Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.63 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Họ tên: Lê Hoàng Hải Yến.
Lớp: 12 Văn.
KIỂM TRA MÔN:
<i> Ngữ Văn (90 phút)</i>
<b>Đề bài: Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim </b>
Lân.
Điểm Lời phê của thầy cô giáo
Bài làm.
“Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái
gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng cịn nghĩ gì đến ai được nữa.” Câu
triết lí của nhà văn Nam Cao vẫn cứ vang mãi trong tâm trí người đọc. Dường như ta nhìn
thấy cả một xã hội vì cái nghèo đói, cái khổ mà mất đi tình yêu thương. Và dường như ta
cịn nhìn thấy cả những bóng đen lầm lũi đi trong màn sương chiều nhập nhoạng “xanh
xám như những bóng ma” đầy kinh hồng, u ám. Tuy nhiên chính cái đói, cái nghèo ấy
lại là cội nguồn tạo nên tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn
Kim Lân. Nhưng vấn đề nhân văn sâu sắc mà nhà văn thể hiện ở trong tác phẩm nhờ việc
khéo léo chọn tình huống truyện không phải như quan niệm của Nam Cao. Đối với ông,
khi con người cận kề với cái chết, họ vẫn sưởi ấm cho nhau bằng trái tim, nuôi dưỡng
niềm tin và hi vọng ngay trong tuyệt vọng. Có thể nói, việc xây dựng được một tình
huống truyện đầy độc đáo, nhưng cũng đầy oái oăm, bi thương xoay quanh câu chuỵên
của nhân vật Tràng, Kim Lân đã đóng góp một tác phẩm xuất sắc thấm đẫm giá trị nhân
đạo cho nền văn học văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Khi nói đến truyện ngắn, người ta thường quan tâm đến ba yếu tố: tình huống truyện,
nhân vật trong truyện và giọng điệu trần thuật của tác giả. Và dĩ nhiên trong ba yếu tố ấy
phủ bầu trời, đã “tràn đến xóm này tự lúc nào”- hình bóng của thần chết đang lạnh lùng,
nhẫn tâm đi reo rắc niềm kinh hoàng cho cả dân tộc Việt. Cơn đại hồng thuỷ ấy tràn đến
cuốn phăng tất cả mọi thứ, huỷ dịêt tất cả mọi thứ. Đó có thể coi là sự tàn diệt khơng thể
tránh khỏi của con người. Cái tài của Kim Lân chính là đã tạo được khơng khí thê lương,
chết chóc đầy sức ám ảnh đối với người đọc. Hẳn khơng ai có thể qn được hình ảnh
những người dân “đội chiếu, lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng
ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ… Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và
mùi gây của xác người.”. Miền trần gian mà cứ ngỡ như miền địa ngục, như nhà văn gọi
những con người là những bóng ma trên dương thế. Dường như ta khơng cịn nhìn thấy
ranh giới giữa con người và bóng ma, giữa sự sống và cái chết. Với bối cảnh ấy, nhân vật
của thiên truyện xuất hịên với một tình huống đầy độc đáo. Vậy tình huống ấy là gì?
Trước tiên, ta thử ngẫm nghĩ về nhan đề của tác phẩm. Tình huống truyện được bộc lộ
ngay trong tên gọi của tác phẩm. Người ta thường dùng tính từ đằng sau danh từ để định
danh, xác định một phẩm chất, nhưng ở đây lại là “Vợ nhặt”. Từ “nhặt” chỉ dùng cho
những đồ vật rơi vãi, thường là khơng có giá trị. “Vợ nhặt” có nghĩa là cơ vợ ấy được một
người đàn ông, mà cụ thể là anh Tràng “nhặt” về như một thứ đồ rơi, như một vật thể bị
người ta vứt bỏ mà mình cịn tận dụng, vì thế không phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho
nhân vật người vợ từ đầu đến cuối tác phẩm không có lấy một cái tên. Cũng như ơng giải
thích: “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói 1945 người dân lao dộng
dường như khó ai thốt khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hồn
“Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay.
Và nhờ cái tên “Vợ nhặt” mà người đọc bước đầu nhìn thấy sự nghịch lí, độc đáo trong
tình huống truyện của tác phẩm.
Một anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, thơ kệch, ế ẩm bỗng nhiên “nhặt” được vợ, có vợ
một cách dễ dàng giữa năm đói khủng khiếp. Việc này không biết là nên vui hay nên
buồn? Mừng hay lo? May hay rủi? Dại hay khơn? Tình huống anh Tràng nhặt được vợ là
một tình huống độc đáo, đầy bất ngờ, thú vị làm xơn xao cả xóm ngụ cư, tiếp thêm nụ
cười cho những đứa trẻ đang rũ đi vì đói, làm những “khn mặt hốc hác u tối” của người
dân nơi đây “rạng rỡ” hẳn lên. Một người như Tràng bỗng nhiên có vợ đúng là đáng vui
mừng, nhưng giữa nạn đói khủng khiếp đang đe doạ tất cả mọi người, nuôi thân chẳng
xong nữa là đèo bòng. Cho nên khi bên cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có
cả một người đàn bà rón rén và e thẹn, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác, khơng hiểu thế nào.
Họ chưa thể nghĩ đấy là vợ anh, và cũng khơng thể nghĩ anh ta lại có thể lấy vợ vào lúc
này: “Ơi chao! Giời đất này cịn rước cái của nợ đời về. Biết có ni nổi nhau sống qua
được cái thì này khơng?”. Sự tị mị, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và
người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mặc những lời bàn tán, Tràng vẫn bước đi
“dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những
bóng ma.”, thỉnh thoảng lại có những tiếng quạ kêu “cứ gào lên từng hồi thê thiểt”. Vậy
mà Tràng lại có vợ. Ơi chao…
chợ mà thị theo anh về nhà thật. Cái ngỡ ngàng theo anh suốt đường về: “đến bây giờ hắn
vẫn còn ngờ ngợ như khơng phải thế”, thậm chí cho đến tận sáng nagỳ hôm sau: “Trong
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bị với anh , nì!”
Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau.
Với bà cụ Tứ, bà khơng tin nổi vào mắt mình với sự việc đang xảy ra, “đến giữa sân bà
lão đứng sững lại”. Một loạt những câu hỏi vang lên trong tâm trí bà, quẩn quanh mà
chưa có lời giải đáp. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà đứng
ở đầu giường của con mình, bà khơng tin nổi lại có bất cứ một người con gái nào khác
ngoài cái Đục ở trong nhà của mình lại cịn chào mình bằng u nữa. Bà khơng thể nghĩ
rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt
cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra. Nhưng việc con trai của bà “nhặt” được
vợ là có thật. Điều đó thật lạ đời. Khơng ai thấm thía điều này hơn bà cụ mẹ Tràng:
“Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…” Như thế cái cảnh ngộ khó tin, đáng ngạc
nhiên nhưng lại có thật chính là điều làm nên một phần sự độc đáo, hấp dẫn của tình
huống truỵên.
Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm bi thương
của kiêp người. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của
những nhân vật trong câu chuyện đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Một tình
huống đặc biệt éo le: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa buồn và càng ngẫm nghĩ càng thấy
“ai oán xót thương”. Chàng trai tên Tràng nghèo khổ, xấu xí bỗng nhiên lấy được vợ âu
cũng là điều đáng vui, đáng mừng. Nhưng lại ở trong tình trạng đói khổ khủng khiếp đến
thân mình cịn ni chẳng xong, đó lại là điều đáng lo. Nhưng nếu khơng phải vào năm
đói chắc chẳng ai thèm lấy Tràng. Tràng “nhặt” được vợ giữa đường nên không cần tiền
Mẹ con Tràng nghèo khổ, Tràng lại hẩm hiu, chỉ có thời buổi đói khát, mạng người
khơng có giá trị mới đưa đẩy khiến Tràng “nhặt” được vợ. Cái đói khơng có hình dạng,
mùi vị, cũng khơng có khối lượng mà lại đè nặng lên cuộc sống của con người, lên những
kiếp người thật đáng sợ. Cái đói khiến các nhân vật đều rơi vào tình thế bối rối, khó xử,
nghẹn ngào. Khi đến bước đường cùng người ta thường liều lĩnh. Tràng đùa nhưng cơ gái
sắp chết đói ấy lại bấu víu vào lời nói bơng đùa của anh mà theo không anh về nhà:
“Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Mà xem con Tạo xoay vần ra sao”
người ta có thể bấu víu vào bất cứ cái gì, dù đó là chàng trai nghèo, hẩm hiu, thơ kệch
đang rũ vì đói. Số phận con người thật thảm hại trước cái đói. Bằng tình huống đầy bi
hài, nó xốy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, ngun nhân trực tiếp dẫn đến cái đói
kinh hồng. Cái đói mang đến sự chết chóc, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó
làm những giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người dường như mất hẳn
tính người, chỉ cịn sống theo bản năng để được ăn, được sống...Cơn đói khát làm cho
ngườii đàn bà quên cả sĩ diện, được mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên” tức
thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trị gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay
mặt đi để cười ra nước mắt, làm ta nhớ đến bà lão trong tác phẩm “Một bữa no” của nhà
văn Nam Cao. Con người thị hiện lên khiến ta vừa giận mà lại vừa xót xa. Cái đói với
bóng đen bao trùm mọi nơi như xốy vào tâm hồn người đọc. Cịn gì thê thảm bằng đám
“rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hơn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê “có
Tâm trạng của bà cụ Tứ trong câu chuyện chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và
mâu thuẫn. Bà cụ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trêu của số
phận: có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo
nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có ni nhau nổi sống
qua được cơn đói khát này khơng?”. Câu hỏi từ tận đáy lịng của bà mẹ “chất chứa nỗi
hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn khơng lối thốt và cả sự rình rập trước ngõ của
cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi
buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm
làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã
khơng làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con: “Năm nay thì đói to
đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng; hành động “nén một tiếng thở dài” tủi thân
của người đàn bà khi liếc nhìn gia cảnh nhà chồng; sự nghẹn ngào, xót xa của bà cụ Tứ
trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc không biết nên vui hay nên buồn,
không cảm nhận được đây là hạnh phúc hay bất hạnh, sự sống hay là cái chết.
Thậm chí giá trị của con người trở nên thật rẻ rúng, nhân phẩm con người bị hạ xuống
mức thấp nhất, tha hố như tên Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.
Nhưng không phải vì thế mà những người dân lao động đánh mất cái bản chất lương
với tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là ở tình huống truyện đầy độc đáo, bất ngờ
nhưng cũng không kém phần éo le của thiên truyện. Thành cơng đó khiến truỵên ngắn
của Kim Lân sống được với thời gian. Cái nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị
chết đói ấy, rồi một lúc nào đó sẽ lùi vào dĩ vãng. Nhưng câu chuỵên “nhặt vợ” của anh
Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn, cùng nỗi đau và niềm tin của người dân Việt Nam trên
hành trình đi tới hạnh phúc, ấm no.