Lai lịch </b>
<b> - Xuất thân: dân ngụ cư, làm nghề đẩy xe bị th, ni mẹ già. Dân ngụ cư</b>
là những người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân ngụ cư khơng có ruộng đất,
chỉ đi làm th làm mướn. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở
nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là "nhà"
<i>thì ln "vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ </i>
<i>dại". Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói </i>
chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
<b>b/ Ngoại hình:</b>
<i><b> - Tràng có ngoại hình xấu xí, thơ kệch. Đầu trọc nhẵn, hai con mắt nhỏ </b></i>
<i>tí, gà gà, quai hàm bạnh ra, cái lưng to rộng như lưng gấu, đi thì cứ chúi đầu </i>
<i>về phía trước lại hay nói lầm bầm trong miệng, khi cười thì ngửa mặt lên </i>
<i>cười hềnh hệch.</i>
<b>Nhận xét: Tràng là một nơng dân nghèo khổ lại xấu xí. Nếu như trong thời </b>
bình, Tràng thuộc típ người khó có khả năng lấy vợ. Nhưng điều đó lại xảy ra
vào đúng cái nạn đói khủng khiếp. Tràng lấy được vợ hay nói đúng hơn
<i><b>là "nhặt được vợ".</b></i>
<b>c/ Tình huống nhặt vợ của Tràng (diễn biến tâm lí)</b>
<b>+ Thật ra, ban đầu Tràng khơng chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người</b>
như hắn thì khơng thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho
<i>vui " Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bị với anh</i>
<i>nì". Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý</i>
Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã khơng giữ đúng thỏa thuận của câu hị.
<i>Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái "cười tít mắt của</i>
<i>thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu".</i>
<b>+ Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ</b>
có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn " Điêu,
người thế mà điêu". Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe
cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại
cả nhan sắc lẫn nhân cách. Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi
cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm
hại. Tràng động lịng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thơ kệch
ấy lại có một tấm lịng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà
<i>kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều " bốn bát bánh đúc". Đó chính</i>
là lịng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng khơng hề có ý
định lợi dụng hoặc chịng ghẹo.
<i>Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ</i>
<i>thì ra khuân đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thơi, ai ngờ thị về thật. Lúc</i>
<i>đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết"mới đầu anh cũng chợn,</i>
<i>nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng, lại cịn</i>
<i>đèo bịng". Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này.</i>
Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ
<i><b>hãi nên sau đó anh chặc lưỡi " Chậc kệ!" . Chỉ một từ "kệ" thôi, Tràng như</b></i>
<b>đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái</b>
<b>hạnh phúc của mình.</b>
<b>Bình luận: Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng</b>
<b>họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này</b>
<b>thì cần hạnh phúc cịn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một người vì tình</b>
<b>u, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ LIỀU, nhưng cái Liều kia</b>
<b>của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng</b>
<b>cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và</b>
<b>cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải chăng hai con người</b>
<b>khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nịi sẽ tiếp nối sẽ</b>
<b>sinh sơi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói ?</b>
<i><b>+ Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: hắn</b></i>
<i>đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt</i>
<i>và ra hàng cơm đánh một bữa no nê... Anh còn mua 2 hào dầu để thắp</i>
<i>sáng. Đó có vẻ như là sự cố gắng quá mức của Tràng nhưng cũng rất dễ</i>
hiểu vì Tr sắp được làm chồng.
<b> + Trên đường về: (khác với anh Tràng hôm qua buồn bã, cúi mặt lo âu nghĩ</b>
mình. Lúc thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa
vào vai nọ vai kia, lại muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng.
Kim Lân đã làm người đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng
thật sự đã khác với Tràng hơm qua. Trong lịng Tràng tràn ngập niềm vui
<i>sướng miên man khiến "Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh</i>
<i>sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa,</i>
<i>quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ cịn tình</i>
<i>nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng</i>
<i>thấy ở người đàn ơng nghèo khổ ấy, nó ơm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng,</i>
<i>tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng" . Thế là rõ rồi: Hạnh phúc</i>
đang làm anh thay đổi.
<i><b>+ Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy " ngượng nghịu" rồi cứ thế " đứng tây</b></i>
<i>ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ". Nhưng đó chỉ là cảm giác thống qua</i>
thơi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh
chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên
<i>sửng sốt, khơng dám tin đó là sự thật: "hắn vẫn cịn ngờ ngợ như khơng phải</i>
<i>thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?". Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.</i>
<i><b>+ Lúc chờ đợi Mẹ về: Tràng nóng ruột, đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta </b></i>
thấy hắn nơn nóng như thế. Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con vì dù
sao Tràng vẫn cịn có mẹ - đó là đấng tối cao của Tràng vì chỉ có mẹ mới
quyết định được hạnh phúc của hắn. Tràng nóng lịng thưa chuyện với mẹ.
Bắt mẹ ngồi lên giường để thưa chuyện. Khi được đồng ý, Tràng thở đánh
phào một cái nhẹ cả người. Thế là Tràng đã có gia đình, có vợ, không tốn
tiền cưới hỏi, Tràng lấy được vợ thật hiển hách.
<b>+ Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy</b>
nghĩ chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng
vào sau cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ
<i>chịu "Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra". Đó là</i>
tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa
nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng
yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lịng
<i>"Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương u gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.</i>
<i>Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như</i>
<b>+Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt,</b>
<b>Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao</b>
<b>khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngồi đình vang lên vội vã, dồn</b>
đường sống cho những con người đang đứng bên bờ vực của cái chết đó là
chỉ có đi theo cách mạng mới giải phóng được cho họ)
<b>Kết luận: Qua sự biến đổi tâm trạng thấy được vẻ đẹp tâm hồn tính cách</b>
nhân vật đó là tình thương niềm khao khát hạnh phúc, niềm lạc quan
<b>tin tưởng vào tương lai và thấy được tình cảm nhân đạo cuả nhà văn</b>
<b>dành cho người lao động nghèo khổ.</b>
<b>Khái niệm sức sống tiềm tàng: sức sống tiềm tàng là sức sống nội tại bên</b>
trong, có sẵn ở bên trong nhưng bị che lấp, nó như một hịn than âm ỉ cháy trong
lớp tro nguội lạnh và khi có điều kiện thì sẽ bùng cháy. Mị giống như cây hoa
đào, hoa mận Tây Bắc: trước mùa xuân thì gầy guộc mong manh nhưng lại ẩn
chứa một sức sống mãnh liệt ở bên trong để chờ ngày mùa xuân mà bung nở
màu hoa đẹp nhất.
<b> Sự tác động của bối cảnh bên ngoài đối với sự trỗi dậy của</b>
<b>Mị:</b>
<b>•- Tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh sức sống của Mị là Thiên</b>
<b>•- Tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh sức sống của Mị là tiếng</b>
<i><b>sáo: "Ngồi đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi... Đó</b></i>
chính là tín hiệu đêm tình.Chính khơng gian rộn rã sắc màu cùng tiếng
sáo tha thiết đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi
nhớ. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi. Tiếng sáo hối thúc Mị,
tiếng sáo như cơn gió thổi bung đi lớp tro tàn nguội lạnh đang phủ lấy
tâm hồn Mị. Tiếng sáo nhập vào hồn Mị làm đồng hiện quá khứ tươi
đẹp của một cô gái giàu tài năng. Bước nhảy tâm lý đầu tiên của Mị đó
<i>là việc Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo " Mày có con trai</i>
<i>con gái rồi/Mày đi làm nương/ Ta chưa có con trai con gái/Ta đi tìm</i>
<i>người yêu".</i>
<b> Chính tiếng sáo dẫn Mị đến hành động nổi loạn về nhân tính:</b>
<i>Uống rượu: " Mị lén lấy hũ rượu. Cứ uống ực từng bát". Mị uống như</i>
nuốt cay, nuốt đắng, nuốt hận vào trong. Uống cho quên nhưng lại nhớ.
Trong nhà thống lí là tù ngục, ngoài kia là thiên đường tuổi trẻ.
<b>Nhận xét: Rượu chính là - chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị.</b>
<i>Rượu làm Mị sống lại một quá khứ đầy ắp niềm vui sướng: Ngày trước Mị</i>
<i>thổi sáo giỏi. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Sau</i>
<i>bao nhiêu năm, giờ đây Mị đã tìm lại được cảm giác ấy bằng hành động "</i>
<i>Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo".</i>
Đêm tình mùa xuân cùng với rượu và tiếng sáo đã làm cho Mị thay
<i>đổi. Cô gái của ban chiều đã khác cô gái bây giờ. Mị vui lắm "Mị thấy</i>
<i>phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày</i>
<i>trước". Đó là niềm vui của một kẻ đã tìm lại được mình. Và Mị ý thức</i>
<i>được rằng " Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Đúng là bi kịch.</i>
Khi một người đàn bà chợt nhận ra mình cịn trẻ trong hồn cảnh trớ trêu
này thì đúng là một bi kịch.
<b> Đỉnh điểm của cảm xúc bi kịch ấy là nỗi tủi thân: Mị đã có cuộc</b>
sống khơng hạnh phúc với A Sử. Mị đã sống kiếp ngựa trâu. Đau đớn
<i>quá, Mị khát khao "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho</i>
<i>chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa". Muốn chết, nghĩa là Mị khơng</i>
cịn như trước nữa, Mị muốn phản kháng lại hoàn cảnh. Mị đã khơng cịn
chấp nhận cái thực trạng ê chề này.
<b> Từ đó, Mị đi đến quyết định táo bạo: Bỏ nhà đi theo những đám</b>
<i><b>chơi. Đó là một ý định giải thốt lặng lẽ nhưng vơ cùng mãnh liệt : Mị</b></i>
<i>đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho</i>
<i>đêm ảm đạm đang vây quanh Mị, đang thắp lên ngọn lửa trong tâm hồn</i>
<i>Mị. Một loạt các hành động gấp gáp được Tơ Hồi diễn tả: "Mị quấn lại</i>
<i>tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách...Mị rút thêm cái áo". Đó</i>
thản và không hề để ý đến thái độ của A Sử. Chứng tỏ, sức sống mãnh
liệt trong Mị đang lớn hơn tất cả. Bóng ma thần quyền cũng không thể
lớn hơn sức sống của Mị.
<b> Ý định giải thoát của Mị không thành khi A Sử trở về : Hắn thẳng</b>
<i>tay vùi dập tàn nhẫn sự trỗi dậy đó : Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói</i>
<i>đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xỗ xuống, A Sử quấn ln tóc lên cột làm</i>
<i>cho Mị khơng cúi, khơng nghiêng đầu được nữa...</i>
<b> Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị chứ khơng trói được tâm</b>
<b>hồn của Mị bởi tâm hồn Mị đang tự do dạo chơi trong thế giới của</b>
<i><b>khát vọng sống : Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như khơng biết mình</b></i>
<i>đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo</i>
<i><b>những cuộc chơi, những đám chơi... Mị khơngbiết mình bị trói nghĩa là</b></i>
<b>cô không sống bằng thể xác nữa mà thực sự đang sống bằng tâm</b>
<b>hồn và tiếng sáo gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị, Mị vui sướng quá đến</b>
<i>nỗi "vùng bước đi". Và thực sự cô chỉ tỉnh khi "tay chân đau không cựa</i>
<i>được". Tỉnh rồi mới thấy lịng cay đắng " Mị thổn thức nghĩ mình khơng</i>
<i>bằng con ngựa".</i>
<b> Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị khơng thành. Mị khơng thốt khỏi</b>
căn nhà ấy, dù chỉ một phút giây. Nhưng Mị đã khơng cịn là con ngựa,
con rùa lùi lũi nơi xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi
thanh xuân tươi trẻ và tự do. Vì thế, khi bị A Sử trói, lúc bàng hồng tỉnh,
Mị chợt nhớ đến câu chuyện một người đàn bà trong nhà này bị trói đến
<i>chết khơng ai hay. Và Mị đã sợ " Mị cựa quậy xem mình cịn sống hay</i>
<i><b>chết". Mị còn muốn sống nghĩa là Mị còn ham sống. Lòng yêu đời</b></i>
<b>trong cô gái Mèo ấy chưa hẳn là đã nguội tắt.</b>
<b> Cuộc trỗi dậy như một đợt sóng dâng lên rồi tràn ra. Nó</b>
<b>khơng làm mảy may thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng từ</b>
<b>đó, sóng ngầm vẫn khơng mất. Nó sẽ tn trào thành</b>
<b>những đợt sóng mới, mãnh liệt hơn lúc nào hết, bằng</b>
<b>chứng là hành động cởi trói cho A Phủ và cùng anh trốn</b>
<b>khỏi Hồng Ngài sau này.</b>
<b> Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ</b>
<b>A Phủ vì đánh con quan nên bị phạt vạ trở thành nơ lệ cho nhà thống lí Pá </b>
Tra. Mị và AP đồng cảnh ngộ: đều là thân phận nô lệ vì chính sách cho vay
nặng lãi. Vì để hổ bắt mất một con bò nên AP phải chịu trói. Cha con nhà
thống lí đã trói AP vào cái cọc đóng ở giữa nhà bằng dây mây. AP đang rơi
<i>vào tình trạng: chết đau, chết đói, chết rét.</i>
<b>Diễn biến:</b>
<i><b>Lúc đầu: Mùa đông rẻo cao rét buốt. Đêm nào Mị cũng thức dậy thổi lửa</b></i>
hơ tay. Những gì xảy ra xung quanh, Mị khơng cần biết, khơng đối hồi,
khơng quan tâm. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện kể cả lúc ra
sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra
sưởi lửa như đêm trước. Mị vẫn thừa biết A Phủ đang bị trói trên cái cọc
<i>đó, mỗi lần thổi lửa Mị vẫn thấy hai mắt AP mở trừng trừng. Nhưng " nếu</i>
<i>AP là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi". Nghĩa là Mị vô cảm. Mị mất</i>
luôn cả cái tình thương người mà bất cứ ở người phụ nữ nào cũng có. Mị
chỉ biết, chỉ cịn ở với ngọn lửa. Lửa cũng cô đơn, Mị cũng cô đơn. Hai kẻ
cô đơn ấy thức cùng nhau trong băng giá.
<i><b>Sau đó:</b></i>
Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trơng sang và nhìn thấy một dịng nước
mắt lấp lánh bị xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Dòng nước
mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ
đang bất lực trước số phận. Và giọt nước mắt ấy đã làm tan đi giá băng của
trái tim Mị. Đã thức dậy trong Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Trái tim
<i><b>Mị quặn đau khi " trông người lại ngẫm đến mình". Mị chợt nhớ lại đêm </b></i>
<i>năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước</i>
<i>mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, khơng lau đi được.</i>
<b> Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà Thống lí Pá </b>
<i><b>Tra: Mị thốt lên "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình </b></i>
<i>chết cũng thơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà </i>
đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà
mình ghánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc
chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở
đây.
<b> Từ lòng thương người và lòng căm thù, Mị phảng phất nghĩ gần </b>
<i>chết?. Mị nhìn thấy được sự phi lí của số phận A Phủ. Mị trân trọng giá trị </i>
con người, mạng sống con người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và
đang hình thành hành động.
<b> Mị tưởng tượng rằng</b><i><b> " Nếu Mị cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá </b></i>
<i>Tra biết được, sẽ trói Mị thay vào đấy và cơ lại phải chết trên cái cọc ấy". </i>
Nhưng Mị khơng sợ, điều gì đã làm cho Mị khơng sợ hãi. Phải chăng đó
<b>là :Lịng thương người.Tình thương ấy khiến cơ đi đến hành động cởi trói </b>
<i>cho A Phủ " Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây". Cuối cùng thì </i>
Mị đã cởi trói cho A Phủ. Đó là cuộc trỗi dậy mang tính tự phát.
<b> Từ cứu người đến cứu mình: Mị cởi trói cho AP cũng chính là cởi trói </b>
cho cuộc đời mình.
Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị hốt hoảng. Ngay sau đó Mị đứng lặng trong
<i><b>bóng tối với bao dằng xé nội tâm. " Ở lại hay chạy trốn - Sống hay chết - </b></i>
<i><b>tự do hay không tự do" . Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà</b></i>
khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có
nghĩa là chạy thốt cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước chân
Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè
<i>nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc " A Phủ cho tơi đi! Ở đây thì chết </i>
<i>mất". Đó là câu nói thể hiện lịng ham sống, khát vọng tự do đến mãnh liệt </i>
trong Mị.
<i><b> Như vậy, diễn biến hành động cuả nhân vật Mị đi từ tự phát đến tự giác,</b></i>
<i><b>tự cứu mình và đến với cách mạng sau này như là điều tất yếu.</b></i>
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với
sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người
mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân
mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống
tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần
quyền.
<b>Nghệ thuật:</b>
- Nghệ thuật trần thuật, miêu tả, cách dựng bối cảnh truyện sinh động hấp
dẫn. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, dễ hiểu.
<i><b>TỔNG HỢP 10</b></i>
<b>CHƯƠNG TRÌNH ƠN THI ĐẠI HỌC KHỐI C - D MƠN NGỮ VĂN 2008 - 2009</b>
<b>PHẦN I.</b>
<b>CÁC TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM</b>
<b>NAM CAO(1915-1951)</b>
<i><b>1. Sự nghiệp văn học (30 dòng)</b></i>
<b> a. Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ra trong 1 gia</b>
đình nơng dân làng Đại Hồng, tỉnh Hà Nam. Ơng là nhà văn có vị trí hàng đầu
trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, là một trong những đại diện xuất sắc
nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước 1945. Nam Cao cũng là cây
bút tiêu biểu của chặng đầu nền văn học mới sau cách mạng.
<b> b. Sự nghiệp Vhọc của Nam Cao trải dài trên 2 thời kỳ, trước và sau</b>
<b>CMT 8.</b>
- Trước CMT8: sáng tác của N.Cao tập trung vào 2 đề tài chính: cuộc
sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân ở quê
hương.
<b> + Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản nghèo, đáng chú ý là các truyện</b>
<i><b>ngắn:"Những truyện không muốn viết"; "Trăng sáng", "Đời thừa", "Mua</b></i>
<i><b>nhà", "Nước mắt", "Cười"...và tiểu thuyết "Sớng mịn"(1944). Trong khi mô tả</b></i>
những "Giáo khổ trường tư", học sinh thất nghiệp...Nam Cao đã làm nổi bật tấn
bi kịch tinh thần của họ, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa XH to lớn. Đó là tấn bi
kịch dai dẳng của người trí thức, những người có ý thức sâu sắc về giá trị đời
sống và nhân phẩm, muốn sống có hồi bão, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và
hồn cảnh XH làm cho "chết mịn", phải sống" đời thừa"
<i><b> + Ở đề tài về người nông dân, đáng chú ý nhất là các truyện:"Chí</b></i>
<i><b>Phèo", "Trẻ con khơng được ăn thịt chó"," Một bữa no"," Lão Hạc"," Một</b></i>
<i><b>đám cưới", "Lang Rận"...ở đề tài này, Nam Cao thường nhắc đến những hạng</b></i>
cố cùng, những số phận hẩm hiu bị ức hiếp, bị lưu manh hoá ...Nhà văn đã kết
án sâu sắc cái Xã hội tàn bạo làm huỷ diệt cả nhân tính của những con người
lương thiện. Ở một số TP, Nam Cao đã thể hiện niềm xúc động trước bản chất
đẹp đẽ, cao quí trong tâm hồn họ (L.Hạc)
- Sau CMT8, Nam Cao sáng tác để phục vụ công cuộc kháng chiến,
<i><b>truyện ngắn "Đôi mắt" (1948) "Nhật ký ở rừng" (1948) và tập bút kí "Chuyện</b></i>
<i><b>biên giới"(1950) của ơng thuộc vào những sáng tác đặc sắc nhất của nền văn</b></i>
học mới sau CM còn rất non trẻ khi đó.
- Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy tư và đằm
thắm yêu thương. Nam Cao là cây bút bậc thầy, ông xứng đáng được coi là một
nhà văn lớn giàu sức sáng tạo của văn học VN.
<i><b>2. Tuyên ngôn nghệ thuật của NCao</b></i>
<i><b> +Truyện ngắn "Trăng sáng" (1943): "Chao ôi! Nghệ thuật không cần</b></i>
<i>phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là</i>
<i>tiếng đau khổ kia, thốt ra từ những kiếp lầm than"</i>
<i><b> +Truyện ngắn"Đời thừa (1943)</b></i>
+ Một tác phẩm" thật giá trị" thì phải có nội dung nhân đạo sâu sắc:
" Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.
<i>mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tịi,</i>
<i>khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có"</i>
<i> - Văn chương địi hỏi phải có lương tâm của người cầm bút: "Sự cẩu thả</i>
<i><b> - Trong tác phẩm "Đôi mắt" (1948) NC đã nêu 1 quan điểm của mình:</b></i>
<i>"Vẫn giữ đơi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta</i>
<i>chỉ càng thêm chua chát và chán nản".</i>
<i><b>3. Phong cách nghệ thuật: NC có phong cách NT độc đáo.</b></i>
- Đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần - con người bên trong của con người.
- Biệt tài phát hiện, miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật.
- Rất thành cơng trong ngơn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm.
- Kết cấu truyện chặt chẽ.
- Cốt truyện đơn giản, rất đời thường nhưng lại đặt ra những vấn đề quan trọng,
sâu xa, có ý nghĩa triết lí sâu sắc.
- Giọng điệu lời văn: lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm, yêu thương.
- Ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, gắn với lời ăn tiếng nói của quần chúng.
<b> NGUYỄN TUÂN</b>
<b>1-Con người:</b>
NgTuân (1910-1987) sinh ra trong 1 gia đình nhà Nho khi Hán học đã
tàn, NTuân cầm bút từ khoảng đầu những năm30, nhưng đến 1938 mới nổi tiếng
<i><b>với các tác phẩm "Một chuyến đi", "Vang bóng một thời".</b></i>
Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lịng u nước, tinh thần dtộc. Ở NT, ý thức cá nhân
phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết là để khẳng định cá tính độc đáo của mình. NT
cịn là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu những môn
nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Nguyễn Tuân là một nhà văn
thực sự biết quý trọng nghề nghiệp của mình.
<b>2- Phong cách nthuật của NT</b>
- NT có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Ông quan
niệm đã là văn thì trước hết phải có một phong cách độc đáo, viết không giống
ai, từ chủ đề, nhân vật, kết cấu,đến cách đặt câu dùng từ....
- Tính uyên bác thể hiện trong văn của NT: Đọc văn của NT, người đọc
luôn được cung cấp những tri thức phong phú về văn hoá trên những lĩnh vực:
Văn học, nghệ thuật, lịch sử, địa lý, hội hoạ, điêu khắc, điện ảnh...
-NT học theo"Chủ nghĩa xê dịch", ông ln thèm khát những điều mới lạ.
Ơng khơng thích những gì bằng phẳng, nhợt nhạt, n ổn. Ơng là nhà văn của
những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt.
NT có phong cách tự do, "ngơng", phóng túng và ý thức sâu sắc về cái
tôi cá nhân. Điều này đã khiến NT tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
-Phong cách của NT có sự thay đổi trước và sau CMT8.
<b>3- Những nét chính về sự nghiệp vhọc của NT</b>
Trong hơn nửa thế kỷ cầm bút, NT đã để lại một sự nghiệp vhọc lớn.
-Trước CMT8 các tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh 3 đề tài:
<b> + Một là về "Chủ nghĩa xê dịch" : nghĩa là ghi lại những cảnh thnhiên,</b>
xhội, những cảm nghĩ tài hoa độc đáo của nhà văn trên đường"xê dịch" khắp đất
nước mình"một chuyến đi"," thiếu quê hương"
<b> + Hai là đề tài "Vang bóng một thời", ấy là thời phkiến đã qua, những</b>
dư âm còn vọng lại. Ông viết về những phong tục đẹp, những thú chơi tinh tế,
tao nhã của người xưa (tphẩm tiêu biểu "Vang bóng một thời")
<b> + Ba là đề tài "Đời sống truỵ lạc": Viết về tình trạng khủng hoảng tinh</b>
thần của một nhvật "tơi" hoang mang bế tắc, tìm cách thốt ly trong đàn hát,
trong rượu và thuốc phiện (tphẩm" Chiếc lư đồng mắt cua")
Giá trị của tphẩm viết về ba đề tài trên là những trang viết đầy tài hoa và thấm
nhuần lòng yêu nước, viết về phong cách thiên nhiên và những vùng đất khác
nhau trên quê hương mình, viết về những thú chơi tao nhã thể hiện một khía
cạnh của nền vhoá cổ truyền của dtộc và về những con người tài hoa, nghĩa sĩ
và tài năng nhân cách kết hợp với nhau.
- NT có đóng góp rất lớn đối với lịch sử văn học dân tộc. Thể bút ký, tuỳ
bút, tuỳ bút văn học đạt trình độ nghệ thuật cao, góp phần làm phong phú ngơn
ngữ văn học dân tộc, đem đến cho văn xuôi VN một phong cách viết đặc biệt tài
hoa và độc đáo.
<b> NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH(1890-1969)</b>
<b>•1. Con người : </b>
NAQ-HCM là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, là người anh hùng giải phóng dân
tộc VN, đồng thời người cũng là một nhà văn hoá lớn.
HCM tên gọi thời niên thiếu là Nguyễn Sinh Cung, trong thời kì đầu hđộng CM
mang tên NAQ, sinh ngày 19.5.1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.
Năm1911, HCM ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Nhà Rồng. Tháng
1.1919, Người đưa bản Yêu sách của nhân dân An Nam về quyền bình đẳng, tự
do đến Hội nghị Véc xai (Pháp). Năm 1920, Người dự Đại hội Tua và là một
trong những thành viên đầu tiên tham gia sáng lập ĐCS Pháp. HCM đã tham gia
thành lập nhiều tổ chức CM như: VNTNCMĐCH (1925), Hội liên hiệp các dân tộc
bị áp bức á Đông (1925) và chủ toạ hội nghị thống nhất các tổ chức Cộng Sản ở
trong nước tại Hương Cảng, thành lập ĐCS VN (3.2.1930). Tháng 2.1941,
Người về nước hoạt động và thành lập Mặt trận Việt Minh, trực tiếp lãnh đạo
phong trào CM ở trong nước giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng
Tám.1945. Sau hơn 30 năm, trải qua nhiều năm tháng hoạt động cách mạng,
ngày 2/9/1945 HCM đã đọc bản "TNĐL" tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, khai
sinh ra nước VNDCCH. Sau cuộc tổng tuyển cử đầu tiên 6.1.1946, Người được
bầu làm Chủ tịch nước VNDCCH. Từ đó Người ln đảm nhiệm những chức vụ
cao nhất của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong 2 cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược. Người qua đời ngày
2.9.1969, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho dân tộc VN và nhân dân thế giới.
Năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của CTHCM, tổ chức giáo
dục, khoa học và văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn
<i><b>người là "Anh hùng giải phóng dân tộc VN, nhà văn hố lớn". HCM là vị lãnh</b></i>
tụ vĩ đại của dân tộc. Trong sự nghiệp CM to lớn đó, Người đã để lại 1 di sản
<b>2. Những nét lớn về sự nghiệp văn học của HCM.</b>
<i><b>a. Văn chính luận.</b></i>
- Những tác phẩm văn chính luận của HCM được viết ra chủ yếu với mục
đích đấu tranh chính trị nhằm tiến cơng trực diện kẻ thù hoặc thể hiện những
nhiệm vụ CM qua những chặng đường lịch sử.
- Từ những năm 20 của thế kỷ XX, các bài văn chính luận với bút danh
NAQ đăng trên các báo"Người cùng khổ" (leparia), nhân đạo(Lhumanité), "Đời
sống thợ thuyền" (la vie ouvriere) đã tác động và ảnh hưởng lớn đến quần chúng
Pháp và nhân dân những nước thuộc địa, kêu gọi thức tỉnh những người nô lệ bị
áp bức liên hiệp lại trong mặt trận đấu tranh chung. Một trong những tác phẩm
lớn đã kết tinh và hội tụ lại tinh thần trên là "Bản án chế độ thực dân Pháp".
- Năm 1945 "Tuyên ngôn độc lập" là một văn kiện chính trị có giá trị lịch
sử lớn lao, phản ánh khát vọng độc lập, tự do và cuộc đấu tranh kiên cường bền
bỉ của dân tộc đã giành được thắng lợi. Đây là áng văn chính luận hùng hồn
tuyên bố quyền độc lập của dân tộc VN trước nhân dân trong nước và thế giới.
"TNĐL" là tác phẩm chính luận có giá trị pháp lý, giá trị lịch sử, giá trị nhân bản
và giá trị nghệ thuật cao.
- "Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến"(1946) và " khơng có gì q hơn độc
lập tự do"(1966) là những áng văn chính luận hào hùng, tha thiết làm rung động
hàng triệu trái tim yêu nước. Những tác phẩm ấy nói lên các vấn đề thời sự cấp
bách của dân tộc, thể hiện sâu sắc tiếng gọi của non sông, đất nước trong
những giờ phút thử thách đặc biệt.
- Trong những năm tháng cuối đời, Ngươì viết bản"Di chúc" thiêng liêng
<i><b>b.Truyện và ký.</b></i>
Khoảng từ năm 1922-1925 NAQ có viết một số truyện ngắn và ký bằng
tiếng Pháp đặc sắc, sáng tạo và hiện đại. Các truyện ngắn thường dựa trên một
sự kiện, một câu truyện có thật , từ đó Người biết vận dụng, hư cấu để thực hiện
dụng ý nghệ thuật của mình .
<i><b> - Một số tphẩm tiêu biểu là: Pari(1922), Con người biết mùi hun khói</b></i>
<i><b>(1922), Đồng tâm nhất trí(1922); "Vi hành"(1923); "Những trị lớ hay là Va</b></i>
<i><b>ren Phan Bội Châu "(1925)</b></i>
<i><b>c. Thơ ca:</b></i>
- Đây là lĩnh vực nổi bật trong giá trị sáng tạo văn chương của HCM.
Với gần 250 bài thơ có giá trị được tuyển chọn và in trong các tập"NKTT"(134
bài), "ThơHCM"(86 bài-1967) và"Thơ chữ Hán HCM" (86 bài,1990), HCM đã có
những đóng góp quan trọng cho nền thơ ca VN hiện đại .
- Tiêu biểu nhất là "NKTT"được viết trong thgian Người bị giam cầm ở
nhà tù Quốc dân Đảng tại Quảng Tây-Trung Quốc từ 29.8.1942 đến10.9.1943.
Tập thơ "NKTT" trước hết là cuốn nhật ký bằng thơ phản ánh tâm hồn và nhân
cách cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng, đồng thời tố cáo bộ mặt đen tối và
nhem nhuốc của chế độ nhà tù cũng như của XH Trung Quốc thời Tưởng giới
Thạch tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo, luôn hướng về những người lao
động, những bthơ trong "NKTT" biểu hiện lòng yêu nước thiết tha của những
- Ngoài tập "NKTT" HCM cịn viết những bài thơ chữ tình độc đáo và
những bài thơ mộc mạc, giản dị, để tuyên truyền đường lối CM (Pắc bó hùng vĩ,
Tức cảnh Pắc bó, bài ca du kích, ca sợi chỉ...). Đi vào cuộc khchiến chống thdân
Pháp, Người đã biểu lộ những nỗi lo lắng về vận mệnh của non sông, tcảm thiết
tha, gắn bó với cảnh sắc thnhiên đất nước (cảnh khuya, đi thuyền trên sông đáy,
cảnh rừng Việt Bắc) những ca ngợi sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc
khchiến và niềm vui thắng lợi (rằm tháng giêng, lên núi,tin thắng trận, đêm thu...)
- Tập "thơ chữ Hán HCM" tập hợp 36 bài thơ chữ Hán viết trong những
thời điểm với những đề tài (thu dạ, Nguyên tiêu, Tặng bùi công, Nhị vật, thất
cửu...)
<b>3. Phong cách nghệ thuật HCM:</b>
Phong cách nghệ thuật của NAQ-HCM là một phong cách vừa nhất quán, vừa
đa dạng. Tính nhất quán thể hiện rõ nhất ở nguyên tắc sáng tác, ở lối viết giản dị
ngắn gọn mà linh hoạt, biến hoá, ở khả năng kết hợp nhuần nhị yếu tố cổ điển
với yếu tố hiện đại, ở khuynh hướng vận động luôn hướng về ánh sáng, sự sống
và tương lai của tư tưởng và hình tượng nghệ thuật. Tính đa dạng phong phú
được thể hiện ở bút pháp, nội dung, kết cấu, ngôn từ, thủ pháp nghệ
thuật...Ngay trong cùng một đề tài, thậm chí cùng một tác phẩm, tính đa dạng và
phong phú cũng được thể hiện rõ nét.
nào, tác phẩm của Người cũng đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có
giá trị bền vững.
- Văn chính luận của NAQ-HCM biểu lộ tư duy sắc sảo giầu trí thức văn
- Thơ ca HCM cũng có phong cách đa dạng. Những bài cổ thi hàm súc
uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật, những bài thơ hiện đại được
Người vận dụng qua những thể loại, phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách
mạng.
Nhìn chung, nội dung và hình thức nghệ thuật trong sáng tác của
NAQ-HCM luôn vận động linh hoạt theo mục đích sáng tác, đối tượng tác động và
hồn cảnh giao tiếp cụ thể...
<b> 4. Quan điểm sáng tác HCM:</b>
- Sinh thời Chủ Tịch HCM khơng nhận mình là nhà văn nhà thơ và chỉ là
người bạn của văn nghệ, người u văn nghệ, nhưng rồi chính hồn cảnh thôi
thúc, nhiệm vụ cách mạng yêu cầu, môi trường XH và thiên nhiên gợi cảnh,
cùng với tài năng nghệ thuật và tâm hồn nhạy cảm, Người đã viết được rất nhiều
áng văn chính luận hào hùng, những truyện ngắn đặc sắc và hàng trăm bài thơ
rất hay. Người có ý thức và am hiểu sâu sắc qui luật và đặc trưng của hoạt động
văn nghệ, từ phương diện tư tưởng chính trị đến nghệ thuật biểu hiện điều đó
trước hết được biểu hiện trực tiếp trong quan điểm sáng tác văn chương của
người.
+ Là nhà CM vĩ đại lại rất yêu văn nghệ, HCM xem văn nghệ là một
hđộng tinh thần phphú và phvụ có hiệu quả cho sự nghiệp CM, nhà văn là chsĩ
trên mặt trận vhoá tư tưởng tinh thần đó đã được Người nói lên trong bài thơ"
<i> "Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp-Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, </i>
<i>núi,sơng-Nay ở trong thơ nên có thép-Nhà thơ cũng phải biết xung phong"</i>
+ HCM đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn
chương: trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng
phục vụ Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo trí và văn chương.
Trước khi cầm bút người xắc định rõ. viết cho ai?( Đối tượng). Viết để làm gì
(mục đích) viết cái gì ( nội dung) và viết như thế nào?( hình thức).
Người chú ý đến quan hệ giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ các khía
cạnh trên liên quan đên nhau trong ý thức và trách nhiệm của người cầm bút.
+ HCM luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thực,
phát biểu trong buổi khai mạc phịng triển lãm hội hoạ trong năm đầu sau cách
mạng. Người uốn nắn một hướng đi" chất mơ mộng nhiều quá, và cái chất thật
của sự sinh hoạt rất ít" người yêu cầu văn nghệ sĩ phải miêu tả cho hay, cho
chân thật , hùng hồn" những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, phải
chú ý nêu gương" người tốt việc tốt" uốn nắn và phê bình cái xấu bởi tính chân
thực chính là cái gốc của văn chương xưa và nay.
- Nhà văn cũng phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu
kỳ, xa lạ, nặng nề. Hình thức của tác phẩm trong sáng hấp dẫn, ngôn
ngữ phải chọn lọc, bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt. Theo
Người tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh thần của dân tọc
của nhân dân và được nhân dân ưa thích.
<b>BÀI LÀM</b>
* Giới thiệu
- Cùng với sư nghiệp CM vĩ đại, Bh đã để lại 1 sự nghiệp văn chương
phong phú bao gồm nhiều thể loại ( thơ ca, văn xuôi, kịch ) được viết bằng nhiều
bút pháp ( Tự sư, trữ tình, châm biếm, chính luận ) và bằng nhiều thứ tiếng ....
Đáng chú ý là tất cả những sáng tác của 1 qđ2<sub> NT rõ ràng, đúng đắn.</sub>
triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to làm chóng để cứu lấy giống
nịi, thì giờ đâu rảnh mà vẽ với chau chuốt " - Bác rất yêu văn chương nhưng
không bao giờ coi đấy là sự nghiệp chủ yếu là " ham muốn tốt bậc của đời mình
<i>"Bác viết trong thư trả lời các nhà báo ( 1-1946) : "Tơi chỉ có một ham muốn,</i>
<i>ham muốn tốt bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được</i>
<i>hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học</i>
<i>hành". Chính vì thế Bác đã dồn hết sức lực, tâm trí cho hoạt động CM.</i>
+ Nhưng con đường làm CM để cứu nước cứu dân Bác nhận thấy văn
chương là vũ khí sắc bén để chiến đấu chống kẻ thù, là phương tiện hiệu
nghiệm để tuyên truyền CM, động viên chiến sĩ đồng bào. Do đó Bác đã nắm
chắc cái "công cụ tinh vi, kỳ diệu" ấy, đã mài sắc nó bằng ý chí CM, bằng tài
năng NT và Bác đã tạo ra sự nghiệp văn chương có giá trị tg2<sub> như ngoài ý định</sub>
của người.
+ N2 <sub>điều đó đã dẫn tới quan điểm NT của B: coi việc viết văn làm thơ</sub>
trước hết không phải là một hành vi văn chương mà là một hành vi chính trị, mơt
hvi CM. Hoạt động CM bao giờ cũng có đối tượng cụ thể, có mục tiêu thiết thực.
Do đó khi đặt bút viết bao giờ bác Cũng tự hỏi về đối tượng và mục đích: "Viết
cho ai ? Viết để làm gì ? " sau đó B mới quyết định về nội dung: "viết cái gì ? "
và cuối cùng mới lựa chọn hình thức biểu hiện : " Viết ntn ?" ( Cách viết 1947)
- Chứng minh sự thể hiện qđiểm Nt trong stác: ( Phải nói tới nhận xét chung, cho dân
hiểu, cho người có văn hố cao, viết cho dtộc- cho thgiới và viết cho bản thân mình lại
khác )
+ Quan điểm NT của BH là nhất quán nhưng lại biểu hiện trong stác rất
đa dạng vì đối tượng mà Bác hướng đến hết sức phong phú. Tuỳ theo từng đối
tượng cụ thể, các sáng tác văn thơ của B cũng ln thay đổi từ nội dung đến
hình thức, từ ý đồ tư tưởng đến cách viết.
+ Trước hết, để tuyên truyền CM và hướng tới đồng bào mình chủ yếu
là những người dân thường có trình độ VH thấp, thích những gì dễ hiểu, dễ nhớ.
B đã viết hàng lọat tác phẩm rất đơn sơ, mộc mạc " tưởng như không thể gọi là
NT" (Hoài thanh - " Học tập B và làm theo gương B "). N lại dễ dàng đi vào đời
sống, tâm hồn của các tầng lớp nhân dân, giúp họ hiểu tình cảnh đất nước và có
hành động CM kịp thời. Đó là tr ngắn " Đồng tâm nhất trí " là các bài thơ " Ca
sợi chỉ ", "Con cáo và tổ ong ".... B kêu gọi toàn dân đoàn kết để tạo thành sức
mạnh cứu nước bằng cách nói dễ hiểu, hình ảnh giản dị đầy sức thuyết phục:
<i>"Hòn đá to-Hòn đá nặng-chỉ một người-Nhấc khơng đặng" - "Hịn đá to-Hịn đá</i>
<i>nặng-Nhiều người nhấc-Nhấc lên đặng" - "Biết đồng sức-Biết đồng lịng-Việc gì</i>
<i>khó-Làm cũng xong" (Hịn đá to)</i>
viết bằng tiếng Pháp cho những người dân Pari, cho những người Châu âu để họ hiểu rõ
bản chất, xấu xa của bọn thdân và bọn PK tay sai ("Vi hành"). ("Những trò lố hay là
Varen và Phan Bội Châu"...) Đó là những tp B viết cho các trí thức yêu nước, cho các vị
<i> " Non nước của ta, ta lấy lại-Nghìn thu sự nghiệp nổi từ đây" (Tặng cụ Đinh Chương </i>
Dương)
Trong ý thơ đó có bóng dáng ý thơ của Trần Quang Khải.
<i>"Thái Bình nên gắng sức - Non nước ấy nghìn thu" và ý thơ của Trần Nhân</i>
Tơng:
<i> "Xã tắc hai phen chồn ngựa đá-Non sơng nghìn thủa vững âu vàng"</i>
* Với tư cách 1 lãnh tụ CM - Người đứng đầu một đất nước B cịn viết những tác
phẩm chính luận cho tồn dân tộc và có khi cho cả thế giới. Đó là những tp được viết vào
những thời điểm lịch sử trọng đại ; "Tuyên ngôn độc lập" (2/9/1945), "Lời kêu gọi toàn
quốc khchiến" (19/12/1946), "Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước" (7/7/1966)
.... Nhìn chung, những tp đó đều có giọng văn mạnh mẽ, hào hùng, có
chứng cứ cụ thể, xác thực, có lập luận chặt chẽ, đanh thép. Chẳng hạn trong "
TNĐlập " B đã mở đầu bằng kiểu lập luận "lấy gậy ông đập lưng ông" ( Nhắc lại
tuyên ngôn của Mỹ và Pháp để ngầm vạch rõ sự sai trái trong mưu toán xâm
lược của đế quốc Mỹ và thdân Pháp đvới nước ta lúc ấy), từ đó Bác khẳng định
quan điểm tư tưởng của dân tộc VN: "Tất cả các dt trên TG đều sinh ra và bình
đẳng, dt nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do"
* Ngồi ra vốn là người có tâm hồn nghệ sĩ khi có điều kiện, có cảm
hứng Bác cịn sáng tác văn thơ cho bản thân mình để thể hiện những ước mơ
và khát vọng cs, những rung động trước cái đẹp ở đời, những suy nghĩ về hiện
<i> "Tiếng suối trong như tiếng hát xa-Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa-Cảnh</i>
<i>khuya như vẽ, người chưa ngủ-Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà" ( Cảnh khuya )</i>
<b>- Kết luận :</b>
nhất" ( Lê Duẩn ). Đấy không chỉ là kinh nghiệm quý báu cho những ai yêu thích
và say mê văn chương mà đấy còn là bài học sâu sắc cho nhiều người trên
đường đời.
<b> TỐ HỮU</b>
<b>1. Những nét chính về cuộc đời của Tố Hữu:</b>
+ Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành sinh 4/10/1920 quê ở Phù
Lai, xã Quảng Thọ huyện Quảng Điền tỉnh Thừa thiên Huế ơng sinh ra trong một
giđình nhà nho nghèo. Từ nhỏ Tố Hữu đã học và tập làm thơ.
- THữu giác ngộ CM trong thời kỳ mặt trận dân chủ, trở thành ngừơi lđạo
đoàn thanh niên dchủ ở Huế. 8/1945, THữu là chủ tịch uỷ ban khnghĩa ở Huế.
- Sau CMT8 cho đến 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng
yếu trong các cơ quan lđạo của Đảng, Nhà nước.
-Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất chật
chẽ, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng, trở thành một bộ phận
<b>2. Con đường thơ của Tố Hữu gắn liền với chặng đường CM dtộc</b>
+Tố Hữu đã đạt được những thành tựu trong chặng đường sáng tác.
Ông đã nhận được giải thưởng văn học lớn: Giải nhất giải thưởng văn học hội
văn nghệ VN 1954-1955 ( Tập Việt Bắc); Giải thưởng văn học ASEAN (1996);
Giải thưởng HCM về văn học-nghệ thuật ( đợt một 1996);
+ Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng, nên các
chặng đường thơ cũng song hành với các giai đoạn của cuộc đấu tranh ấy.
<b> a. Tập thơ "từ ấy"(1937-1946) là chặng đường đầu mười năm thơ Tố</b>
Hữu cũng là mười năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến
trưởng thành của người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử sôi
động.
Tập thơ gồm ba phần( tương ứng với ba chặng đường trong mười năm hoạt
động của Tố Hữu)
<i><b> - "Xiềng xích": ghi lại những cuộc đtranh gay go của những người chiến</b></i>
sĩ cách mạng trong nhà tù thdân. Thể hiện sự trưởng thành vững vàng của
người thanh niên cách mạng qua thử thách bộc lộ một tâm hồn yêu đời tha thiết.
<i><b> -"Giải phóng" : Thể hiện niềm vui chiến thắng, ca ngợi cách mạng thành</b></i>
công.
<b> b. Tập thơ" Việt bắc" (1947-1954): là chặng đường thơ Tố Hữu trong </b>
những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tập thơ ca ngợi cuộc
kháng chiến, con người kháng chiến, đồng thời phản ánh những gian lao của
quân và dân, lòng anh dũng . Sự trưởng thành của nhân dân dưới sự lãnh đạo
<b>b. Tập thơ" Việt bắc" (1947-1954): là chặng đường thơ Tố Hữu trong những</b>
năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tập thơ ca ngợi cuộc kháng
chiến, con người kháng chiến, đồng thời phản ánh những gian lao của quân và
dân, lòng anh dũng . Sự trưởng thành của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Bác Hồ dã đưa cuộc kháng chiến đến ngày thắng lợi (cá nước, lên Tây bắc,
Việt bắc, Bầm ơi, Lượm...)
<b> c. Tập thơ "gió lộng"( 1955-1961): Là tiếng hát ca ngợi cuộc sống mới</b>
XHCN ở miền bắcvà bộc lộ tình cảm tha thiết với miền nam, đồng thời thể hiện ý
chí thống nhất đất nước, tình cảm qutế vơ sản với các dân tộc anh em trong
niềm vui, THữu không quên nhớ về quá khứ để thấm thía những khổ đau của
ơng cha ( mùa thu tới, ba mươi năm đời ta có Đảng, quê mẹ...).
<b> d. Tập thơ " Ra trận"(1962-1971) và " Máu và hoa"( 1972-1977).</b>
Là hai tập thơ ra đời trong thời kỳ cả nước chiến đấu kiên cường, giải
phóng miền nam, thống nhất đất nước. Cả hai tập thơ khẳng định phẩm chất con
người Việt nam , đồng thời là khúc ca khải hoàn kết thúc cuộc chiến đấu, Bắc
Nam một nhà, non sông liền một dải. (Ti
<i><b>Một là: Nghị luận về một hiện tượng đạo lý, lối sống.</b></i>
Cách làm:
<i><b>Mở bài :nêu vấn đề cần nghị luận: (0.25 đ)</b></i>
<i><b>Thân bài:</b></i>
Giải thích khái niệm:0.5đ
Biểu hiện của đạo lý, lối sống 1.0 đ
Phê phán những biểu hiện không đúng, sai lệch: 0.5đ
Biện pháp: 0.5
<i> Kết bài: 0.25</i>
<b>Hai là: Dạng đề bàn về xã hội</b>
<b>Mở bài: Nêu vấnđề nghị luận</b>
<b> Thân bài :</b>
Thực trạng của vấn đề.
Nguyên nhân
<b> CÂU 2 ĐIỂM</b>
1. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ?
2. Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu ?
3. Vì sao nói con đường thơ cũng là con đường cách mạng của nhà thơ Tố Hữu.
4. trình bày quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh ?
5. Trình bày sự nghiệp thơ ca Xn Diệu.
<b>CÂU 5 ĐIỂM</b>
1. Phân tích hình tượng cây Xà nu trong tác phẩm Rừng Xà Nu của nhà văn NTT?
2. Phân tích nhân vật Tnú.
3. Phân tích nhân vật Chí Phèo (bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, diễn biến tâm trạng sau khi
gặp Thị Nở)
4. Tình huống truyện độc đáo của Vợ nhặt.
5. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng.
6. Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa.
đứa trẻ (Thạch Lam)
8. Phân tích nghệ thuật trào phúng trong hạnh phúc một tang gia (Vũ trọng phụng.)
<b>PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG CHÀI TRONG TÁC </b>
<b>PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NHÀ VĂN NMC</b>
<b>ĐÂY LÀ SƯỜN BÀI, CÁC EM TỰ LÀM NHÉ!</b>
<i><b>Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh </b></i>
Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn
bà làng chài - người phụ nữ vơ danh với tấm lịng bao dung, vị tha, đức hi
sinh cao thượng mà khiến khi gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Để tạo nên hình tượng người đàn bà ấy nhà văn đã tạo ra tình
huống truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ
số phận:
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người
lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng
được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo
lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh
cảnh biển có một khơng hai(dẫn chứng) . Nhưng đằng sau chiếc thuyền
đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ
phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn
bà nhẫn nhục chịu đựng (dẫn chứng). Phùng từ sung sướng đến ngạc
nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.
vùng biển nhỏ bé này: CHỊ LÀ NGƯỜI VÔ DANH. Dường như cuộc sống
chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu
khiến người khác phải suy nghĩ.
<b>- Ngoại hình: trạc ngồi 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt </b>
mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn
bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn,
lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
<b>- Số phận: Bất hạnh</b>
Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo
khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người
chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh
mẹ...
+ Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi cịn nhỏ
+ Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ
chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh
+ Gia đình nghèo lại cịn đơng con, thuyền thì chật,...
+ Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm
ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh,
như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho
ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề
kêu một tiếng, khơng chống trả, khơng tìm cách chạy trốn mà coi đó là
một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng
chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
Số phận đầy bi kịch được tác giả tái hiện đầy cảm thơng và chia sẻ.
<b>- Phẩm chất, tính cách:</b>
<i><b>+ Nhẫn nhục, chịu đựng: chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất </b></i>
quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, khơng kêu van, khơng trốn
chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt
tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".
Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người
đàn ơng.
<i><b>+ u thương con tha thiết(" phải sống cho con chứ khơng thể sống cho </b></i>
mình")
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vơ bờ
bến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo
chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con " Đàn bà trên thuyền
chúng tôi phải sống cho con, ko thể sống cho mình như trên đất được".
Tình thương vơ bờ đối với những đứa con Phân tích ty của chị với thằng
Phác, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận
bố,....
<i><b>+ Người đàn bà vị tha</b></i>
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm
hạnh phúc nhỏ nhoi ( "...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái
sống vui vẻ, hoà thuận")
<i><b>+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời </b></i>
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ ("Ông trời sinh ra người đàn bà
là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khơn lớn")
<b>Vì hồn cảnh: trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần </b>
một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Bởi nếu hiểu sự
việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong.
Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của
người đàn bà là không thể khác được.
Đắng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm
lòng yêu thương mê muội, đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam
lũ, chất phác, có tình thương con vơ bờ bến, vừa ln mang nỗi đau, vừa
có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời.
Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt
Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,
đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,
khơng thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống.
Đây cũng ;à nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị
"khai quốc cơng thần của triều đại văn học mới".
<b>PHÂN TÍCH THƠ HAY VĂN XI THÌ TRƯỚC KHI KẾT BÀI PHẢI NĨI</b>
<b>VỀ NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM: </b>
<b>Văn xi thì thường kết là: bằng nghệ thuật miêu tả tài tình cộng với</b>
<b>ngơn ngữ mộc mạc giản dị tác giả đã làm hiện lên....</b>
Quang Dũng
<i><b>Câu 1: Vài nét về tác giả Quang Dũng ? Giới thiệu về đoàn quân Tây</b></i>
<i><b>Tiến ? Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến ?</b></i>
<b>a. Tác giả</b>
Quang Dũng (1921 - 1988), tên khai sinh: Bùi Đình Diệm, (tức Dậu).
Quê: Đan Phượng, Hà Tây.
Là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc...
2001, được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
<b>Tác phẩm chính:</b>
Mây đầu ơ (thơ - 1986), Mùa hoa gạo, Tuyển thơ văn Quang Dũng (1988)
<b>b. Giới thiệu đoàn quân Tây Tiến</b>
<b>Thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng là đại đội trưởng.</b>
<b>Thành phần: đa số là thanh niên Hà Nội, trong đó có sinh viên và học</b>
sinh.
<b>Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng Pháp ở</b>
Thượng Lào, miền Tây Bắc bộ Việt Nam, góp phần bảo vệ biên giới Lào
-Việt.
<b>Địa bàn hoạt động: khá rộng, gồm Sơn La, Hịa Bình, Sầm Nứa (Lào)</b>
vịng về miền tây Thanh Hóa.
<b>Điều kiện chiến đấu gian khổ: núi cao, vực thẳm, rừng dày, thú dữ, sốt</b>
rét hoành hành.
<b>c. Hoàn cảnh ra đời bài thơ:</b>
Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác
tại Phù Lưu Chanh sau khi rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu. Lúc đầu có
<i><b>tên Nhớ Tây Tiến, sau khi in lại trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi tên</b></i>
<i><b>thành Tây Tiến.</b></i>
<b>Câu 2</b><i><b> : Phân tích bài thơ Tây Tiến.</b></i>
<b>Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi</b>
<b>tráng.</b>
<b>Cảm hứng lãng mạn là niềm lạc quan, yêu đời, đạp bằng tất cả những</b>
gian khổ, hi sinh mất mát, hướng về tương lai hi vọng, trông chờ.
<b>Cảm hứng bi tráng (bi hùng): bi là đau thương, hùng là hào hùng, nghĩa</b>
là vừa bi thương lại vừa hào hùng.
<i><b>1. Khổ 1 ( Sông Mã ... nếp xôi)</b></i>
Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
•- Vần "ơi", kết hợp từ láy "chơi vơi" là vần bằng tạo âm
hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt, câu thơ sâu
lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng,
lan rộng lan xa trong khơng gian. Nỗi nhớ như có hình dáng của núi
•- Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của
mình. Vì con sơng Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước
chân quân hành, chứng kiến biết bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh,
vất vả của người lính TT. Gọi tên TT là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn
bè.
<b>Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca VN khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách</b>
diễn tả:
Ca dao có câu:
<i>Nhớ ai bổi hổi bồi hồi</i>
<i>Như đứng đống lửa như ngồi đống than</i>
Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu:
<i>Nhớ gì như nhớ người u</i>
<i>Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương</i>
Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả - nhớ chơi
<b>vơi. Chơi vơilà trạng thái trơ trọi giữa khoảng khơng rộng, khơng thể bấu</b>
<i><b>víu vào đâu cả.Nhớ chơi vơi có thể hiểu là một mình giữa thế giới hồi</b></i>
niệm mênh mơng, bề bộn, khơng đầu, khơng cuối, khơng thứ tự thời gian,
khơng gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người
có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa
Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây
<b>vừahùng vĩ lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm</b>
hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa.
<b>Nhớ cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây hùng vĩ:</b>
<i><b>•- Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường lát,</b></i>
Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu... gợi bao cảm xúc mới lạ, tác
giả như đưa người đọc lạc vào những địa hạt heo hút, hoang dại
để từ đó dõi theo bước chân quân hành của người lính.
<b>Cụ thể:</b>
<i><b>Con đường hành quân thật gian nan, vất vả, nguy hiểm với</b></i>
<i><b>dốc cao, vực thẳm:</b></i>
<i>Sài Khao sương...</i>
<i>Mường Lát...</i>
+ Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ lấp cả đoàn quân. Đoàn
quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp mệt mỏi
rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ
mộng: đi trong sương, trong hoa đêm hơi.
<i>Dốc lên...</i>
<i>Heo hút...</i>
+ Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo
<i><b>hình "khúc khuỷu" (quanh co khó đi), "thăm thẳm" (diễn tả độ cao, độ</b></i>
<i><b>sâu), "heo hút"(xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều</b></i>
<i><b>thanh trắc đi liền nhau"dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm" (bảy chữ mà</b></i>
đã có tới 5 vhwx là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc,
mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.
+ Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi
súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên
<i>một hình ảnh: "súng ngửi trời" giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng</i>
mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người
<i>chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào cũng vượt qua </i>
<i>-Kẻ thù nào cũng đánh thắng!". Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước</i>
thiên nhiên dữ dội người lính TT khơng bị mờ đi mà nổi lên đầy thách
thức.
rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà
thơ - chiến sĩ.
<i>+ Có cảnh đồn qn đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa</i>
<i>khơi".Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm</i>
dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc
quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây
<i>+ Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: "Anh bạn dãi dầu</i>
<i><b>không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Cái chết đậm chất bi</b></i>
<i><b>hùng: Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến</b></i>
đấu, không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực chiến tranh xưa nay
vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ
<b>xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng</b>
<b>khơng chút bi luỵ, thảm thương.</b>
+ Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm,
không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà cịn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng
thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
<i>"Chiều chiều oai linh thác gầm thét</i>
<i>Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"</i>
<i>"Chiều chiều..." rồi "đêm đêm" nhưng âm thanh ấy, "thác gầm thét",</i>
"cọp trêu người", ln khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn
đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy
ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí
anh hùng của đồn qn Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí
<i>"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói</i>
<i>Mai Châu mùa em thơm nếp xơi"</i>
<i>"Nhớ ơi!" tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây</i>
<i>Tiến "đồn binh khơng mọc tóc". Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị</i>
<i>bản mường với "cơm lên khói", với "mùa em thơm nếp xơi" có bao giờ</i>
<i>quên? Hai tiếng "mùa em" là một sáng tạo độc đáo về ngơn ngữ thi ca, nó</i>
hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm
mại, tình thơ trở nên ấm áp.
"Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xơi" là nhớ hương
vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lịng cao cả của đồng bào
<i>Tây Bắc thân yêu. Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài "Tây Tiến",</i>
một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng
chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hồnh tráng, trên đó nổi bật lên
hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với
niềm kiêu hãnh
<i>" Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...".</i>
Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành
công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ " Tây Tiến của Quang Dũng ngày một thêm
<b> </b>
<i><b>2. Khổ 2 ( Doanh trại...đong đưa)</b></i>
<b>Bốn câu đầu: (chép vào) đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.</b>
<i>+ Từ " Bừng lên" gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm</i>
<i>rừng núi thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành "đuốc hoa" ("Đuốc</i>
hoa" là hoa chúc - cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hơn.)gợi
khơng khí ấm cúng. "Bừng" chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng
bừng lên; cũng cịn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng
rộn rã.
rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái
Lào xinh đẹp, duyên dáng "e ấp", xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng
với tiếng khèn "man điệu" đã "xây hồn thơ" trong lịng các chàng lính
trẻ.Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang
phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Họ càng
yêu đời hơn, yêu đất bạn hơn " Nhạc về..."
+ Khơng chỉ thế người lính cịn mải mê, say trong tiếng nhạc, điệu
khèn của vùng đất lạ.
<b>4 câu sau: Cảnh sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng</b>
<b>:hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.</b>
Thời gian: chiều sương ấy, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi
buồn man mác.
Sông nước hoang dại, bên bờ lau lách, hoa rừng đong đưa. Hình ảnh "hoa
đong đưa" là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái "dáng người trên độc mộc"
trơi theo thời gian và dịng hồi niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ,
thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền "chiều sương ấy". Cảnh và người
được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp
của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.
+ Dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc
mộc hay dáng người hùng dũng, hiên ngang của người lính đang đưa con
thuyền tiến về phía trước càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng.
<i><b>"Có nhớ", "có thấy" luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi.</b></i>
<b>Nghệ thuật: ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất</b>
lãng mạn, hào hoa.
<b>3. Khổ 3</b>
<b>Hình tượng người lính Tây Tiến bi thương, hào hùng, lãng mạn.</b>
<i><b>Giữa nền thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật kì</b></i>
<i><b>dị: Quang Dũng đã dùng những hình ảnh rất hiện thực để tơ đậm cái</b></i>
<i><b>phi thường của người lính.</b></i>
<b>Bi thương: Ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá.</b>
Đó là hậu quả của những ngày hành qn vất vả vì đói và khát, của những
trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu
<b>Dẫn chứng minh họa thêm:</b>
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má...
Anh vệ...
Sao mà...
(TH)
Tôi với anh...
Sốt run...
<b>Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập, giữa ngoại hình ốm yếu và tâm</b>
hồn mạnh mẽ: Đồn binh khơng mọc tóc", " Qn xanh màu lá", tương
<i>phản với " dữ oai hùm". Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những "</i>
<i>Vệ túm", "Vệ trọc"một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên.</i>
Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu khơng mọc tóc vì sốt rét
rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà " dữ oai
<i><b>hùm" làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. " "Đoàn binh" gợi lên sự mạnh</b></i>
<i>mẽ lạ thường của " Quân đi điệp điệp trùng trùng", của "tam quân tì hổ khí</i>
<i><b>thơn ngưu" (sức mạnh ba qn nuốt trơi trâu) . Ba từ " dữ oai hùm", gợi</b></i>
lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm, người lính TT vẫn
mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt
<i><b>xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. "mắt trừng" dữ tợn, căm thù, mạnh</b></i>
mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ.
<b>Tâm hồn Lãng mạn: Người lính Tây Tiến khơng chỉ biết cầm súng cầm</b>
gươm theo tiếng gọi của non sơng mà cịn rất hào hoa, giữa bao nhiêu
gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một
dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa. Trước hết
đó là một vẻ đẹp tấm lịng ln hướng về Tquốc, hướng về Thủ đơ. Người
lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xơi mà lịng lúc nào cũng hướng
về HNội, về q hương.
<i>+ Câu " rải rác..." toàn từ Hán Việt gợi khơng khí cổ kính. Miêu tả về cái</i>
chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh mọc lên vô
danh nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người
lính Tây Tiến, ngịi bút của Quang Dũng khơng hề nhấn chìm người đọc vào cái bi
thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ
bằng đơi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những
nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng
qn mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
<i><b>+ Tinh thần chiến đấu " Chiến trường...". Ba từ "chẳng tiếc đời xanh</b></i>
<i><b>" vang lên vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại " Quyết tử</b></i>
<i><b>cho tổ quốc quyết sinh", cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất</b></i>
nước của dân tộc.
<b>Dẫn chứng thêm:</b>
- Ôi tổ quốc...
Như mẹ cha...
Ôi TQ...
Hình ảnh ấy làm ta liên tưởng tới vẻ đẹp của những tráng sĩ thời xưa ví
như Thái Tử Kinh Kha sang đất Tần hành thích Tần Thủy Hồng cũng
<i>mang tinh thần:Tráng sĩ một đi khơng trở về</i>
<b>Kết luận: Không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà ở người lính TT cịn</b>
phảng phất vẻ đẹp của tinh thần hiệp sĩ.
<i><b>Coi nhẹ cái chết: " Áo bào...độc hành"</b></i>
<b>Hiện thực: Người lính chết khơng có manh vải liệm chỉ có manh chiếu bọc</b>
<i><b>đời".Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca "Sông Mã</b></i>
<i>gầm lên khúc độc hành"</i>
Sông Mã tiễn đưa bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như
loạt đại bác đưa tiễn những anh hùng về với non sông tổ quốc.
<b> Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang</b>
nghiêm. Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào
hùng, bi tráng.
<b>4. Khổ cuối</b>
<b>Lời thề son sắt thể hiện tinh thần " Nhất khứ bất phục hồi" - Một đi</b>
<b>không trở về.</b>
<i>"Tây tiến người đi không hẹn ước </i>
<i>Đường lên thăm thẳm một chia phôi </i>
<i>Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy </i>
<i>Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi..."</i>
Bốn câu thơ khép lại một cảm xúc bâng khng làm lịng ta nao nao khó
tả. Chàng trai Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn
sàng hy sinh vì nghĩa lớn "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Vì vậy Cái
chết với họ nào có là gì khi Hồn ta hoà vào hồn thiêng của toàn dân tộc,
bay lên, bay lên mãi, "chẳng về xuôi".
<b>Người lái đị sơng Đà - Một thiên tùy bút có thần</b>
Sơng Đà - một trận đồ tự nhiên hùng vĩ, được xây dựng bằng hai chất liệu
nước và đá, lỏng và cứng, cuồn cuộn tn dài, nhấp nhơ ngang dọc mà
tạo hố đã ban cho vùng Tây Bắc nước Nam ta. Công trình tự nhiên ấy đã
và đang biến đổi theo thời gian. Cịn một cơng trình Sơng Đà nghệ thuật
được xây dựng bằng ngôn ngữ mà Nguyễn Tuân đã để lại cho lịch sử văn
học Việt Nam, để lại cho đời trên trang tuỳ bút thì mãi mãi vẫn còn nguyên
vẹn, vẹn nguyên.
an. Phải chăng trời đã cho ơng tuệ nhãn? Thân hình ơng khoẻ mạnh "gọn
qnh như chất sừng, chất mun". Ơng cịn là nghệ sĩ tài hoa trong nghệ
thuật vượt thác qua ghềnh. Chất nghệ sĩ trong ông là ở cánh tay chèo lái
là ở đôi chân giữ thế tạo đà cứ như là vũ điệu vừa nhịp nhàng vừa ăn ý
với bản nhạc giao hưởng của nước sông, của đá núi, của gió ngàn.
thuộc châu Quỳnh Nha... Đường sông thác ghềnh hiểm trở, gồm 83 thác
có tiếng mà Vạn bờ là thác nguy hiểm thứ nhất" (Kiến văn tiểu lục - trang
345)
Nguyễn Tn đã khơng cịn để pha màu, chế bản, tạo hình tơn vinh những
mẫu đẹp cho đời đã 20 năm nay nhưng trên những trang viết chứa học
thuật, tụ tinh hoa, phong độ Nguyễn Tuân vẫn như núi đứng, tinh thần
Nguyễn Tuân vẫn như mây bay. Những bản nhạc của nước của đá, của
thác của ghềnh, người đọc, người học lắng nghe để mà nghĩ tới cái âm
vang sâu thẳm nơi cõi lòng tác giả? Ghềnh sơng dài, thác sơng lớn, xốy
nước sâu đã khơi dậy những gì tiềm ẩn nơi sâu kín nhất, u linh nhất của
tác giả và ơng đị Lai Châu. Ghềnh và thác trong tự nhiên cũng là ghềnh
và thác trong cuộc sống đã bung nở trong nhãn tuệ của Nguyễn Tuân để
Nguyễn Tuân gửi tới người đọc, người học qua thiên tuỳ bút có thần.
Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả của chuyến
thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký
Sơng Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong
hình ảnh người lái đị nghệ sĩ và con sơng Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Bản thân Nguyễn Tuân khi viết nên tác phẩm này đã thực hiện hoàn tất một
hành trình khẳng định phong cách tuỳ bút độc đáo của nhà văn khi đi theo con
đường cách mạng. Vốn sống và tài năng của người nghệ sĩ tài hoa này đã gặp
được môi trường Tây Bắc với bao nhiêu vẻ đẹp tiềm ẩn trong mảnh đất và con
người, từ đó giúp ơng có những phát hiện mới mẻ, tô đậm những ấn tượng kỳ vĩ
nên thơ về Tây Bắc trong lòng bạn đọc.
ảnh, bằng ngơn từ của mình, Nguyễn Tn đã dựng lên cả một thế giới sơng
nước sinh động : «nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xt bất cứ người lái đị sơng Đà nào
tóm được qua đấy". Ấy vậy nhưng ông lão đã tuổi bảy mươi đã bao phen thể
hiện tài năng vượt thác leo ghềnh, vượt qua thử thách hiểm nguy mà vẫn cịn trẻ
tráng, dẻo dai !
Câu chuyện vượt sơng Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi
về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để
tơn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông
tướng đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả
bằng ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của
mãnh tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn
có những dịng mơ tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình :
"Mặt hịn đá nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn
Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu
dàng của dịng sơng mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa
của cha ông. "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xn.", "Mùa xn dịng xanh ngọc bích...",
"mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu
vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi : "Thuyền tôi trôi qua
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh khơng một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
Với Người lái đị sơng Đà này, Nguyễn Tn đã ghi dấu ấn khơng trộn lẫn của
mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn
tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm cịn đánh dấu
sự vững vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một
tâm hồn nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách
mạng, vào con đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của
Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng./.
Trần Hà Nam
ĐỀ THI TUYỂN SINH NĂM 2007
MÔN VĂN KHỐI D
<b>PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ CÁC THÍ SINH</b>
<b>Câu I: (2 điểm)</b>
<i>Anh/chị hãy trình bày hồn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của bản Tuyên ngôn Độc </i>
<b>Câu II: (5 điểm)</b>
<i>Tràng Giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.</i>
<i>Anh/chị hãy phân tích bài thơ Tràng Giang để làm sáng tỏ nhận xét trên.</i>
TRÀNG GIANG
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
H.C
<i>Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,</i>
<i>Con thuyền xi mái nước song song.</i>
<i>Thuyền về nước lại, sầu trăm ngã;</i>
<i>Củi một cành khơ lạc mấy dịng.</i>
<i>Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,</i>
<i>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.</i>
<i>Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;</i>
<i>Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.</i>
<i>Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,</i>
<i>Mênh mông không một chuyến đị ngang.</i>
<i>Khơng cầu gợi chút niềm thân mật</i>
<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng</i>
<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa</i>
<i>Lịng q dợn dợn vời con nước</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà</i>
<i>(Văn học 11, Tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2005, tr.143)</i>
<b>PHẦN TỰ CHỌN (Thí sinh chỉ được chọn làm 1 trong 2 câu)</b>
<b>Câu III.a: Theo chương trình THPT khơng phân ban (3 điểm)</b>
<i>So sánh cách nhìn người nơng dân của hai nhân vật Hồng và Độ trong truyện ngắnĐơi </i>
<i>mắt của Nam Cao.</i>
<b>Câu III.b: Theo chương trình THPT phân ban thí điểm (3 điểm)</b>
BÀI LÀM CỦA NGUYỄN HỒNG NGỌC LAM
<b>Câu II:</b>
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi
của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh,
sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về
kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như:
"Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của
ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước
của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ
đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện
khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất
của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được
<b>sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sơng Hồng, nhìn cảnh mênh mơng sóng </b>
nước, lịng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trơi giữa dịng đời vơ định.
Mang nỗi u buồn hồi như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện
<i>Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài</i>
<i>Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.</i>
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng
giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi
lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vơ cùng mà cịn rộng mênh
mơng, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về
dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dịng sơng của mn thuở vĩnh hằng, dịng
sơng của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái
mênh mơng sóng nước, khơng như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tơi của mình.
Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hồ nhập, giao cảm, Huy cận
lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước
vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần
hiện đại.
tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm
rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lịng đầy ưu tư, sầu não
như thế:
<i>Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,</i>
<i>Thuyền về nước lại sầu trăm ngả</i>
<i>Củi một cành khơ lạc mấy dịng.</i>
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy
nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của
Đường thi. Và khơng chỉ mang nét đẹp ấy, nó cịn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về
những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dịng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi
nào, miên man miên man. Trên dịng sơng gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là
một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng
sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mơng của thiên nhiên, một dịng "tràng giang" dài và rộng
bao la không biết đến nhường nào.
Dịng sơng thì bát ngát vơ cùng, vơ tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong
lòng
<i>Thuyền về nước lại sầu trăm ngả</i>
<i>Củi một cành khơ lạc mấy dịng.</i>
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế
mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe
sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số
nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng
khơ lạc mấy dịng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn
lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành
khơ" gợi sự khơ héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trơi nổi, bập bềnh
trên "mấy dịng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mơng. Cành củi khơ đó trơi dạc đi nơi
Nỗi lịng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của khơng gian lạnh lẽo:
<i>Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu</i>
<i>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.</i>
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ
nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh
quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy,
con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều".
Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xơi, khơng rõ rệt,
có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút
sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ
định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu
của thiên nhiên.
Đơi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dịng trơi của sơng:
<i>"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,</i>
<i>Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu."</i>
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về khơng gian, và gợi cả sự chia lìa:
bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy
sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ khơng chỉ dừng ở bên
ngồi của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận.
Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mơng với "sơng dài, trời rộng", cịn những gì thuộc về
con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như:
sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi
thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dịng sơng, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc
mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cơ đơn. Nhưng thiên nhiên đã
đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
<i>Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,</i>
<i>Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang.</i>
<i>Không cần gợi chút niềm thân mật,</i>
<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.</i>
không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường khơng có con
người, khơng có chút sinh hoạt của con người, khơng có sự giao hồ, nối kết:
<i>Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang</i>
<i>Khơng cầu gợi chút niềm thân mật.</i>
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối
của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây khơng có chút gì gợi niềm thân mật để kéo
mình ra khỏi nỗi cơ đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mơng,
mênh mơng. Cầu hay chuyến đị ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như
đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trơi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.</i>
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng
tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét
đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một
tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
<i>Mặt đất mây đùn cửa ải xa.</i>
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực
từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện
đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai
chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng
chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim
nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử
dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hồng hơn
trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
<i>Lịng q dợn dợn vời con nước,</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.</i>
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sơng khói
sóng cho buồn lịng ai" của Thơi Hiệu. Xưa Thơi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà
nhớ, cịn Huy Cận thì buồn mà khơng cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm
rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm
nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể
hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên,
qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết
<b>là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ khơng khí cổ kính, trầm mặc của thơ </b>
Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót",
dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương
ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng
góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, khơng làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp
cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê
hương.
<b>---Câu III.a:</b>
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951 một nhà văn hiện thực
xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Xuất thân từ tỉnh Hà Nam, nhà văn này đã từng
viết rất thành cơng về cuộc sống của người trí thức và người nông dân nghèo trước Cách
mạng tháng tám. Sau Cách mạng tháng tám, ông lại tự rèn luyện mình, dứt khốt từ bỏ lối
sống cũ để quyết tâm đi theo cách mạng. "Đôi mắt", được Nam Cao sáng tác tết 1948,
thời điểm nhận đường của giới văn nghệ sĩ, thể hiện đầy đủ phong cách của ông sau Cách
mạng tháng tám. Ban đầu Nam Cao đặt tựa là "Tiên sử thằng Tào Tháo", sau đổi là "Đôi
mắt" vì ơng nhận thấy vấn đề quan trọng hơn hết lúc bấy giờ là cách nhìn của giới văn
nghệ sĩ. Trong tác phẩm hai nhân vật chính, Hồng và Độ, có cách nhìn hồn tồn trái
ngược nhau, mới nổi bật là cách nhìn về người nơng dân, đã phần nào nói lên vấn đề
quan điểm, lập trường của Nam Cao.
Hoàng và Độ là hai nhà văn, Hồng là nhà văn anh, cịn Độ thuộc lớp đàn em. Cả hai có
cách sống, cách suy nghĩ và cách nhìn đời, nhìn người đối lập hẳn nhau, đặc biệt là khi
nhìn người nơng dân.
Trong mắt Hồng những người nơng dân nghèo khổ ấy đầy những tính xấu: "Tồn là
những người ngu đần, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện cả". Dường như với Hoàng mọi
sự xấu xa của con người đã tập trung về cả người nơng dân. Anh nhìn thấy họ là một lũ lố
<b>lăng: "Cái ông thanh niên, các bà phụ nữ lại cịn nhố nhăng", anh phiền vì sự "nhăng xị" </b>
của họ: "Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên.
Khơng chỉ nhố nhăng họ cịn lại hay nói chữ mở miệng ra "đề nghị, yêu cầu, phê bình,
cảnh cáo". Hồng cho đó là chuyện thật nực cười. Anh không thấy được sự cố gắng của
người nông dân kém hiểu biết nhưng lại rất đỗi yêu nước. Thấy người nơng dân đọc
thuộc lịng bài "ba giai đoạn", anh cho đó là con vẹt biết nói, dây dưa, lơi thơi, mồm nói
vội lắm vậy mà đọc cho anh nghe "cả một bài dài đến năm trang giấy".
Anh lại càng phiến diện hơn khi nhìn người nói dân tồn là những người tị mị, tọc
mạch: "Anh chỉ giết một con gà, ngày mai cả làng này đã biết". Hoàng khăng khăng với
Độ: "Ngày mai, chuyện anh đến chơi tôi thế nào cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất
rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ
rách ở ống quần bên trái". Có thể đó là sự thật, bởi Hồng đã thề khơng hề bịa chuyện, và
người đọc cũng biết người nơng dân có tính xấu đó. Nhưng Hồng đã nói q, đã thổi
phồng lên khiến người nơng dân trở nên đầy xấu xa. Anh khơng hề có cái nhìn thơng
cảm. Bởi thế, Hồng mới cho người nông dân mới thật độc ác, tàn nhẫn = chị dâu đẻ mà
em bắt ra cái lều ngoài vườn. Hồng khơng hề hay giả vờ khơng biết những tập tục kiêng
kị của người nơng dân?
Tất cả những tính xấu của người nơng dân hiện lên trong mắt Hồng, lại càng trở nên xấu
xa. Hồng khơng nhận ra đó là hồn cảnh nghèo đói đã biến hóa người nơng dân, mà anh
qui tất cả về bản chất. Anh bêu rếu, nói xấu, mỉa mai chua chát nhưng người nông dân
Trước đây, Độ cũng có cái nhìn lệch lạc, phiến diện như Hoàng. Anh đã từng bi quan,
chán nản. Nhưng khi cách mạng mở ra, Độ đã "ngã ngữa người ra" vì thấy được sức
mạnh thật sự của quần chúng, vẻ đẹp tâm hồn người nông dân.
Độ nhận ra họ là những con người rất giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc:
"Vơ số anh răng đen mắt toét, gọi lựu đạn là nựu đạn, hát "Tiến quân ca" như người buồn
ngủ cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm". Anh đã "đi khắp làng này đến
làng kia" để tìm hiểu ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn người nơng dân, anh khao khát
thấu được nét đẹp của họ, vì với anh thì những người nơng dân "vẫn cịn là một bí mật".
"bí ẩn", bởi Độ đã thấy được sức mạnh tiềm ẩn của họ, chứ khơng như Hồng, chỉ thấy
phơi bày trước mắt bao nhiêu là tính xấu.
Độ biết người nơng dân u nước lắm, vì thế, cùng một sự việc anh thanh niên đọc thuộc
lòng bài "ba gia đoạn". Độ không cho anh ta là con vẹt biết nói, mà Độ thấy được bó tre
anh thanh niên vác đi để ngăn quân thù. Tấm lịng nhân hậu, đầy cảm thơng của Độ đã
nhìn thấu một trái tim yêu nước bên trong "cái ngố bề ngồi".
Phải hịa nhập vào nơng dân, phải trải qua những khó khăn, gian khổ mà người nơng dân
chịu đựng, Độ mới cảm nhận và hiểu sâu sắc suy nghĩ, tâm hồn của họ đến thế. Dù chỉ là
một "anh tuyên truyền viên nhãi nhép" nhưng có thể nói Độ đã đóng góp được rất nhiều
cho đất nước. Anh đã có cái nhìn đúng đắn, chân thật mà cũng đầy cảm thơng, cái nhìn
<b>của một tấm lịng nhân ái, chứ khơng phải của tâm hồn hẹp hịi, ích kỉ như Độ.</b>
Nếu như Hồng chỉ nhìn thấy vẻ bề ngồi rồi từ đó thổi phồng, qui thành bản chất thì Độ
cũng thấy sự thật rành rành, nhưng khơng dừng lại ở đó, Độ nhìn thấu vào tận sâu thẳm
bên trong tâm hồn người nông dân. Nếu như cái nhìn của Hồng là phiến diện, lệch lạc
một chiều, một phía thì Độ có cái nhìn tiến bộ, đúng đắn, đầy cảm thơng.
Qua hai cái nhìn trái ngược, đối lập của hai nhân vật Hoàng và Độ. Nam Cao đã bộc lộ
quan điểm đầy tiến bộ về cái nhìn đời, nhìn người của văn nghệ sĩ kháng chiến. Nhà văn
phải "sống đã rồi hãy viết", phải nhìn ra thấu hiểu trái tim con người, mà muốn làm được
điều đó thì nhà văn cần có một trái tim nhân hậu, có cái tâm.
Nhan đề "Đôi mắt" giản dị nhưng rất gợi mở, rất đặc sắc đã thâu tóm được giá trị tư
tưởng của cả bài. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở cách nhìn về người nơng dân của
Hồng và Độ, mà cịn mở rộng ra là cách nhìn đời và người cho mọi người. Với tác phẩm
này, đặc biệt qua hai cách nhìn tương phản, đối lập. Nam Cao đã gióng lên hồi chng
cảnh tỉnh những nhà văn ích kỉ, chỉ quan tâm đến bản thân mình. Đồng thời ơng cũng lên
án những ai có cái nhìn phiến diện một chiều lệch lạc, biểu dương cái nhìn đúng đắn, tồn
diện. Ơng quan niệm nhà văn trước hết phải có tấm lòng để xác định đúng chổ, đúng lập
trường. Từ đó có cách nhìn đúng mà viết nên tác phẩm hay, có ích cho đất nước, nhân
dân. Nếu khơng, dù có tài giỏi đến mấy cũng chỉ là kẻ vơ dụng, làm trị cười cho mọi
người và tác phẩm dù có hay đến mấy cũng sẽ khơng được đón nhận.