Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.36 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THU THỦY

QUYỀN MIỄN TRỪ TƯ PHÁP CỦA
QUỐC GIA TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 603860

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. VŨ ĐỨC LONG

HÀ NỘI – 2012


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện luận văn, em đã nhận được sự hướng dẫn,
giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của các thầy cơ Khoa Sau đại học trường Đại học
Luật Hà Nội.
Em xin trân trọng cảm ơn TS. Vũ Đức Long – Cục trưởng Cục Đăng ký
quốc gia giao dịch bảo đảm – Bộ Tư pháp cùng tồn thể các thầy cơ đã dành
rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn em hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên luận văn khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý


báu của thầy cô và các bạn

Học viên

Nguyễn Thu Thủy


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1:................................................................................................. 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN MIỄN TRỪ TƯ
PHÁP CỦA QUỐC GIA TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ.............................. 1
1.1. Khái quát chung về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư pháp
quốc tế .......................................................................................................... 1
1.1.1. Khái niệm quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư pháp quốc tế .... 1
1.1.1.a. Định nghĩa........................................................................................ 1
1.1.1.b. Nội dung quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia: ............................... 4
1.1.2. Cơ sở hình thành quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư pháp
quốc tế .......................................................................................................... 7
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết về quyền miễn trừ tư
pháp của quốc gia trong Tư pháp quốc tế. ................................................... 11
1.2.1. Học thuyết miễn trừ tuyệt đối (Doctrine of Absolute Immunity) ....... 12
1.2.2. Học thuyết về quyền miễn trừ tương đối (Doctrine of Restrictive
Immunity) ................................................................................................... 15
CHƯƠNG 2:............................................................................................... 23
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN MIỄN TRỪ TƯ PHÁP
CỦA QUỐC GIA TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ ...................................... 23
2.1. Pháp luật về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư pháp quốc tế

................................................................................................................... 23
2.1.1. Chủ thể được hưởng quyền miễn trừ tư pháp..................................... 23
2.1.2. Nội dung của quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia ........................... 28
2.1.2.a. Quyền miễn trừ xét xử .................................................................... 28
2.1.2.b. Quyền miễn trừ đối với các biện pháp đảm bảo cho vụ kiện ........... 36
2.1.2.c. Quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án,
quyết định của tịa án nước ngồi. ............................................................... 37
2.2. Pháp luật Việt Nam về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư
pháp quốc tế ................................................................................................ 43


2.2.1. Phạm vi của quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia ............................. 43
2.2.2. Nội dung của quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia theo pháp luật Việt
Nam ............................................................................................................ 46
CHƯƠNG 3:............................................................................................... 58
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN MIỄN TRỪ TƯ PHÁP
CỦA QUỐC GIA TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ CÁC NƯỚC VÀ

MỘT

SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................ 58
3.1. Thực tiễn áp dụng quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư pháp
quốc tế các nước ......................................................................................... 58
3.1.1. Mỹ .................................................................................................... 59
3.1.2. Một số nước châu Âu ........................................................................ 64
3.1.2.a. Liên hiệp Anh................................................................................. 64
3.1.2.b. Pháp: .............................................................................................. 66
3.1.2.c. Đức: ............................................................................................... 68
3.1.3. Một số nước châu Á .......................................................................... 69
3.1.3.a. Nhật Bản ........................................................................................ 70

3.1.3.b. Trung Quốc .................................................................................... 71
3.2. Thực tiễn pháp luật về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư
pháp quốc tế Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện ............................... 73
3.2.1. Thực tiễn pháp luật về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư
pháp quốc tế Việt Nam................................................................................ 73
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền miễn trừ tư
pháp của quốc gia trong tư pháp quốc tế ..................................................... 80
KẾT LUẬN ................................................................................................ 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 88


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Stt

Từ viết tắt

Tên đầy đủ tiếng Việt

3.

Tên đầy đủ tiếng
Anh
Công
ước United
Nations
UNJISP
Convention
on
Jurisdictional

immunities of State
and their properties
2004
Australia FSIA
Australia
foreign
Sovereign immunity
Act 1985
BLDS
Civil Code 2004

4.

BLTTDS

5.

Canada SIA

6.

ILC

7.

Nam Phi FSIA

Bộ luật Tố tụng dân sự
2004
Luật Miễn trừ quốc gia

của Canada năm 1985
Ủy ban luật pháp quốc tế
của Liên hợp quốc
Luật Miễn trừ dành cho
quốc gia nước ngoài của
Nam Phi năm 1981

8.

Singapore SIA

9.

UK SIA

1.

2.

10. US FSIA

11. Israel FSIL

Civil
Procedural
Code 2004
Canada
State
immunity Act 1985
International

Law
Commission
South
Africa
Foreign
State
immunities
Act
1981
Singapore
State
Immunity Act 1979
United
Kingdom
State Immunity Act
1978
United State Foreign
Sovereign
Immunities
Act
1976
Israel
Foreign
Sovereign Immunity
Law 2008

Công ước của Liên hợp
quốc về quyền miễn trừ tài
phán của quốc gia và miễn
trừ tài sản của quốc gia

năm 2004
Luật Miễn trừ dành cho
quốc gia nước ngoài của
Australia năm 1985
Bộ luật Dân sự 2005

Luật Miễn trừ quốc gia
của Singapore nưm 1979
Luật Miễn trừ quốc gia
của Liên hiệp Anh năm
1978
Luật Miễn trừ dành cho
quốc gia nước ngoài của
Hoa Kỳ năm 1976
Luật Miễn trừ dành cho
quốc gia nước ngoài của
Israel 2008


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới tác động của tiến trình tồn cầu hóa cũng như những yêu cầu đặt ra nhằm phát
triển kinh tế đất nước, các quốc gia đã tham gia ngày càng nhiều hơn vào các quan
hệ pháp lý quốc tế. Bên cạnh việc thiết lập các quan hệ mang tính chất chính trị với
các quốc gia khác hoặc những chủ thể khác của luật quốc tế, quốc gia còn tham gia
vào các quan hệ pháp luật với cá nhân, pháp nhân trong các lĩnh vực như dân sự,
thương mại, lao động,… Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật với các thể nhân,
pháp nhân, quốc gia với tư cách là chủ thể duy nhất có chủ quyền, được hưởng
quyền miễn trừ tư pháp. Quyền năng đặc biệt này của quốc gia được hình thành trên
cơ sở nguyên tắc "Par in parem imperium non habet imperium" - kẻ ngang quyền

này khơng có quyền đối với kẻ ngang quyền kia – do một thẩm phán người Italia là
Bartolus đưa ra vào thế kỷ XIV. Cho đến đầu thế kỷ XIX, tòa án của hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều thừa nhận, theo nguyên tắc chủ quyền và bình đẳng chủ
quyền giữa các quốc gia, quốc gia nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ tư pháp
tuyệt đối trừ trường hợp quốc gia tự nguyện từ bỏ quyền này. Tuy nhiên, sự gia tăng
đáng kể về số lượng cũng như bản chất của các quan hệ trong lĩnh vực dân sự,
thương mại, lao động giữa quốc gia và các cá nhân, pháp nhân đã dẫn đến sự thay
đổi về nội dung của quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia. Để đảm bảo sự bình đẳng
giữa các cá nhân, pháp nhân khi tham gia vào các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng
có yếu tố nước ngoài với quốc gia, các quốc gia trên thế giới đã đưa ra những
trường hợp mà quốc gia bị hạn chế quyền miễn trừ tư pháp khi tham gia vào các
quan hệ trên. Nhìn chung, pháp luật của các nước cũng như điều ước quốc tế về
quyền miễn trừ quốc gia đều được xây dựng trên cơ sở học thuyết miễn trừ tương
đối. Theo học thuyết miễn trừ tương đối, quốc gia sẽ chỉ được hưởng quyền miễn
trừ tư pháp khi thực hiện các hoạt động với tính chất công (acts jure imperii); đối
với những hoạt động mang tính chất tư (acts jure gestionis) quốc gia sẽ khơng được
viện dẫn quyền miễn trừ trước tịa án nước ngồi. Tuy nhiên, các trường hợp mà
quốc gia không được hưởng quyền miễn trừ tại tòa án của quốc gia khác lại chưa
được hiểu một cách thống nhất cả về các quy định của pháp luật cũng như trong
thực tiễn xét xử của tòa án.
Tại Việt Nam, trước xu thế hội nhập, tồn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, Đảng ta đã
khẳng định mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là “Phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn


lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trưởng quốc tế tiếp tục được nâng
lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau” . Để thực
hiện được mục tiêu trên, Việt Nam cần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội

nhập vào nền kinh tế thế giới. Trên thực tế, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển kinh tế đất nước, Nhà nước Việt Nam đã và đang ký kết một loạt
những cam kết mở cửa thị trường đối với các đối tác thương mại trên tồn cầu. Việt
Nam cũng mở rộng cửa để đón nhận các đối tác nước ngoài tới kinh doanh tai Việt
Nam, trong đó đáng kể là các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay, Việt
Nam đang được đánh giá là một trong mười nền kinh tế hấp dẫn nhất đối với các
nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư Nhật Bản và các nền kinh
tế đang phát triển ở Châu Á. Quá trình tồn cầu hóa bên cạnh những lợi ích vơ cùng
to lớn về mặt kinh tế cũng đã đồng thời đặt chính phủ Việt Nam cũng như các
doanh nghiệp Việt Nam trước những thách thức mới, trong đó phải kể đến các tranh
chấp quốc tế đang phát sinh ngày càng nhiều. Đặc biệt là các tranh chấp phát sinh
giữa nhà nước Việt Nam với các thể nhân, pháp nhân nước ngoài hay giữa nhà nước
nước ngoài với các thể nhân, pháp nhân Việt Nam – một hiện tượng khó có thể
tránh khỏi khi các quốc gia tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong khi các quốc gia trên thế giới đã thừa nhận thẩm quyền của tòa án nước mình
đối với một số tranh chấp mà quốc gia nước ngồi là một bên đương sự thì tại Việt
Nam, hình ảnh một quốc gia bị khởi kiện bởi cá nhân hay pháp nhân nước ngồi
trước tịa án của một quốc gia khác và việc quốc gia không được viện dẫn quyền
miễn trừ từ những vụ kiện này vẫn cịn là một vấn đề khó có thể được chấp nhận.
Ngược lại, chính phủ Việt Nam cũng như các cơ quan nhà nước Việt Nam đã và
đang là bị đơn trong nhiều vụ kiện do các nhà đầu tư nước ngoài khởi xướng tại các
trung tâm trọng tài quốc tế cũng như tòa án của các quốc gia như vụ kiện nhà đầu tư
Trịnh Vĩnh Bình khởi kiện Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng tàu, Công ty
Sourth Fork của Hoa Kỳ khởi kiện Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận,…. Những
tranh chấp trên đã gây ảnh hưởng khơng nhỏ đến uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế đồng thời cũng gây thiệt hại đối với tài sản của nhà nước ta. Vậy mà hiện
nay, Việt Nam chưa đưa ra quy định nào trực tiếp điều chỉnh vấn đề quyền miễn trừ
tư pháp của quốc gia nước ngồi tại tịa án có thẩm quyền của Việt Nam. Không
những thế, về mặt lý luận, các quan điểm về quyền miễn trừ tư pháp cảu quốc gia
trong tư pháp quốc tế Việt Nam cũng chưa được giải quyết một cách thấu đáo.

Chính điều đó đã khiến cho Việt Nam thường bị rơi vào thế bị động khi tham gia
vào các tranh chấp quốc tế do không đưa ra được những lập luận vững chắc, vận
dụng các quy định một cách linh hoạt để có thể bảo đảm quyền và lợi ích cho nhà


nước Việt Nam cũng như cho các cá nhân, tổ chức của Việt Nam. Đây chính là trở
ngại to lớn đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về quyền miễn trừ tư pháp
của quốc gia trong tư pháp quốc tế là một trong những nhiệm vụ cấp thiết đối với
khoa học pháp lý ở Việt Nam. Nghiên cứu này sẽ là một trong những cơ sở để các cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể đưa ra các quan điểm, lập luận bảo vệ
quyền lợi của mình trong trường hợp bị các cá nhân, pháp nhân nước ngồi khởi kiện
tại tịa án nước ngoài đối với các tranh chấp trong lĩnh vực mang tính chất tư như dân
sự, thương mại, lao động. Đồng thời, trên cơ sở những quy định của pháp luật của các
quốc gia, các điều ước quốc tế cũng như thực tiễn xét xử của các nước, Việt Nam có
thể xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quốc gia về quyền miễn trừ tư pháp
của quốc gia cũng như xem xét việc gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về quyền
miễn trừ tài phán và quyền miễn trừ tài sản của quốc gia năm 2004.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là một trong những nội dung nghiên cứu quen
thuộc trong khoa học pháp lý quốc tế. Có thể kể ra đây một số bài viết như: Law on
State Immunity của tác giả Hazel Fox; The State Immunity Controversy in
International Law – Private Suits Against Sovereign States in Domestic Courts,
Springer Berlin Heidelberg (2005) của tác giả Ernest K. Bankas, The State
immunities from state practices (2006) do Hội đồng châu Âu và các tác giả Gerhard
Hafner, Marcelo G. Kohen, Susan Breau biên tập và đặc biệt là các báo cáo của Ủy
ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc đã đưa ra trong quá trình soạn thảo Công
ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài phán và quyền miễn trừ tài sản của
quốc gia, cùng nhiều cơng trình nghiên cứu khác. Đây là nguồn tư liệu q báu giúp
cho người viết có cái nhìn đầy đủ hơn về những sự hình thành và phát triển của

pháp luật quốc tế về quyền miễn trừ của quốc gia nói chung và quyền miễn trừ tư
pháp của quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, đây chủ yếu là những tài liệu bằng tiếng
nước ngoài nên việc tiếp cận và nghiên cứu vấn đề còn gây nhiều trở ngại lớn.
Tại Việt Nam, vấn đề quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia vẫn còn là một vấn đề
bỏ ngỏ cả về lý luận và thực tiễn. Về mặt pháp lý, Việt Nam hiện nay chưa có một
quy định nào trực tiếp điều chỉnh về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia. Về mặt
lý luận, trong thực tiễn nghiên cứu pháp lý, hiện nay vẫn chưa có bất kỳ cơng trình
nghiên cứu nào nghiên cứu một cách tồn diện, đầy đủ về vấn đề này. Nhìn chung,
các tài liệu của các tác giả Việt Nam có đề cập đến vấn đề quyền miễn trừ tư pháp
của quốc gia còn rất ít, chỉ có thể liệt kê một số tác phẩm được viết dưới dạng giáo
trình như: Giáo trình Tư pháp quốc tế của Trường đại học Luật hà Nội, Giáo trình


Tư pháp quốc tế của Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, hoặc một số
sách chuyên khảo như “ Một số vấn đề lý luận cơ bản về Tư pháp quốc tế” của TS.
Đoàn Năng biên soạn năm 2001, “Tư pháp quốc tế Việt Nam của TS. Đỗ Văn Đại
và PGS. TS Mai Hồng Quỳ xuất bản năm 2010, cuốn “Tư pháp quốc tế” của ThS.
Lê Thị Nam Giang năm 2010 và “Những phát triển của Luật pháp quốc tế thế kỷ
XXI” của tác giả Nguyễn Trường Giang xuất bản năm 2008. Bên cạnh đó, một số
tác giả cũng đã có những bài viết trên các tạp chí hoặc các cơng trình nghiên cứu về
vấn đề quyền miễn trừ quốc gia như:“Quyền miễn trừ của quốc gia trong tư pháp
quốc tế Việt Nam” của ThS. Bành Quốc Tuấn đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp (Số 13/2010), “Tìm hiểu về quyền miễn trừ quốc gia trong quan hệ quốc tế”
của ThS. Lê Thị Nam Giang và nhóm SV CLC K30, hay bài viết “Quyền miễn trừ
của nhà nước và doanh nghiệp nhà nước nước ngoài theo pháp luật cạnh tranh Mỹ
- kinh nghiệm cho Việt Nam” và “Vai trị của chính phủ trong giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngồi,” của
TS. Nguyễn Thanh Tú – Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Quốc tế, Bộ Tư pháp hay
“Quyền miễn trừ quốc gia trong quan hệ quốc tế” của Lê Huyền Thanh – trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Mình. Tuy nhiên, các tác phẩm trên chỉ đề cập một cách

khái quát về vấn đề quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia như là một nội dung được
điều chỉnh của Tư pháp quốc tế mà không đi sâu nghiên cứu về sự hình thành và
phát triển của quyền miễn trừ quốc gia trong Tư pháp quốc tế cũng như chưa nghiên
cứu một cách toàn diện các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn các
tranh chấp mà Việt Nam tham gia có liên quan đến vấn đề quyền miễn trừ tư pháp
của quốc gia.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài nhằm làm rõ các quy định của pháp luật các quốc gia trên thế
giới và các điều ước quốc tế về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia cũng như thực
tiễn áp dụng các quy định trên tại các quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó, đánh giá
và đề ra các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật Việt Nam về quyền miễn trừ tư
pháp của quốc gia.
Với mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
+ Làm rõ cơ sở hình thành quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia và các học thuyết
về quyền miễn trừ tư pháp cảu quốc gia
+ Phân tích các quy định của pháp luật các nước và các điều ước quốc tế về quyền
miễn trừ tư pháp của quốc gia với hai nội dung chính là chủ thể được hưởng quyền
miễn trừ tư pháp và nội dung của quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia.


+ Phân tích các quan điểm cũng như một số quy định của pháp luật Việt Nam có
liên quan đến quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia
+ Làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật các nước về quyền miễn trừ
tư pháp của quốc gia cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp có liên quan đến
quyền miễn trừ tư pháp của nhà nước Việt Nam khi tham gia vào các quan hệ dân
sự, thương mại, lao động với các thể nhân, pháp nhân nước ngoài.
+ Đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền miễn trừ tư
pháp của quốc gia.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật của các quốc gia như Hoa Kỳ,

Liên hiệp Anh, Australia, Canada, Nhật Bản, Nam Phi,…cũng như ba điều ước
quốc tế trực tiếp điều chỉnh về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia bao gồm: Công
ước Brussels năm 1926 về việc thống nhất những quy định liên quan đến quyền
miễn trừ dành cho tàu thuyền của quốc gia Công ước của Hội đồng châu Âu về
quyền miễn trừ quốc gia, Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài phán
và quyền miễn trừ tài sản của quốc gia năm 2004, cũng như các văn bản pháp luật
khác có liên quan đến quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia.
Tuy nhiên, luận văn không nghiên cứu toàn bộ các quy định về quyền miễn trừ tư
pháp của quốc gia trên tất cả các lĩnh vực như hình sự, dân sự,.. mà chỉ nghiên cứu
những quy định của pháp luật của các quốc gia và các điều ước quốc tế điều chỉnh
quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự, thương
mại, lao động,.. (là những quan hệ mang tính chất tư) với các cá nhân, pháp nhân
nước ngoài. Đồng thời, luận văn chỉ xem xét vấn đề quyền miễn trừ tư pháp của
quốc gia tại tòa án của quốc gia nước ngoài.
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung xem xét những vấn đề
sau:
+ Cơ sở hình thành quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia và các học thuyết về quyền
miễn trừ tư pháp của quốc gia
+ Các quy định của pháp luật về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư pháp
quốc tế
+ Phân tích thực tiễn xét xử tại các quốc gia trên thế giới có liên quan đến vấn đề
quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia
+ Phân tích thực tiễn giải quyết các tranh chấp có liên quan đến quyền miễn trừ tư
pháp của Việt Nam.
+ Đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền
miễn trừ tư pháp của quốc gia.


5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu, luận văn được triển khai trên cơ sở

các quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong q
trình thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng một số phương pháp cụ thể như phương
pháp phân tích để làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu; phương pháp
thống kê, tổng hợp nhằm đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật các
nước và Việt Nam về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia; phương pháp so sánh để
đánh giá sự tương đồng và khác biệt giữa các học thuyết về quyền miễn trừ tư pháp
của quốc gia cũng như đánh giá sự tương đồng và khác biệt giữa các văn bản pháp
luật của các nước và các điều ước quốc tế về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia,
đặc biệt là với Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài phán và quyền
miễn trừ tài sản của quốc gia năm 2004.….
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Luận văn làm rõ một cách tổng thể sự hình thành và phát triển của các học thuyết về
quyền miễn trừ quốc gia – nền tảng để các quốc gia trên thế giới xây dựng và thực thi
các quy định của pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế về vấn đề này.
- Luận văn đã làm rõ nội dung của quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia được ghi
nhận trong pháp luật các nước cũng như những điều ước quốc tế đặc biệt là Công
ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài phán và quyền miễn trừ tài sản của
quốc gia năm 2004.
- Luận văn làm rõ những quy định của pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn xét
xử có liên quan đến vấn đề quyền miễn trừ tư pháp của Việt Nam khi tham gia vào
các quan hệ dân sự, thương mại, lao động,… với các cá nhân nước ngoài. Trên cơ
sở đó, tác giả đã đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia
Chương 2: Các quy định của pháp luật về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia
trong tư pháp quốc tế
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia

trong tư pháp quốc tế các nước và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.


1
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN MIỄN TRỪ TƯ PHÁP
CỦA QUỐC GIA TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Với sự phát triển của nền kinh tế cũng như q trình tồn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ, khơng một quốc gia nào có thể tồn tại mà hồn tồn đóng cửa với thế giới
bên ngồi. Chính vì lí do đó, các quốc gia đã tích cực tham gia vào các quan hệ hợp
tác trên mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Không chỉ tham gia vào các quan hệ
pháp lý với các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, quốc gia còn tham gia
vào các quan hệ với cá nhân, pháp nhân của nước khác trong các lĩnh vực dân sự,
thương mại,… Tuy nhiên, khi tham gia các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng với các
chủ thể khác của tư pháp quốc tế, quốc gia được hưởng quy chế pháp lý đặc biệt,
không ngang hàng với các cá nhân và pháp nhân do quốc gia – với thuộc tính khơng
tách rời là chủ quyền - được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.

1.1. Khái quát chung về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư
pháp quốc tế

1.1.1. Khái niệm quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư pháp quốc tế
1.1.1.a. Định nghĩa
Trong giao tiếp thông thường, “quốc gia” là thuật ngữ được sử dụng với rất nhiều từ
đồng nghĩa như “đất nước”, “nhà nước”, “nước”,… Đây cũng là thuật ngữ có thể
được sử dụng để chỉ tất cả các hoạt động của chính phủ như cơ cấu tổ chức, các
hoạt động do các cơ quan nhà nước thực hiện. Theo Gamal Moursi Badr thì khái
niệm “quốc gia” được sử dụng để chỉ “chính phủ quốc gia và con người trên một
lãnh thổ nhất định”[2, tr.73]. Tuy nhiên, hiện nay, trên thế giới chưa có một văn bản
pháp lý nào đưa ra khái niệm về chủ thể đặc biệt này. Khoa học pháp lý quốc tế

hiện nay chỉ đưa ra những tiêu chí để xác định một thực thể có danh nghĩa quốc gia.
Theo Điều 1 Công ước Montevideo về quyền và nghĩa vụ của quốc gia được thông
qua tại Hội nghị quốc tế các nước châu Mỹ ngày 26/12/1933 thì một thực thể được
coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế quốc tế phải có 4 yếu tố cơ bản: dân cư cư trú
thường xuyên; lãnh thổ được xác định; chính phủ; và khả năng tham gia vào các
quan hệ với các chủ thể quốc tế khác. Khi có đầy đủ những yếu tố trên, một thực thể
sẽ được xem như là một quốc gia với thuộc tính chính trị pháp lý khơng thể tách rời
là chủ quyền [56, tr 62].
Một trong những biểu hiện của chủ quyền quốc gia là thẩm quyền của quốc gia
được theo pháp luật quốc tế được ban hành và thực thi các quy định của pháp luật
đối với các sự việc, con người và tài sản trên lãnh thổ của quốc gia mình (cịn được
gọi là thẩm quyền tài phán của quốc gia). Quyền tài phán của quốc gia bao gồm ba


2
loại: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, một trong những biện pháp để
quốc gia thực hiện quyền tài phán của mình đối với các hoạt động của các thể nhân,
pháp nhân cũng như nước ngoài tham gia vào các hoạt động trên lãnh thổ của quốc
gia là thơng qua hoạt động tố tụng của tịa án.
Trong khi đó, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã khiến vai trò và chức năng của
quốc gia được mở rộng. Không chỉ tham gia vào các quan hệ pháp luật với các chủ
thể khác của luật quốc tế nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại, quốc gia
còn tham gia vào các quan hệ pháp luật với các tổ chức và cơng dân nước ngồi trong
trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại, lao động,… với mục tiêu phát triển kinh tế
đất nước. Các quan hệ giữa một bên là quốc gia, một bên là thể nhân hoặc cơ quan, tổ
chức của quốc gia khác trong lĩnh vực dân sự, thương mại, lao động là các quan hệ
thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Song song với sự phát triển các quan
hệ giữa quốc gia với các chủ thể khác của tư pháp quốc tế, là sự gia tăng về số lượng
các vụ tranh chấp giữa những chủ thể này. Tuy nhiên, tòa án của quốc gia – với tư
cách là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự,

thương mại, kinh tế phát sinh từ các quan hệ tư pháp quốc tế - lại bị hạn chế thẩm
quyền đối với quốc gia. Nguyên tắc tơn trọng chủ quyền quốc gia và sự bình đẳng
chủ quyền giữa các quốc gia đã khiến các chủ thể này được hưởng quyền miễn trừ
đối với thẩm quyền tài phán của quốc gia khác, mà cụ thể là thẩm quyền xét xử của
tòa án của quốc gia khác.
Theo Black’s law Dictionary thì thuật ngữ “immunity” (“miễn trừ”) được hiểu là
việc cho phép một chủ thể không phải thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật yêu cầu
các cá nhân khác phải thực hiện1. Theo tiếng Latinh, “miễn trừ” được dịch là
“immunitas” có nghĩa là khơng phải thực hiện một nghĩa vụ, một hoạt động nào đó.
Trong khoa học pháp lý, quyền miễn trừ là những ưu đãi và đặc quyền pháp lý do
pháp luật quy định, cho phép những chủ thể nhất định không phải thực hiện một số
nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý cụ thể để bảo đảm cho những chủ thể này thực hiện
những chức năng của họ [62].
Tại Báo cáo thứ hai về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia và quyền miễn trừ đối
với tài sản của quốc gia, Sompong Sucharitkul – Báo cáo viên đặc biệt của Ủy ban
Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc (International Law Commission – ILC) có nêu:
““Miễn trừ” là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong quan hệ trái quyền2. Trong
một quan hệ mà một “quyền” của chủ thể này tương đương với “nghĩa vụ” của một
1
2

An exemption from performing duties which thelaw generally requires other citizens to perform.

“Quan hệ trái quyền là những quyền dân sự trong đó chủ thể quyền thực hiện quyền để thỏa mãn
u cầu của mình thơng qua hành vi của chủ thể có nghĩa vụ, phụ thuộc vào ý chí của người khác” [61, tr 43]


3
chủ thể khác, thì quyền “miễn trừ” mà một cá nhân hoặc một tổ chức hay một quốc
gia được trao cho đồng nghĩa với việc chủ thể có quyền tương ứng sẽ khơng cịn

“quyền lực” nào nữa (...).” và ““miễn trừ” là một dạng đặc quyền” [30].
Trên cơ sở khái niệm “quốc gia” và “miễn trừ”, định nghĩa về quyền miễn trừ quốc
gia đã được các nhà nghiên cứu đưa ra. Theo Stein, quyền miễn trừ quốc gia là
“quyền của quốc gia và các cơ quan của quốc gia không phải chịu trách nhiệm về
các hành vi của mình tại cơ quan của quốc gia khác”. Brohmer thì cho rằng, quyền
miễn trừ quốc gia là hệ thống các quy định mang tính loại trừ - những trường hợp
mà tịa án của một quốc gia khơng có thẩm quyền giải quyết. Trong khi đó, theo
Rajesh Venugopalan, trong bối cảnh pháp luật quốc tế hiện nay, quyền miễn trừ quốc
gia được hiểu là “các nguyên tắc pháp lý và các quy định trên cơ sở đó quốc gia có
thể yêu cầu miễn trừ hoặc không phải tuân theo thẩm quyền lập pháp, hành pháp
hoặc tư pháp của quốc gia nước ngoài.” [36, tr 11].
Như vậy, có thể hiểu, quyền miễn trừ của quốc gia (hay còn được gọi là quyền miễn
trừ nhà nước) là tổng hợp các quy định và các nguyên tắc pháp lý mà trên cơ sở đó
quốc gia và các cơ quan của quốc gia không phải tuân theo thẩm quyền tài phán của
quốc gia nước ngoài.
Quyền miễn trừ quốc gia là một trong những nguyên tắc lâu đời trong quan hệ quốc
tế, được xem như hàng rào bảo vệ cho quốc gia tại cơ quan tài phán của quốc gia
nước ngồi. Mục đích chính của quyền miễn trừ quốc gia là nhằm đảm bảo các quốc
gia có thể thực hiện một cách thuận lợi các chức năng đối ngoại và đối nội của mình
thơng qua việc đảm bảo cho quốc gia không phải tham gia vào các thủ tục tố tụng tại
quốc gia nước ngoài. Ban đầu, quyền miễn trừ quốc gia được hình thành từ các quyết
định của tòa án các quốc gia dành cho nhau trên cơ sở mối quan hệ thân thiện giữa
các quốc gia. Về sau, nó dần trở thành một tập quán quốc tế, được cộng đồng quốc tế
thừa nhận. Trong lời nói đầu của Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài
phán của quốc gia và quyền miễn trừ đối với tài sản của quốc gia năm 2004 (sau đây
gọi tắt là Công ước UNJISP năm 2004) đã ghi nhận: “Các quyền miễn trừ tài phán
của quốc gia và tài sản của quốc gia được thừa nhận là một tập quán quốc tế”. Với
vai trò quan trọng của quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia vào các quan hệ
quốc tế mà đặc biệt là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi,
nhiều nước đã ban hành các đạo luật về quyền miễn trừ của quốc trong hệ thống pháp

luật của mình cũng như tham gia vào các điều ước quốc tế về vấn đề này.
Sự tăng cường giao lưu, hợp tác trong lĩnh vực thương mại cũng như những lĩnh
vực khác của đời sống xã hội giữa các quốc gia trong bối cảnh tồn cầu hóa đã
khiến khái niệm và nội dung của quyền miễn trừ quốc gia có sự thay đổi. Dù vẫn


4
còn nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của quyền miễn trừ quốc gia nhưng
hầu hết các học giả đều thừa nhận, một trong những nội dung quan trọng và chủ yếu
của quyền miễn trừ quốc gia chính là quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia.
Hiện nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quyền miễn trừ tư pháp của
quốc gia. Để hiểu rõ về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia, trước hết chúng ta cần
phải hiểu được khái niệm “tư pháp”. Từ lâu nay, khái niệm này đã đã được nhiều
nhà khoa học và nhà hoạt động thực tiễn của Việt Nam đề cập, tranh luận nhưng
vẫn chưa có ý kiến thống nhất. Thuật ngữ “tư pháp” được sử dụng ở Việt Nam với
nhiều ý nghĩa.
Nghĩa thứ nhất, “tư pháp” có nghĩa là quyền xét xử, được sử dụng để nhắc đến các
cơ quan tham gia vào hoạt động xét xử của nhà nước trong các vụ việc dân sự, các vụ
án hình sự và hành chính. Như vậy, theo ý nghĩa này, “tư pháp” được dùng để chỉ
hoạt động của các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án.
Nghĩa thứ hai, “tư pháp” được hiểu một nhánh quyền lực bên cạnh quyền lập pháp và
hành pháp trong học thuyết tam quyền phân lập – quyền tư pháp. Quyền tư pháp là
quyền lực nhà nước trao cho các cơ quan nhà nước để tiến hành các hoạt động: khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm duy trì và bảo vệ cơng lý, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã
hội và cơng dân [74]. Ngồi ra, chữ “tư pháp” cịn có một nghĩa khác nữa là ngành
luật tư (private law) - ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tư.
Trên thực tế, khái niệm “tư pháp” thường được sử dụng khi nhắc đến hoạt động tố
tụng của các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án trong các giai
đoạn khởi tố, điều tra, xét xử và thi hành án. Vì vậy, quyền miễn trừ tư pháp của

quốc gia trong tư pháp quốc tế có thể được hiểu là quyền đặc biệt của quốc gia –
chủ thể có thuộc tính chính trị pháp lý là chủ quyền - khi tham gia vào các quan hệ
dân sự, thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài với các thể nhân, cơ quan, tổ
chức, theo đó, quốc gia sẽ khơng chịu sự tài phán của các cơ quan tư pháp của
quốc gia khác (mà chủ yếu là tịa án quốc gia) trong q trình giải quyết vụ việc
phát sinh từ quan hệ có yếu tố nước ngồi trên nếu khơng được sự chấp thuận của
quốc gia.

1.1.1.b. Nội dung quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia:
Tuy sử dụng các thuật ngữ khơng hồn tồn giống nhau, nhưng hiện nay, các nhà
nghiên cứu đều khẳng định, quyền miễn trừ của quốc gia bao gồm: quyền miễn trừ
tư pháp và quyền miễn trừ đối với tài sản. Như vậy, quyền miễn trừ tư pháp của
quốc gia là một nội dung của quyền miễn trừ quốc gia độc lập với quyền miễn trừ
tài sản của quốc gia. Trong cuốn Thuật ngữ pháp luật quốc tế do TS. Đỗ Hịa Bình


5
chủ biên khi định nghĩa về quyền miễn trừ của quốc gia, các tác giả đã giải thích:

“Quyền miễn trừ của quốc gia bao gồm quyền miễn trừ tư pháp (miễn trừ xét xử,
miễn trừ áp dụng các biện pháp sơ bộ án, miễn trừ thi hành án) và quyền miễn trừ
về tài sản.” Tương tự, trong Giáo trình Thương mại quốc tế - Khoa Luật Đại học
quốc gia có nêu: “Là một thực thể chính trị - pháp lý có chủ quyền, quốc gia tham
gia vào các giao dịch dân sự - kinh tế - thương mại với tư cách chủ thể đặc biệt. Do
đó, quốc gia được hưởng quyền miễn trừ: miễn trừ về tư pháp và miễn trừ về tài
sản”[57, tr111]. TS. Đồn Năng cũng có cùng ý kiến: “Vấn đề quy chế pháp lý của
tài sản quốc gia trong quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi gắn bó
rất chặt chẽ với vấn đề quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia”[54, tr192];
và đã tách quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia và quyền miễn trừ tài sản
của quốc gia thành những nội dung độc lập với nhau trong cuốn Một số vấn đề lý

luận cơ bản về tư pháp quốc tế. Tương tự, trong bài viết của mình, ThS. Bành Quốc
Tuấn có nêu: “Quyền miễn trừ của quốc gia trong tư pháp quốc tế gồm quyền miễn
trừ tư pháp và quyền miễn trừ đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của quốc
gia.”[71, tr14] cũng như phân tích các nội dung của quyền miễn trừ tư pháp của
quốc gia gồm: quyền miễn trừ xét xử, miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế
nhằm đảm bảo đơn kiện, miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo
thi hành án. Trên thực tế, quyền miễn trừ tài sản thuộc sở hữu của quốc gia là một
nội dung quan trọng của quyền miễn trừ quốc gia khi tham gia vào các quan hệ Tư
pháp quốc tế và có thể thừa nhận, quyền miễn trừ tài sản này được thể hiện thông
qua quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia. Theo TS. Đoàn Năng:
“Trên thực tế, hai trong số ba nội dung của quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc
gia trực tiếp đụng đến tài sản của quốc gia, bởi vì, thơng thường để đảm bảo sơ bô đối
với đơn kiện cũng như bảo đảm thi hành các bản án, các tòa án thực hiện sai áp đối
với nhưng tài sản nhất định của bên bị đơn trong tranh chấp dân sự” [54,tr192]

Tuy nhiên, pháp luật quốc tế cũng đã quy định những loại tài sản mà quốc gia luôn
được hưởng quyền miễn trừ trong mọi trường hợp, không chỉ đối với các biện pháp
đảm bảo sơ bộ cho vụ kiện hay các biện pháp cưỡng chế thi hành án.3
Tương ứng với ba giai đoạn của quá trình tố tụng, quyền miễn trừ tư pháp của quốc
gia bao gồm 3 nội dung chính sau:
+ Quyền miễn trừ xét xử của quốc gia: Quyền miễn trừ xét xử của quốc gia được hiểu
là tòa án của một quốc gia không được quyền xét xử một quốc gia khác nếu khơng có
sự đồng ý của quốc gia đó. Điều đó có nghĩa là khi tham gia vào các quan hệ dân sự,
3

Điều 21 của Công ước UNJISP 2004 đã quy định về quyền miễn trừ đối với tài sản của quốc gia

như một nội dung độc lập.



6
thương mại, lao động với một quốc gia, các cá nhân, pháp nhân sẽ khơng có quyền
khởi kiện quốc gia đó ra trước tịa án của quốc gia nước ngồi nếu khơng có sự đồng ý
của quốc gia đó được thể hiện thơng qua hợp đồng hoặc các hình thức khác.
+ Quyền miễn trừ đối với các biện pháp đảm bảo cho vụ kiện (hay còn được gọi là
quyền miễn trừ đối với các biện pháp tiền tố tụng, quyền miễn trừ đối với các biện
pháp sơ bộ, hay quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo
đơn kiện): Nội dung của quyền miễn trừ đối với các biện pháp đảm bảo cho vụ kiện
được hiểu là trong trường hợp quốc gia đồng ý cho cá nhân, pháp nhân khởi kiện
mình tại tịa án nước ngồi thì tịa án nước ngồi sẽ được quyền xét xử nhưng không
được áp dụng bất kỳ một biện pháp cưỡng chế nào như bắt giữ, tích thu đối với tài
sản của quốc gia để đảm bảo cho việc xét xử.
+ Quyền miễn trừ đối với các biện pháp bảo đảm thi hành án. Quyền miễn trừ đối với
các biện pháp bảo đảm thi hành án của quốc gia có nội dung như sau: nếu khơng có
sự đồng ý của quốc gia thì khơng thể thi hành bản án một cách bắt buộc để chống lại
quốc gia đó trong trường hợp quốc gia là đương sự của vụ kiện.
Quyền miễn trừ đối với các biện pháp đảm bảo vụ kiện cũng như quyền miễn trừ
đối với các biện pháp cưỡng chế thi hành án được các học giả phương Tây cũng
như một số văn bản pháp luật đề cập dưới tên gọi là quyền miễn trừ đối với các biện
pháp đảm bảo thi hành (Immunity From Execution/ Enforcement).
Các nội dung nêu trên của quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia có gắn bó chặt chẽ
với nhau. Quốc gia có quyền từ bỏ từng nội dung hoặc tất cả các nội dung của quyền
miễn trừ tư pháp bởi việc hưởng quyền miễn trừ tư pháp khi tham gia vào các quan
hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi là quyền của quốc gia chứ không phải
là nghĩa vụ của quốc gia. Việc quốc gia từ bỏ nội dung này khơng có nghĩa là đương
nhiên từ bỏ nội dung khác của quyền miễn trừ tư pháp. Và quốc gia từ bỏ từng nội
dung hoặc từ bỏ toàn bộ các nội dung của quyền miễn trừ tư pháp trong trường hợp
này khơng có nghĩa là trong trường hợp khác quốc gia cũng đương nhiên từ bỏ.
Trong vụ án Socifros v. USSR (1938), tòa án Pháp đã khẳng định: “hai quyền miễn
trừ này khơng có liên hệ với nhau, và việc từ bỏ quyền này sẽ không bao giờ dẫn đến

việc mất quyền viện dẫn quyền miễn trừ kia tại tòa án Pháp”. Trong phán quyết của
Tịa án Cơng lý quốc tế trong vụ kiện giữa Đức và Italia có nêu: “Các quy định của
tập quán quốc tế điều chỉnh quyền miễn trừ đối với các biện pháp thi hành và các quy
định điều chỉnh quyền miễn trừ xét xử (…) là hai nội dung khác biệt, và phải được áp
dụng một cách độc lập” [24, tr 44].


7
1.1.2. Cơ sở hình thành quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư
pháp quốc tế
Khi nói đến quốc gia, người ta luôn nhắc đến một trong những thuộc tính chính trị pháp lý khơng thể tách rời của quốc gia đó là chủ quyền, với thuật ngữ phổ cập là
chủ quyền quốc gia. Thuật ngữ “chủ quyền” xuất phát từ tiếng Pháp “souveraineté”
có nguồn gốc từ tiếng Latinh cổ là Superanitas hoặc Suprema potestas, đều có nghĩa
là quyền lực tối cao[50]. Từ trước đến nay, tồn tại nhiều học thuyết khác nhau về
chủ quyền quốc gia như: thuyết chủ quyền tuyệt đối, thuyết chủ quyền độc
lập,…Theo quan điểm hiện đại thì chủ quyền quốc gia là một trong các thuộc tính
chính trị - pháp lý khơng thể tách rời của quốc gia, bao gồm hai nội dung chủ yếu là
quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của
quốc gia trong các quan hệ quốc tế [64, tr62]. Quốc gia thực hiện quyền tối cao
trong phạm vi lãnh thổ của mình trên hai phương diện vật chất và quyền lực:
- Về phương diện quyền lực: quốc gia có quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ; thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thông qua hệ thống cơ quan nhà nước
trong phạm vi lãnh thổ; thực hiện thẩm quyền đối với các cá nhân và tổ chức đang
hoạt động trên lãnh thổ quốc gia.
- Về phương diện vật chất: quốc gia là chủ thể duy nhất có đầy đủ quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt đối với các tài nguyên nằm phía trong bên giới quốc gia
trên cơ sở lợi ích và phù hợp với sự lựa chọn của cộng đồng dân cư sinh sống trên
vùng lãnh thổ đó.
Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia thực hiện chủ quyền một cách riêng biệt,
không chia sẻ với các chủ thể khác của luật quốc tế. Thông qua hệ thống cơ quan nhà

nước, quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền sử dụng lãnh thổ của mình và thự hiện
quyền lực trên lãnh thổ đó. Các quốc gia khác có nghĩa vụ tơn trọng, khơng được áp
đặt quyền lực của họ và không được can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia.
Trong phán quyết giải quyết tranh chấp liên quan đến Eo biển Corfu, Tịa Cơng lý
quốc tế của Liên hợp quốc đã khẳng định rằng “giữa các quốc gia độc lập, việc tôn
trọng chủ quyền lãnh thổ là một trong số những cơ sở chủ yếu cho quan hệ quốc tế”
[68]. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có một số hạn chế đối với việc thực hiện chủ quyền
lãnh thổ của quốc gia và quyền miễn trừ của quốc gia chính là một trong những trường
hợp hạn chế đối với việc thực hiện chủ quyền lãnh thổ của quốc gia nhằm đảm bảo sự
tơn trọng đối với sự tồn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của các quốc gia khác.
Trên cơ sở chủ quyền quốc gia, một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
đã được hình thành và được cộng đồng quốc tế thừa nhận là nguyên tắc “bình đẳng
chủ quyền giữa các quốc gia”. Theo nguyên tắc này, khi tham gia vào các quan hệ


8
quốc tế, các quốc gia được quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội, đối ngoại của quốc
gia mà không phải chịu sự áp đặt của bất kỳ chủ thể nào khác, trên cơ sở tôn trọng
chủ quyền của mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Các quốc gia bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ và là những thành viên bình đẳng của cộng đồng quốc tế, bất
chấp sự khác biệt về chế độ kinh tế, chính trị và xã hội [73]. Hay nói cách khác, các
quốc gia dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, có tiềm lực mạnh hay yếu đều bình đẳng
với nhau về chủ quyền.
Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia được xem như là nền tảng của quan hệ quốc
tế hiện đại, là cơ sở đảm bảo trật tự quốc tế. Đây là nguyên tắc được ghi nhận trong
điều lệ của tuyệt đại đa số các tổ chức quốc tế và trong nhiều văn bản quan trọng
của các hội nghị và tổ chức quốc tế. Khoản 1 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc đã
quy định: “Tổ chức Liên hợp quốc dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền
giữa tất cả các nước thành viên”.Trong Tuyên bố về những nguyên tắc của luật
quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến

chương Liên hợp Quốc cũng khẳng định:
“nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và quyền tự quyết của các dân tộc sẽ là sự
đóng góp có ý nghĩa cho luật quốc tế hiện tại, và việc áp dụng có hiệu quả sẽ có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển quan hệ hữu nghị giữa các quốc
gia, dựa trên sự tơn trọng ngun tắc bình đẳng về chủ quyền”[73].

Do các quốc gia độc lập và bình đẳng về chủ quyền nên khơng thể có quốc gia nào
có quyền đứng trên để phán xét tính đúng sai của hành động của một quốc gia khác.
Điều này được tổng hợp thành nguyên tắc kẻ ngang quyền này khơng có quyền lực
gì đối với kẻ ngang quyền kia (Par in parem non habet imperium). Hay nói cách
khác, tịa án của một quốc gia sẽ khơng có thẩm quyền xét xử một quốc gia nước
ngoài. Trong báo cáo của De Bar về thẩm quyền của tịa án đối với quốc gia nước
ngồi gửi Ủy ban Liên hợp quốc về pháp điển hóa pháp luật quốc tế (League of
Nations Committee for the Codification of Interntional law) đã giải thích ngun tắc
trên như sau:
“Việc tịa án của một quốc gia khơng có thẩm quyền đối với một quốc gia khác
được công nhận rộng rãi đối với các trường hợp quốc gia thực hiện các hoạt động
thực hiện chủ quyền quốc gia nhằm đảm bảo hoạt động quản lý đất nước và thực
hiện các dịch vụ công”[13, tr30].

Như vậy, chủ quyền quốc gia và nguyên tắc “bình đẳng chủ quyền giữa các quốc
gia” – một nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế hiện đại - chính là cơ sở của
quyền miễn trừ của quốc gia trong Tư pháp quốc tế. Trong phán quyết của Tòa án
tối cao Hoa Kỳ trong án lệ nổi tiếng về quyền miễn trừ quốc gia – The Schooner


9
Exchange v. Mc Faddon, Thẩm phán Marshall đã khẳng định quyền miễn trừ quốc
gia được hình thành trên cơ sở “sự bình đẳng và độc lập chủ quyền tuyệt đối giữa
các quốc gia” [21, tr 2]. Nikolai A. Ushakov cũng thừa nhận: “Quyền miễn trừ quốc

gia được hình thành trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, là nội
dung được thừa nhận ở phạm vi tồn cầu”[41]. Điều này đã được ghi nhận trong
Cơng ước của Hội đồng châu Âu về quyền miễn trừ quốc gia năm 1972 (gọi tắt là
Công ước Basel 1972): ““Miễn trừ quốc gia” là khái niệm của pháp luật quốc tế,
được phát triển từ nguyên tắc par in parem non habet imperium”. Đặc biệt, gần đây
nhất, trong phán quyết ngày 3 tháng 2 năm 2012 của Tịa án Cơng lý quốc tế trong
vụ kiện về “Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia” giữa Cộng hòa Liên Bang Đức
và Cộng hòa Italia, Tòa đã ghi nhận:
“Nguyên tắc miễn trừ quốc gia có vị trí quan trọng trong pháp luật quốc tế và quan
hệ quốc tế. Nó được hình thành trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa
các quốc gia đã được thừa nhận tại đoạn 1 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc là
một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.”[24, tr24]

Tuy được hình thành trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế - nguyên tắc bình
đẳng chủ quyền giữa các quốc gia – quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia vẫn là một
trong những nội dung cơ bản của tư pháp quốc tế xuất phát từ hai lý do chính:
Thứ nhất, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà quốc gia tham gia với các cá
nhân, pháp nhân là các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
Theo Giáo trình Tư pháp quốc tế - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội thì:
“Tư pháp quốc tế là một bộ mơn khoa học pháp lý độc lập và là một ngành luật độc
lập bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự
- kinh tế - thương mại, hơn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố
nước ngồi”[58, tr13].

Tương tự, trong Giáo trình Tư pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội cũng ghi
nhận:
“Tư pháp quốc tế là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia, bao
gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sư, thương
mại, hơn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngồi (gọi chung
là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài)”[66,tr21]


Nhiều sách báo, tài liệu của nước ngoài cũng thừa nhận về vị trí cũng như đối
tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Chẳng hạn, theo Peter North và J.J. Fawcett
thì: “Tư pháp quốc tế là một bộ phận của pháp luật Anh được áp dụng khi tịa án
giải quyết các vụ kiện có yếu tố nước ngồi” [23, tr3] hay theo David McClean thì:
“Tư pháp quốc tế là một bộ phận thuộc lĩnh vực luật tư của một quốc gia điều chỉnh
các quan hệ có yếu tố nước ngồi”[10, tr1]. Từ đó có thể khẳng định, các quan hệ


10
mà quốc gia tham gia với các cá nhân, pháp nhân nước ngoài trong lĩnh vực dân sự,
thương mại, lao động chính là những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài – thuộc
đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Và quốc gia tham gia vào các quan hệ
này với tư cách một chủ thể đặc biệt có thuộc tính chính trị pháp lý riêng biệt là chủ
quyền quốc gia.
Thứ hai, các tranh chấp giữa các quốc gia và các chủ thể khác là các tranh chấp dân
sự phát sinh từ các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi, cịn được
gọi là các tranh chấp dân sự quốc tế. Do đó, xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền giữa các quốc gia và nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, tịa án của các
quốc gia có liên quan đến vụ việc đó đều có thể có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp dân sự quốc tế trên. Hay nói cách khác, tranh chấp dân sự quốc tế giữa quốc gia
với các chủ thể tư khác có liên quan chặt chẽ đến hiện tượng xung đột thẩm quyền (là
hiện tượng tòa án của hai hay nhiều quốc gia khác nhau đều có thể có thẩm quyền
giải quyết đối với một vụ việc dân sự cụ thể phát sinh). Vì vậy, vấn đề cần đặt ra đó
là tịa án của quốc gia nào có thẩm quyền đối với các tranh chấp dân sự quốc tế mà
một bên chủ thể là quốc gia. Theo các nhà nghiên cứu, việc xác định thẩm quyền của
tòa án quốc gia đối với tranh chấp dân sự đó là một trong những nội dung nghiên cứu
cơ bản của tư pháp quốc tế. Chẳng hạn, Enrnest K. Bankas cho rằng:
“Nói chung, quyền miễn trừ của quốc gia được hiểu là một nội dung liên quan đến
thủ tục tố tụng và vì vậy, thuộc đối tượng điều chỉnh của cả Công pháp quốc tế và Tư

pháp quốc tế. Hay nói cách khác, thẩm quyền của tịa án quốc gia nhằm xác định
liệu tịa án quốc gia có thẩm quyền xét xử đối với một tranh chấp pháp lý hay không
là vấn đề của tư pháp quốc tế và thẩm quyền này được xác định trên cơ sở xem xét
tranh chấp có liên quan đến yếu tố nước ngồi hay khơng” [3,tr46].

Việc xác định thẩm quyền của tịa án quốc gia là bước đầu tiên trước khi tòa án của
quốc gia đó có quyết định trao hoặc khơng trao quyền miễn trừ cho quốc gia nước
ngoài trong tranh chấp cụ thể đang được giải quyết. Pháp luật của các quốc gia đã
cho thấy, nhìn chung, việc xác định thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia đối với
các tranh chấp dân sự quốc tế thường được xác định trên cơ sở điều ước quốc tế mà
các quốc gia hữu quan là thành viên hoặc trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc gia
quy định về thẩm quyền của tịa án. Chính vì vậy, dù phát sinh từ các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật quốc tế nhưng quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia sẽ được xác
định theo pháp luật của quốc gia có tịa án có thẩm quyền. Hay nói cách khác, các
nội dung của quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia được xác định trên cơ sở hệ
thuộc luật tòa án (lex fori) - một trong những hệ thuộc cơ bản của tư pháp quốc tế
được các quốc gia trên thế giới thừa nhận từ rất sớm.


11
Từ đó có thể nhận thấy, được hình thành trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế nhưng quyền miễn trừ của quốc gia, mà cụ thể là quyền miễn trừ tư pháp
của quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự, thương mại, lao động với các cá
nhân, pháp nhân cũng là một trong những nội dung của Tư pháp quốc tế. Vì vây,
Morris đã khẳng định rằng: Tư pháp quốc tế (hay Luật xung đột)
“là một bộ phận của pháp luật của mỗi quốc gia bởi các quốc gia khác nhau có hệ
thống pháp luật khác nhau trong đó có các quy định pháp luật khác nhau, trong khi
Công pháp quốc tế chủ yếu điều chỉnh các quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền
với nhau. Dù vậy, vẫn có sự trùng lặp trong đối tượng điều chỉnh của những ngành
luật này, chẳng hạn, vấn đề về quyền miễn trừ quốc gia và miễn trừ ngoại giao và

việc quốc hữu hóa tài sản tư của chính phủ”[10, tr1-2].

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết về quyền miễn
trừ tư pháp của quốc gia trong Tư pháp quốc tế.
Khái niệm quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia nói riêng và quyền miễn trừ quốc
gia nói chung được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành của các thực thể
có lãnh thổ, những chủ thể có quyền lực tuyệt đối đối với các đối tượng trong lãnh
thổ đó. Theo một số nhà nghiên cứu [29,tr13][25, tr4], khái niệm quyền miễn trừ
quốc gia đã bắt đầu được hình thành vào thời kỳ phong kiến, gắn liền với học thuyết
rex gratia dei – tạm dịch là “Hoàng đế được bảo vệ bởi chúa trời” (King by grace
of God) tại phương Tây. Đến khoảng thế kỷ thứ 13, học thuyết trên đã được thể hiện
một cách rõ ràng tại Anh và được gọi là học thuyết “Đức vua không thể làm sai”
(The King can do no wrong). Học thuyết này đã cho thấy quyền lực tuyệt đối, tối
cao của những người đứng đầu quốc gia. Điều này được giải thích bởi tất cả các
quyền lực thời kỳ đó đều nằm trong tay người đứng đầu quốc gia là đức vua, hay
nói cách khác, đức vua chính là người ban hành ra pháp luật của quốc gia; vì vậy,
khơng thể có quyền năng pháp lý nào có thể chống lại người đã ban hành ra pháp
luật của quốc gia đó.
Do đó, các nhà nghiên cứu cổ điển về pháp luật quốc tế như Gentili (1552 – 1608),
Grotius (1583 – 1645), Vattel (1714 -1767),… trong thời gian đầu chỉ đề cập đến
quyền miễn trừ dành cho các nguyên thủ quốc gia và các nhân viên ngoại giao. Mãi
đến thế kỷ XIX, thông qua thực tiễn xét xử của tòa án các quốc gia, khái niệm
quyền miễn trừ quốc gia cũng như quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia đã được
hình thành. Chính sự tham gia ngày càng nhiều của quốc gia vào các hoạt động
thương mại, đã dẫn đến sự thay đổi các quan điểm về nội dung của quyền miễn trừ
tư pháp của quốc gia. Những quan điểm này đã khơng chỉ được thể hiện trong các
phán quyết của tịa án mà còn được tập hợp thành hệ thống các học thuyết về quyền


12

miễn trừ của quốc gia – cơ sở lý luận cho việc ban hành các văn bản pháp luật quốc
gia cũng như xây dựng các điều ước quốc tế về quyền miễn trừ tư pháp của quốc
gia. Nhiều tài liệu đã ghi nhận, sự hình thành và phát triển của quyền miễn trừ tư
pháp của quốc gia gắn liền với sự ra đời và phát triển của hai học thuyết về quyền
miễn trừ quốc gia được các quốc gia trên thế giới thừa nhận – học thuyết miễn trừ
tuyệt đối và học thuyết miễn trừ tương đối.

1.2.1. Học thuyết miễn trừ tuyệt đối (Doctrine of Absolute Immunity)
Khái niệm “quyền miễn trừ quốc gia” hay “quyền miễn trừ nhà nước” cũng như
“quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia” được hình thành vào khoảng giữa thế kỷ
XVIII và XIX. Vào thời điểm đó, phù hợp với vai trị đơn giản của quốc gia và
chính phủ là quản lý đất nước và quản lý nền kinh tế, học thuyết “quyền miễn trừ
tuyệt đối” (Doctrine of Absolute Immunity hay Absolute Theory) ra đời.
Nhìn chung, hầu hết các cơng trình nghiên cứu về quyền miễn trừ tư pháp của quốc
gia đều khẳng định, một trong những án lệ được xem như thực tiễn xét xử đầu tiên
của học thuyết về quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia khi tham gia vào
các quan hệ quốc tế là vụ kiện The Schooner Exchange vs. McFaddon do Tòa án
Hoa Kỳ giải quyết vào năm 1812. Nội dung vụ kiện có thể tóm tắt như sau:
Hai cơng dân của Hoa Kỳ có tên là John McFaddon và Greetham, là chủ sở hữu của
con tàu có tên gọi Schooner Exchange. Vào ngày 30 tháng 12 năm 1810, con tàu bị
tịch thu theo lệnh của Napoleon – Hoàng đế của nước Pháp – khi con tàu đang đi trên
vùng nước của nước Pháp. Sau đó, con tàu này được đổi tên là Balaou và được người
Pháp sử dụng như một tàu chiến với những trang thiết bị của quân đội. Năm 1812,
con tàu bị nạn và buộc phải neo đậu vào cảng Philadelphia thuộc hạt Pennysilvia.
Hai công dân Hoa Kỳ đã gửi đơn khởi kiện tới tòa án của hạt Pennysilvia, yêu cầu
tòa án cho phép họ được quyền sở hữu lại con tàu đó vì con tàu đang ở vùng nước
của Hoa Kỳ. Theo ý kiến của một cố vấn của Tòa án hạt Pennysilvia, do quan hệ
hữu hảo giữa Pháp và Hoa Kỳ, một con tàu của Hoàng đế đang đậu tại cảng của
Philadelphia sẽ khơng thể bị tịch thu. Tịa án hạt đã ngay lập tức bác đơn khởi kiện
của hai công dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tòa án vùng của Hoa Kỳ lại ra quyết định trái

với quyết định của tòa án hạt Pennysilvia và kháng cáo lên Tòa án tối cao. Thẩm
phán tịa án tối cao Hoa Kỳ thời kỳ đó – Marshall - đã cho rằng tòa án cần phải từ
chối thụ lý vụ việc này do con tàu này là tài sản của quốc gia nên được hưởng
quyền miễn trừ quốc gia. Ông cho rằng thẩm quyền của một quốc gia trong phạm vi
lãnh thổ của quốc gia đó là hồn tồn và tuyệt đối, nhưng phải tơn trọng chủ quyền
của quốc gia nước ngồi. Vì vậy, trong phán quyết của mình, thẩm phán Marshall
đã nêu:


13
“Nếu các tình tiết của vụ kiện được đưa ra là chính xác, tàu Exchange là tàu quân sự
thuộc sở hữu nhà nước đang thực hiện chủ quyền của quốc gia nước ngồi đang có
quan hệ hữu hảo với chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và (…) đang ở trong lãnh
thổ của Hoa Kỳ (…), sẽ được hưởng quyền miễn trừ tài phán”[38].

Vụ án này vào thời điểm đó đã gây xôn xao dư luận và phán quyết của thẩm phán
Marshall đã có ảnh hưởng rất lớn đến tịa án của các quốc gia khác trên thế giới khi
giải quyết các vụ án có liên quan đến vấn đề quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia
sau đó. Trên thực tế, tòa án của Hoa Kỳ là tòa án đầu tiên thể hiện các quan điểm và
đưa ra những giải thích rõ ràng cho khái niệm về quyền miễn trừ tư pháp của quốc
gia. Hay nói cách khác, đây chính là vụ án đánh dấu sự hình thành của pháp luật về
quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia vào các quan hệ quốc tế.
"Non enim una civitas potest facere lege m super alteram, quia Par in parem
imperium non habet imperium" được xem là cơ sở của học thuyết miễn trừ tuyệt đối
[36, tr17]. Nguyên tắc này được hình thành vào thế kỷ 14 bởi thẩm phán Bartolus –
một thẩm phán người Italia – với ý nghĩa, kẻ ngang quyền này khơng có quyền đối
với kẻ ngang quyền kia; hay nói cách khác, khơng một quốc gia nào được quyền cho
mình có quyền vượt lên trên quyền lực của những quốc gia có chủ quyền khác mà có
thể xét xử quốc gia đó. Ngay trong thực tiễn cuộc sống của các tầng lớp dân cư cũng
như trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước ở mỗi quốc gia,

về mặt lý luận cũng như thực tế, cùng cấp và ngang quyền thì khơng bao giờ có
quyền lực gì đối với nhau, chỉ có cấp trên mới có quyền lực đối với cấp dưới. Trong
quan hệ quốc tế, khơng có quốc gia nào đứng trên hay là cấp trên của quốc gia khác.
Mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển, dù theo
bất kỳ hệ thống kinh tế - xã hội nào đều là những thực thể độc lập, có chủ quyền và
phải bình đẳng với nhau. Nếu bỏ qua nguyên tắc này, cho phép tòa án của nước mình
xét xử nhà nước khác mà Nhà nước đó khơng đồng ý sẽ dẫn đến tình trạng chà đạp
chủ quyền quốc gia, xúc phạm đến danh dự và phẩm giá của quốc gia [54,
tr181][66,tr113]. Hay nói cách khác, theo học thuyết miễn trừ tuyệt đối, bất cứ việc
thừa nhận thẩm quyền tài phán đối với quốc gia nước ngồi đều có nghĩa là việc thực
hiện hành vi xâm phạm, thù địch đối với quốc gia nước ngoài [36, tr18].
Nội dung của học thuyết miễn trừ tuyệt đối cho phép nhà nước cùng các thực thể
của nhà nước được viện dẫn quyền miễn trừ một cách hoàn toàn, tuyệt đối, khơng
có điều kiện, khơng có ngoại lệ đối với thẩm quyền tài phán của quốc gia khác. Cụ
thể:
- Thứ nhất, tịa án của quốc gia này khơng có quyền xét xử quốc gia kia. Hay nói
cách khác, khi tham gia vào các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng với một quốc gia,


14
các cá nhân, pháp nhân nước ngồi khơng được phép đệ đơn kiện quốc gia đó tại
bất kỳ tịa án nào, trừ khi quốc gia đó cho phép.
- Thứ hai, khi quốc gia đồng ý cho cá nhân, pháp nhân nước ngồi kiện mình, cũng
có nghĩa là đồng ý cho tịa án nước ngồi xét xử vụ tranh chấp mà quốc gia là bị đơn
thì tịa án nước ngồi khơng được phép áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm
bảo sơ bộ đối với đơn kiện hoặc bảo đảm thi hành quyết định của tòa án.
- Thứ ba, tài sản của quốc gia nước ngoài là bất khả xâm phạm trong mọi trường
hợp. Nếu khơng có sự đồng ý của chính quốc gia đó thì khơng một cơ quan tài phán
của quốc gia nào được quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản của
quốc gia.

Quốc gia có quyền từ bỏ tồn bộ hay từng nội dung quyền miễn trừ tư pháp trong
từng trường hợp cụ thể hoặc trong tất cả các trường hợp.
Có thể nói, học thuyết miễn trừ tuyệt đối là một cơ sở lý luận vững chắc và cũng là
nền tảng đầu tiên của pháp luật về quyền miễn trừ quốc gia nói chung và quyền
miễn trừ tư pháp của quốc gia nói riêng. Với sự ra đời của mình, học thuyết về
quyền miễn trừ tuyệt đối đã góp phần đáng kể trong việc bảo vệ một cách tuyệt đối
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và quyền bình đẳng giữa các quốc gia khi tham gia
vào các quan hệ quốc tế. Học thuyết đã khẳng định các quốc gia hồn tồn bình
đẳng với nhau trong việc được hưởng quyền miễn trừ, không một quốc gia nào dù
mạnh hay yếu, dù giàu hay nghèo, được phép cho mình quyền có thể xét xử quốc
gia khác. Nó đã đảm bảo cho các quốc gia có được vị thế ngang nhau trên trường
quốc tế, góp phần tạo nên một trật tự ổn định trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, khi giải
quyết các vụ kiện có liên quan đến một bên chủ thể là quốc gia mà chủ yếu là các
vụ kiện có liên quan đến các tàu thuyền của nhà nước hoặc nhà nước vận hành như
vụ kiện Parlement Belge (1880), vụ kiện Porto Alexandre (1920), vụ kiện Cristiana
(1938) và vụ kiện Pesaro (1926), tòa án của Anh và Hoa Kỳ đều thể hiện quan điểm
quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là tuyệt đối và khơng phân biệt giữa hành vi
mang tính chất thương mại hay hành vi mang tính chất chủ quyền quốc gia của quốc
gia nước ngoài. Chẳng hạn, trong vụ kiện Berizzi Bros. Co v. The Pesaro (1926), tòa
án tối cao Hoa Kỳ cũng đã trao quyền miễn trừ cho một con tàu thương mại thuộc sở
hữu của chính phủ Italia vì “tất cả các con tàu thuộc sở hữu và sử dụng bởi chính phủ
của một nước (…) vì mục đích thúc đẩy thương mại của cơng dân nước đó hoặc phát
triển kinh tế (…) đều là các con tàu thuộc sở hữu công tương tự như tàu quân sự”.
Tương tự trong phán quyết của Tòa phúc thẩm Anh trong vụ Parlment Belge đã nêu:


×