Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

cầm bá thước phong trào cần vương ở thanh hóa cầm bá thước phong trào cần vương ở thanh hóa cầm bá thước 1858 1 1895 tên thái lò cắm pán là một trong những thủ lĩnh nghĩa quân người người dâ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.42 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cầm Bá Thước & phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa</b>


<b>Cầm Bá Thước (1858 [1]-1895), tên Thái: Lò Cắm Pán, là một trong những</b>
thủ lĩnh nghĩa quân người người dân tộc Thái hưởng ứng phong trào Cần
Vương ở Thanh Hóa, Việt Nam cuối thế kỷ 19.


<b>I. Thân thế & sự nghiệp:</b>


Cầm Bá Thước sinh tại bản Lùm Nưa, tổng Trịnh Vạn, châu Thường Xuân
(nay là xã Vạn Xuân, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá), trong một gia
đình lang đạo nhiều đời. Cha ơng là Cầm Bá Tiêu từng được triều vua Tự
Đức phong chức Quản cơ.


Năm lên 8 tuổi, cha ông mời thầy về nhà dạy chữ Hán cho ông. Nhờ ông học
giỏi và có quan hệ tốt với các quan lại người Việt đang trấn nhậm tại quê
ông, nên khi trưởng thành, ông được thay cha trở thành thổ ty và được triều
đình nhà Nguyễn phong chức Bang tá.


<b>1.1 Được giao quyền chỉ huy quân sự:</b>


Ngày 5 tháng 7 năm 1885, qn triều đình tập kích qn Pháp ở đồn Mang
Cá thất bại. Quân Pháp phản công, kinh thành Huế bị thất thủ. Tôn Thất
Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ra dụ Cần
Vương kêu gọi toàn dân chống Pháp.


Nhận thấy tương quan lực lượng khá chênh lệch, vào tháng 2 năm 1886, Tôn
Thất Thuyết đã để cho hai con trai của mình là Tơn Thất Thiệp và Tơn Thất
Đạm tiếp tục duy trì triều đình Hàm Nghi chống Pháp, cịn mình cùng với
Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiều tìm đường sang Trung Quốc cầu viện
nhà Thanh.



Trên đường đi, ơng có đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân để gặp
Cầm Bá Thước. Trong kế hoạch kháng Pháp, Tơn Thất Thuyết rất chú ý tỉnh
Thanh Hóa. Vì vậy, ông đã cử Tống Duy Tân làm Chánh sứ Sơn phịng
Thanh Hóa, phong Cầm Bá Thước làm Bang biện quân vụ hai châu Thường
Xuân và Lang Chánh và phong Hà Văn Mao làm Tán lý quân vụ, chuẩn bị
lực lượng nghĩa quân Mường vùng châu Quan Hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Thường Xuân xin mộ quân và huy động lực lượng đóng đồn bảo vệ trị an từ
Bái Thượng trở lên đến biên giới Lào. Được sự đồng ý của Tri châu Thường
Xuân, Cầm Bá Thước đã cho điều động dân binh, bố trí lại việc canh gác và
đóng các đồn suốt từ Bái Thượng lên Cửa Đặt, rồi lên đến Bất Mọt. Dọc
theo sông Đặt, Cầm Bá Thước cho xây dựng rất nhiều đồn lũy, lập nhiều căn
cứ như căn cứ Bản Lẹ, đồn Đồng Chong, đồn Bù Đồn…


Ngoài ra, để tăng cường sức mạnh cho lực lượng, ông đã đề xuất và được
phép đem quế đi bán để lấy tiền mua vũ khí cùng lương thực.


Ngày 21 tháng 1 năm 1887, căn cứ Ba Đình thất thủ. Nghĩa quân Ba Đình
rút về Mã Cao hội quân với nghĩa quân Hà Văn Mao. Tuy nhiên, đến mùa
thu năm 1887, căn cứ Mã Cao cũng bị quân Pháp phá vỡ. Các toán nghĩa
quân tan rã về các địa phương. Một cánh quân do Hà Văn Mao chỉ huy rút
theo hướng Thung Voi, rút về Điền Lư, Niên Kỷ (nay thuộc huyện Bá
Thước). Một cánh quân rút về Thường Xuân hội quân với nghĩa quân Trịnh
Vạn.


Theo đà truy kích, quân Pháp tập trung tiêu diệt cánh quân của Hà Văn Mao
trước tiên. Cuối năm 1887, nghĩa quân bị tấn công thiệt hại nặng nề. Hà Văn
Mao tự sát. Một thủ lĩnh Mường khác là Hà Văn Nho chiêu tập nghĩa quân
phối hợp với Tống Duy Tân để tiếp tục hoạt động. Quân Pháp rút về để tập
trung tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân, tạm thời chưa đủ


lực lượng để tấn cơng Trịnh Vạn.


Sau trận tập kích đồn n Lược vào đêm ngày 2 tháng 12 năm 1892, nghĩa
quân Hùng Lĩnh rút lên Trịnh Vạn. Ở Trịnh Vạn, Tống Duy Tân để lại số
lương thực và vũ khí cho Cầm Bá Thước, còn nghĩa quân Hùng Lĩnh được
biên chế gọn nhẹ tiến lên Mường Kỷ mong hợp quân với cánh quân Đốc
Ngữ chuyển ra Bắc. Tuy nhiên, do quân Pháp tập kích liên miên, nghĩa quân
Hùng Lĩnh bị suy yếu khơng cịn đủ sức chiến đấu nữa. Tháng 9 năm 1892,
Tống Duy Tân bị một người học trị của mình là Cao Ngọc Lễ phản bội, báo
tin cho Pháp bắt. Nghĩa quân Hùng Lĩnh hoàn toàn tan rã.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nghĩa quân Hương Sơn. Nghĩa quân Hương Sơn có viện trợ cho nghĩa quân
Trịnh Vạn một số súng làm theo kiểu Pháp, nhưng số lượng không nhiều.
Khi nghĩa quân Hương Sơn bị quân Pháp bao vây, Cầm Bá Thước đã cho
một cánh quân do Bang Lự chỉ huy tiến vào hỗ trợ nhưng cũng thể thay đổi
được tình thế.


<b>1.2 Chiến đấu trong vòng vây:</b>


Phát hiện thấy dấu hiệu Cầm Bá Thước có liên hệ với nghĩa quân Hương
Sơn, đầu tháng 2 năm 1894, Pháp cử Giám binh Lemeray (La-mơ-ray) lên
Trịnh Vạn thám sát tình hình. Lemeray khẳng định Cầm Bá Thước chỉ trá
hàng, vẫn tiếp tục rèn luyện quân sĩ và tích trữ lương thực, chuẩn bị chiến
đấu. Sau khi nhận được thông báo của Lemeray, Pháp đã điều một đội quân
từ Thanh Hóa tiến lên Cửa Đặt để chuẩn bị tấn công Trịnh Vạn. Quân Pháp
tiến lên Trịnh Vạn theo 3 hướng. Một toán do Cuvelier (Cu-vơ-li-ê) chỉ huy
tiến dọc theo sông Chu. Toán thứ hai do Marlier (Mắc-li-ê) chỉ huy đi hướng
từ phía Nam theo sơng Luộc. Tốn thứ ba do Lecal (Lơ-Cát) chỉ huy men
theo sông Đặt.



Để giành thế chủ động, ngày 6 tháng 2 năm 1894, Cầm Bá Thước dẫn nghĩa
quân tấn công đồn Thổ Sơn cách Bãi Thượng 10km, ngay khi Lemeray vừa
tới Trịnh Vạn. Sau đó, ngày 11 tháng 2 năm 1894 nghĩa quân lại tập kích
đồn Quang Thơn. Đêm hơm đó, cánh qn của Lecal đang đóng ở Yên Lược
(Thọ Xuân) lên tiếp viện cho đồn Thổ Sơn trong đêm để giải cứu Lemeray.
Thấy quân tiếp viện lên, nghĩa quân ta rút về căn cứ. Sáng hôm sau, Lecal
cho quân tấn công lên Quang Thôn, giải vây cho đồn này. Tháng 3 năm
1894, nghĩa quân Trịnh Vạn lại tấn công đồn Cửa Đạt, tuy nhiên không
thành công.


Nhận thấy quân Pháp quá mạnh, Cầm Bá Thước cho hết dân sơ tán vào
rừng, thanh niên ở lại chiến đấu. Quân Pháp tấn công đồn Bù Lẹ, Bù Đồn.
Dựa vào cơng sự có sẵn, nghĩa qn chống cự quyết liệt, quân Pháp bị
thương và chết rất nhiều. Khi cuộc chiến đấu quyết liệt thì cánh quân của
Marlier kéo tới. Cầm Bá Thước thấy Pháp có thêm viện binh bèn rút quân về
Cọc Chẽ (nay ở xã Xuân Lệ) ở phía Đơng Nam Trịnh Vạn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trước tình hình ln ln bị quấy rối, qn Pháp tập trung thêm binh lực
bình định Trịnh Vạn. Để đối phó, Cầm Bá Thước cho bố trí một trận địa lớn,
giao cho lý trưởng làng Cúc là Hà Văn Vạn trá hàng để dẫn đường quân
Pháp tấn công căn cứ nghĩa quân. Ngày 29 tháng 1 năm 1895, quân Pháp
tiến quân lên Cọc Chẽ nhưng bị nghĩa quân phục kích gây thiệt hại nặng nề.
Tuy nhiên, cuối cùng quân Pháp cũng chiếm được Cọc Chẽ nhưng gần tối
cũng rút về Trịnh Vạn vì sợ bị tấn cơng.


<b>1.3 Hy sinh:</b>


Căn cứ Cọc Chẽ bị phá hủy, Cầm Bá Thước cho quân xây dựng căn cứ ở
Hòn Bòng, giáp giới Thanh Nghệ ở thượng nguồn sông Đặt. Ngày 10 tháng
5 năm 1895, Marlier thay Lemeray làm giám binh, dẫn 200 lính đánh vào


Hịn Bịng. Sau bốn ngày liên tục chiến đấu, nghĩa quân suy yếu rõ rệt. Mối
liên hệ của Thanh thứ với nghĩa quân Hương Sơn bị cắt đứt vì chính lúc này
nghĩa quân Hương Sơn cũng bị bao vây ngặt nghèo, còn các phong trào
chống Pháp ở Thanh Hóa đều tan rã. Đến trưa ngày 13 tháng 5 năm 1895,
quân Pháp bắt được Cầm Bá Thước cùng vợ con và một số người theo ông
tại Bản Cà, sau đưa về giam ở Trịnh Vạn. Sau khi chiêu hàng không được,
vào khoảng cuối tháng 5 năm Ất Dậu (1895), ơng bị qn Pháp bí mật thủ
tiêu. Năm đó, ông mới 37 tuổi.


<b>II. Ghi nhận công lao:</b>


Cầm Bá Thước là thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương duy trì được lực lượng lâu
nhất, chỉ sau nghĩa quân của Phan Đình Phùng. Lúc Cầm Bá Thước cịn
đang kháng Pháp, Tơn Thất Thuyết, lúc này đang ở Trung Quốc cầu viện
nhà Thanh, có làm bài thơ gửi ơng:


Vạn lí cao thu Mục mã binh,
Thuận lưu bất hạ tiểu chu khinh.
Thanh sơn lục thủy tương nghịch xứ,
Đại hải trường giang vọng viễn tình.
Bách tính cần vương nhân tự chấn,
Nhất ngu báo quốc khánh do hành.
Thử du nhược đắc thiên tâm trợ,
Qui khứ Nam xa triệt hảo trình.
Tạm dịch:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>non sơng nước biếc nơi hị hẹn,</i>
<i>Bể rộng sơng dài nỗi ước mong!</i>
<i>Trăm họ vì vua cịn cố gắng,</i>



<i>Một mình báo nước vẫn long đong.</i>
<i>Phen này ví được lịng trời giúp,</i>
<i>Trở gót về Nam lối hẳn thơng.</i>


Sau khi ơng mất, người dân đã lập đền thờ ông ở Cửa Đặt, thị trấn Thường
Xn, tỉnh Thanh Hố. Trong đền có câu đối khen ngợi ông như sau:


Bất tử đại danh thùy vũ trụ
Như sinh chính khí tạc sơn hà.
Nghĩa là:


<i>Danh thơm chẵng mất cùng trời đất</i>
<i>Tiếng tốt còn bền với núi sông.</i>


Sau Tổng khởi nghĩa năm 1945, nhà cầm quyền lúc bấy giờ đã đổi tên châu
Tân Hóa thành Bá Thước để tơn vinh ơng.


<b>Bùi Thụy Đào Ngun, soạn.</b>
<b>Chú thích:</b>


<i><b>Năm sinh ghi theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Có nguồn ghi Cầm </b></i>
Bá Thước sinh 1859.


<b>Tài liệu tham khảo:</b>


<i><b>-Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. </b></i>
Nxb KHXH, Hà Nội, 1992.


</div>

<!--links-->

×