Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Vấn đề nữ quyền trong văn xuôi nguyễn thị thụy vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
***********

NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN

VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN XUÔI
NGUYỄN THỊ THỤY VŨ

LUẬN VĂN THẠC SĨ: VĂN HỌC VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
***********

NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN

VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN XUÔI
NGUYỄN THỊ THỤY VŨ

VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ; 60. 22. 01. 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN KHẮC HĨA



Thành phố Hồ Chí Minh năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tơi. Toàn bộ dữ liệu được sử dụng trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng,
đúng quy định. Kết quả cuối cùng của luận văn này là do tôi tự tìm hiểu, khám phá
và phân tích một cách độc lập, khách quan, trung thực phù hợp với thực tiễn văn học
Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, kết quả luận văn này chưa từng được cơng bố ở một
cơng trình nghiên cứu nào trước đó.
Học viên
Nguyễn Thị Mỹ Duyên


LỜI CẢM ƠN
Tôi chân thành xin gửi lời cảm ơn đến TS.Nguyễn Khắc Hóa, người ln nhiệt
tình định hướng, động viên, hướng dẫn và tạo điều kiện để tơi hồn thành luận văn
theo đúng thời gian quy định.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến thầy cô khoa Văn học trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã hết lịng tạo điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành
tốt khóa học.
Tơi đặc biệt gửi lời cảm ơn đến nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đã nhiệt thành
cung cấp một số tư liệu về cuộc đời nhà văn rất đáng quý.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể người thân đã hỗ trợ, động viên
để tơi chun tâm hồn thành luận văn.
Tp.HCM, tháng 12 năm 2018
Học viên
Nguyễn Thị Mỹ Duyên



PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
NỘI DUNG .................................................................................................................9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT TRONG NGHIÊ N CỨU NGUYỄN THỊ
THỤY VŨ VÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN ......................................................................9
1.1. Khái niệm Nữ quyền và cách nhìn nữ quyền trong văn hóa Đơng – Tây ........9
1.1.1. Khái niệm Nữ quyền ...................................................................................9
1.1.2. Cách nhìn Nữ quyền trong văn hóa Đơng – Tây......................................12
1.2. Bối cảnh xã hội ảnh hưởng đến vấn đề Nữ quyền ..........................................15
1.2.1. Bối cảnh xã hội và ảnh hưởng vấn đề Nữ quyền trên thế giới .................15
1.2.2. Bối cảnh xã hội và sự phát triển tất yếu của văn học Nữ quyền Việt Nam
............................................................................................................................20
1.3. Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ và vấn đề Nữ quyền trong văn học Việt Nam
...............................................................................................................................23
1.3.1. Nguyễn Thị Thụy Vũ – cây bút nữ độc đáo và táo bạo ............................23
1.3.2. Vấn đề Nữ quyền và sự ảnh hưởng trong văn xuôi của nhà văn Thụy Vũ
............................................................................................................................26
Tiểu kết chương 1......................................................................................................33
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN QUA CÁ I NHÌN CHỦ THỂ NỮ TRONG
VĂN XI NGUYỄN THỊ THỤY VŨ...................................................................34
2.1. Cái nhìn khách quan về số phận và khát vọng bứt phá của phụ nữ ................34
2.1.1. Thân thể - yếu tính của bản thể nữ ...........................................................34
2.1.2. Vẻ đẹp bản tính nữ trong văn xi Nguyễn Thị Thụy Vũ .........................37
2.1.3. Sự bứt phá khỏi mẫu hình phụ nữ truyền thống .......................................41
2.2. Nhìn lại định kiến xã hội với phụ nữ ở văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ ........46
2.2.1. Quan niệm thất tiết trong những cú trượt của giới nữ .............................46
2.2.2. Quan niệm sinh con cầu tự và không chồng mà chửa .............................52
2.2.3. Quan niệm giai cấp, thứ bậc trong xã hội nam quyền .............................55
2.3. Bình đẳng giới trong văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ ....................................59



2.3.1. Bình đẳng về mặt kinh tế ..........................................................................59
2.3.2. Sự vùng dậy của giới nữ qua cái nhìn bình đẳng của nhà văn Thụy Vũ..62
2.3.3. Bình đẳng trong mối quan hệ gia đình .....................................................65
Tiểu kết chương 2......................................................................................................68
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT QUA VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN
TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ THỤY VŨ ....................................................69
3.1. Điểm nhìn trần thuật .......................................................................................69
3.1.1. Sự kết hợp điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngồi .........................69
3.1.2. Điểm nhìn văn hóa ...................................................................................72
3.1.3. Điểm nhìn thời gian và khơng gian ..........................................................74
3.2. Ngơn ngữ - hình thức biểu đạt của Văn học Nữ quyền ..................................78
3.2.1. Ngơn ngữ bình dị ......................................................................................78
3.2.2. Ngôn ngữ thông tục ..................................................................................81
3.2.3. Sự độc đáo và táo bạo trong độc thoại và đối thoại ................................84
3.3. Giọng điệu, cốt truyện và nhân vật .................................................................87
3.3.1. Tính truyền thống và hiện đại qua cốt truyện ..........................................87
3.3.2. Giọng điệu khách quan, chất vấn và mạnh mẽ ........................................89
3.3.3. Hệ thống nhân vật nam – yếu tố làm bật vấn đề Nữ quyền......................91
Tiểu kết chương 3......................................................................................................94
KẾT LUẬN ...............................................................................................................95
TÀ I LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................97
PHỤ LỤC ................................................................................................................102


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Phong trào nữ quyền đã đi được quãng thời gian khá dài từ thế kỉ XVIII
cho đến nay nhưng vấn đề nữ quyền vẫn cịn nhiều điều chưa thể giải quyết. Vì thế,
nữ quyền ln là một vấn đề nóng được đề cập trong xã hội, đặc biệt là văn học. Việc
đấu tranh cho nữ quyền hiện nay chủ yếu nghiêng về lực lượng nữ giới, trong khi đó,
sự đấu tranh này cũng cần ủng hộ của nam giới để tiến tới sự bình đẳng. Văn học nữ
quyền nhấn mạnh, đấu tranh cho nữ quyền khơng có nghĩa là triệt tiêu, hạ thấp nam
giới mà hướng tới bình đẳng giới. Văn học nữ quyền ở Việt Nam xét trong bối cảnh
văn học thế giới cũng đang trên đà phát triển. Lực lượng sáng tác và số lượng tác
phẩm viết về vấn đề này ngày một tăng. Do đó, nghiên cứu về đề tài nữ quyền hứa
hẹn sẽ đem đến nhiều điều hấp dẫn và thú vị.
1.2. Trước năm 1975, văn xuôi Việt Nam sáng tác về nữ giới chủ yếu được
chấp bút bởi các nhà văn nam nhưng với số lượng ít. Nguyễn Thị Thụy Vũ lúc bấy
giờ là nhà văn vô cùng đặc biệt viết về hiện thực một cách chân thật và táo bạo. Tuy
nhiên, sau 1975, các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ bị cấm xuất bản. Mãi đến
năm 2016, các tác phẩm của nữ nhà văn mới được xuất bản lại và có được sự đón
nhận nồng nhiệt của độc giả. Do đó, nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Thụy Vũ
hứa hẹn đem đến nhiều điều thú vị và mới mẻ cho văn học.
1.3. Văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ như xé tan bức màn định kiến của xã
hội về phụ nữ Việt Nam giữa thế kỉ XX. Người viết nghiên cứu đề tài này để góp
phần khẳng định tài năng độc đáo, dám bứt phá và vị trí của Nguyễn Thị Thụy Vũ
trong văn học nữ. Văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã bị bỏ quên một khoảng thời
gian dài cho nên đóng góp của nhà văn cần có chỗ đứng xứng đáng trong văn học.
Vấn đề nữ quyền trong văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ là vấn đề mới gây hứng
thú thơi thúc người viết hồn thành cơng trình luận văn này.


2

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nghiên cứu về vấn đề Nữ quyền

Vào thế kỉ XV, vấn đề nữ quyền bắt đầu được Christine de Pisan đề cập đến
vấn đề đấu tranh cho nữ giới ở vấn đề xã hội và yếu tố bình đẳng giới. Tuy nhiên, vấn
đề bình đẳng giới được nhắc đến chưa thể tạo nên phong trào đấu tranh cho phụ nữ.
Sau cuộc cách mạng tư sản Pháp và chiến tranh thế giới thứ nhất thì phong trào đấu
tranh cho nữ giới xuất hiện và phát triển nhanh chóng. Phụ nữ ở các nước Pháp, Mĩ
đã được cơng nhận quyền bầu cử và bình đẳng trong lao động. Chủ nghĩa nữ quyền
chính thức được ra đời tại Pháp vào năm 1837 bởi triết gia người Pháp Charles Fourier.
Chủ nghĩa nữ quyền ngày càng đẩy nhanh phạm vi ảnh hưởng của nó đến các nước
khác trong suốt 3 giai đoạn thể hiện nổi trội.
Năm 1872, nhà văn Mary Wollstonecraft nêu lên tư tưởng nữ quyền ở quyển
Một biện minh cho người phụ nữ và nhận được nhiều hưởng ứng. Nối tiếp sau sự
vang dội của Mary Wollstonecraft, hàng loạt tác phẩm viết về nữ quyền của các nhà
văn cùng thời ra đời từ các quốc gia khác nhau. Ở làn sóng thứ nhất này, phong trào
nữ quyền bước đầu diễn ra khá thành công khi tiến hành địi bình đẳng về mặt pháp
lý. Phong trào này địi hỏi sự tự do bỏ phiếu và bình đẳng trước pháp luật, giáo dục
và vấn đề nghề nghiệp của phụ nữ. Giai đoạn thứ nhất kéo dài từ Thế kỉ XVIII đến
nửa đầu thế kỉ XX đã xây dựng một nền móng đầy nội lực để đấu tranh cho nữ quyền.
Đây chính là bệ đỡ giúp cho giai đoạn thứ 2 ra đời.
Mặc dù giai đoạn thứ 2 chỉ vỏn vẹn từ giữa thế kỉ XX đến 1980, nhưng nó đem
lại âm vang lớn cho thời đại. Phạm vi nữ quyền không chỉ giới hạn ở châu  u, châu
Mĩ mà đã có sức cơng phá lớn đến châu Phi, châu Á . Tác phẩm nổi tiếng về nữ quyền
trong giai đoạn này là một sáng tác của Betty Friedan mang tên Bí ẩn nữ tính, xuất
bản năm 1963. Bên cạnh đó cịn có quyển Giới thứ hai của nữ nhà văn người Pháp Simone de Beauvoir. Bằng tiếng nói đầy trọng lượng của nữ giới, bà mạnh mẽ lên
tiếng vạch ra những nguyên nhân gây bất bình đẳng giới tính. Phong trào nữ quyền
giai đoạn thứ hai điểm huyệt vào sự bất bình đẳng về quyền riêng tư của giới nữ, đòi


3

hỏi được chăm sóc vấn đề sức khỏe một cách công bằng. Các nhà đấu tranh nữ quyền

trong giai đoạn thứ hai chú trọng nâng cao về mặt tinh thần. Họ quan niệm người phụ
nữ phải tự giải phóng chính mình chứ khơng trơng chờ sự giải phóng từ bên ngồi.
Họ phải vượt lên trên sự lao động khơng cơng trong gia đình và tìm kiếm sự bình
đẳng trong tất cả các mối quan hệ với gia đình, với xã hội.
Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ những năm 1980 và thực sự phát triển mạnh mẽ
vào 1990 trong bối cảnh tồn cầu hóa. Các nhà nữ quyền ln tự tin về bản lĩnh của
mình và khơng ngừng kêu gọi đấu tranh. Giai đoạn này phát triển rầm rộ khi các nhà
nữ quyền đặc biệt chú trọng vào việc trang bị và nâng cao kiến thức của nữ giới. Hành
trình phát triển của vấn đề nữ quyền đã tạo nên ảnh hưởng lớn đến các nước trên thế
giới kể cả Việt Nam.
Tùy vào hoàn cảnh xã hội cụ thể mà các nước có cách thức đấu tranh cho nữ
quyền khác nhau. Đấu tranh nữ quyền về cơ bản là đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ
trong kinh tế, văn hóa xã hội và tất cả các mặt đời sống. Do ảnh hưởng của chế độ
nam quyền thống trị từ lâu đời nên phụ nữ luôn bị chèn ép. Vào giai đoạn văn học
trung đại Việt Nam, một số ít thi sĩ nữ mới tìm được tiếng nói của họ. Tiếng nói của
bà Huyện Thanh Quan, Đồn Thị Điểm và Hồ Xuân Hương phá tan bức tường nam
quyền vững chắc. Đặc biệt là Hồ Xuân Hương. Nữ thi sĩ không những khẳng định giá
trị và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam mà cịn cơng khai chỉ trích những hủ tục lâu
đời. Tuy nhiên, thật đáng tiếc khi những âm thanh ít ỏi ấy của các nữ thi sĩ cất lên lại
không đủ để mở ra phong trào nữ quyền trong văn học Việt Nam.
Trước năm 1954, vấn đề nữ quyền bắt đầu nổi lên với các tác phẩm văn xi
của Phan Thị Bạch Vân, Thụy An, Đồn Tâm Đan… Dòng văn học này được các nữ
nhà văn miền Nam giữa thế kỉ XX viết rất hay như: Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng,
Nhã Ca, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ… Điều đáng buồn là sau năm 1975,
nhiều tác phẩm của một số nhà văn nữ, trong đó có Nguyễn Thị Thụy Vũ đã bị tịch
thu. Văn học đang khẳng định lại giá trị của một số nhà văn có đóng góp trong thời
kì văn học chưa “cởi trói” ở ta (trước 1986). Gần đây, các nhà phê bình văn học đang
chú ý đến những tác giả nữ nổi tiếng ở miền Nam 1954 – 1975. Họ chưa được khai



4

thác nhiều nhưng được đánh giá là độc đáo, tài năng và có sức ảnh hưởng lớn trong
giai đoạn văn học miền Nam 1954 – 1975 nói riêng và văn học nữ Việt Nam nói
chung.
Văn học Việt Nam sau 1986 là giai đoạn bùng nổ như một cuộc chiến về vấn
đề nữ quyền. Văn học giai đoạn này xuất hiện những cây bút nữ đầy sáng tạo, độc
đáo chưa từng thấy: Lý Lan, Phạm Thị Hoài, Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Y Ban… Ảnh
hưởng của giới thuyết nữ quyền ở phương Tây, cộng hưởng với sự “mở cửa” của
nước ta nên vấn đề nữ quyền trong văn học càng phát triển. Số lượng sáng tác của
các nhà văn nữ đương đại về vấn đề này ngày một tăng lên.
Sáng tác của nữ nhà văn Thụy Vũ có sức hấp dẫn để những người nghiên cứu
“tìm về”. Trên tinh thần sục sôi của văn học nữ quyền, văn xuôi viết về nữ giới của
Nguyễn Thị Thụy Vũ sẽ cho thấy nhiều điều thú vị và độc đáo. Tinh thần sáng tác về
vấn đề nữ quyền của Nguyễn Thị Thụy Vũ bên cạnh văn xuôi đô thị miền Nam 1954
– 1975 sẽ được khơi gợi lại một cách khái quát. Nghiên cứu sáng tác của Thụy Vũ
dựa trên vấn đề nữ quyền là một hướng đi khá mới. Nếu trước đó, hướng đi này chỉ
dừng lại ở những nhận xét chung, bài viết ngắn thì nay vấn đề này sẽ được khai thác
nhiều hơn trong luận văn mà người viết thực hiện.
2.2. Nghiên cứu văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ
Thụy Vũ sáng tác từ năm 1965, nữ nhà văn cống hiến các tác phẩm hay cho
văn học miền Nam 1954 – 1975. Thụy Vũ viết về vấn đề của nữ giới trong hầu hết
các tác phẩm của nhà văn một cách tự nhiên. Từ sau năm 1975, các tác phẩm của
Thụy Vũ bị tịch thu và cấm xuất bản vìsự “xiết chặt” văn học. Khơng riêng Thụy Vũ
mà cịn có nhiều nhà văn khác như: Bình Nguyên Lộc, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca…
và rất nhiều nhà văn khác cũng gặp phải trường hợp tương tự. Năm 2016, các tác
phẩm của Thụy Vũ được in lại sau thời gian dài. Sự vắng bóng suốt gần 50 năm đó
đã khiến văn xi của Nguyễn Thị Thụy Vũ chưa được nghiên cứu nhiều.
Đa số các nhà phê bình đề cập đến Nguyễn Thị Thụy Vũ chỉ dừng lại ở những
lời phê bình ngắn như Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến… Còn lại, Thụy Vũ chỉ xuất hiện



5

gần đây trong các bài viết ngắn: “Sự khác biệt về tính dục trong truyện Nguyễn Thị
Thụy Vũ và các nhà văn nữ khác” của Du Tử Lê (2010). “Hai mươi năm văn học
miền Nam (1954 – 1975): Phẩm tính và ý nghĩa” của Bùi Vĩnh Phúc viết tại California
năm 2014. “Nguyễn thị Thụy Vũ với quyển truyện dài Khung rêu” của Hồ Trường An
(2014). “Nguyễn Thị Thụy Vũ giữa dòng đời nghiệt ngã” của Vương Trùng Dương
(2015). Thụy Vũ cịn được nhắc đến trong cơng trình Mặt khác Sài Gịn của Tơ Kiều
Ngân (2014). Ngồi ra, nữ nhà văn này còn được nhắc đến trực tiếp ở đề tài “Ý thức
nữ quyền trong tác phẩm của các nhà văn nữ từ 1954 đến 1975” của nhà văn nữ Trịnh
Thanh Thủy ở buổi hội thảo 20 năm văn học Miền Nam 1954 – 1975 diễn ra tại Hà
Nội vào năm 2014. Tuy nhiên, những bài viết này khi nhắc đến Thụy Vũ cũng là nói
chung về văn học miền Nam hoặc nữ giới miền Nam sáng tác từ 1954 đến 1975 mà
thơi. Hầu như chưa có một cơng trình nào chuyên nghiên cứu riêng về Nguyễn Thị
Thụy Vũ.
Trong bài Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay (1973), Tạ Ty đã nhắc đến Thụy
Vũ như sau: “Nguyễn Thị Thụy Vũ, nhà văn phái nữ, hiện diện giữa khung trời văn
nghệ với sắc thái đặc thù. Những ý nghĩ bỏng cháy và rẫy rụa về thân xác trong mỗi
tác phẩm, đôi khi vượt qua ý nghĩ của nhiều người”. Thụy Vũ đề cập đến vấn đề nữ
giới như một sự tự nhiên vốn có. Tài năng độc đáo ấy là tiếng nói có giá trị lớn giữa
xã hội nam quyền. Thụy Vũ viết những vấn đề nhạy cảm mà các nhà văn nam khá e
ngại. Ở đó, ta bắt gặp những mầm đau khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xã
hội. Ta còn bắt gặp tinh thần đấu tranh cho sự bình đẳng giới thật quật cường qua bản
lĩnh của nữ giới miền Nam giữa thế kỉ XX.
Nguyễn Thị Thụy Vũ đã trải qua những thăng trầm trong sáng tác và đời sống.
Tư liệu quý giá trong văn xuôi Thụy Vũ đem lại giá trị lớn và có sức hấp dẫn mạnh
mẽ. Nghiên cứu về vấn đề nữ quyền trong văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ là một vấn
đề mới hứa hẹn đem lại sự thú vị trong cơng trình nghiên cứu này. Hiện nay đang có

các cơng trình luận văn nghiên cứu về Nguyễn Thị Thụy Vũ. Tuy đang trong quá
trình hình thành nhưng cho thấy sức hấp dẫn trong sáng tác của Thụy Vũ.


6

3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, người viết khẳng định đóng góp của nhà văn Thụy Vũ
trong văn học Việt Nam. Người viết đi sâu khám phá những ngóc ngách cảm xúc,
những bứt phá của phụ nữ miền Nam giữa thế kỉ XX trong sáng tác của Nguyễn Thị
Thụy Vũ. Đồng thời nói lên giá trị của Thụy Vũ trong dòng văn học nữ Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Người nghiên cứu đề tài xác định rõ đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận
văn này là vấn đề nữ quyền trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Từ đó, nêu lên
những quan niệm cũ và những bứt phá của nữ giới. Ngồi ra, luận văn này cịn khẳng
định đóng góp của nhà văn Thụy Vũ vào nền văn học Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Người viết gói gọn phạm vi nghiên cứu trong các tác phẩm: Mèo đêm, Lao vào
lửa, Chiều mênh mông, Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu, Cho trận gió kinh
thiên, Nhang tàn thắp khuya, Như thiên đường lạnh, Đêm tối bao la, Nắng chiều vàng.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
5.1. Phương pháp phê bình tiểu sử
Người viết vận dụng phương pháp phê bình tiểu sử để làm rõ đóng góp của
nhà văn Thụy Vũ trong văn học miền Nam 1954 – 1975. Đồng thời nói lên vị trícủa
nữ nhà văn này trên hành trình văn học Việt Nam. Phương pháp phê bình tiểu sử tạo
điều kiện cho việc khai thác nội dung, nghệ thuật trong sáng tác của Thụy Vũ.
5.2. Phương pháp phê bình thi pháp học
Phương pháp này giúp người viết có thể đi sâu khai thác hình thức nghệ thuật

của văn xi Thụy Vũ. Phương pháp này cịn giúp cho người viết có một cách nhìn
tổng qt và sâu sắc hơn về vấn đề nữ quyền trong văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ.


7

5.3. Phương pháp phê bình nữ quyền
Người viết thực hiện phương pháp phê bình nữ quyền để khai thác những khía
cạnh về phụ nữ trong các sáng tác của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Qua đó, người viết có
cơ sở đưa đến những kết luận về vấn đề nữ quyền trong văn xuôi Nguyễn Thị Thụy
Vũ.
5.4. Phương pháp xã hội – lịch sử
Người viết sử dụng phương pháp này để thấy được đóng góp của lý thuyết nữ
quyền. Tiếp theo, người viết khám phá những đặc điểm quan trọng và nổi bật của văn
xi Nguyễn Thị Thụy Vũ nằm trong dịng chảy văn học nữ Việt Nam. Đồng thời,
người viết làm rõ những tác động mà xã hội đã ảnh hưởng đến tư tưởng trong văn
xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ.
5.5. Ngồi ra, người nghiên cứu cịn sử dụng nhiều phương pháp khác
để phục vụ cho việc nghiên cứu được hoàn chỉnh như: Tiếp cận theo phương pháp
thống kê, khảo sát và nghiên cứu theo cấu trúc hệ thống…tạo điều kiện thuận lợi cho
luận văn được hồn thành.
6. Đóng góp của đề tài
Về ý nghĩa khoa học, đề tài luận văn Vấn đề nữ quyền trong văn xuôi Nguyễn
Thị Thụy Vũ giúp tìm hiểu một cách khái qt những thơng tin về nhà văn nữ độc đáo
trước 1975 – Nguyễn Thị Thụy Vũ. Qua đó, đề tài này khẳng định giá trị của nhà văn
Nguyễn Thị Thụy Vũ trong nền văn học nữ quyền Việt Nam.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn không chỉ dừng lại ở việc khai thác tài năng độc
đáo của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ mà cịn nhìn lại những quan điểm cũ về phụ
nữ trong xã hội trước 1975 và xã hội đương thời. Luận văn này cũng là một tài liệu
đáng tin cậy khi nghiên cứu về tác giả Nguyễn Thị Thụy Vũ và vấn đề nữ quyền trong

văn học nữ quyền Việt Nam.


8

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo nội dung chính của luận
văn được sắp xếp thành ba chương. Chương 1, Cơ sở lý thuyết trong nghiên cứu nữ
quyền Nguyễn Thị Thụy Vũ. Chương 1 chủ yếu nói đến Nguyễn Thị Thụy Vũ – cây
bút nữ độc đáo và táo bạo của văn học nữ quyền Việt Nam. Đồng thời nêu ngắn gọn
hành trình của lý thuyết nữ quyền. Chương 2 đi sâu phân tích vấn đề nữ quyền qua
cái nhìn chủ thể nữ trong văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ. Chương này nhắc đến cái
nhìn khách quan về số phận, khát vọng bứt phá của nữ giới và những yếu tố hướng
đến bình đẳng giới trong văn xi Thụy Vũ. Chương 3 nói đến nghệ thuật mà Nguyễn
Thị Thụy Vũ đã sử dụng để thể hiện sự thành công của các tác phẩm viết về nữ giới
qua cái nhìn trần thuật.


9

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT TRONG NGHIÊ N CỨU NGUYỄN THỊ
THỤY VŨ VÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN
1.1. Khái niệm Nữ quyền và cách nhìn nữ quyền trong văn hóa Đơng –
Tây
1.1.1. Khái niệm Nữ quyền
Trong q trình hình thành của lý thuyết nữ quyền, khái niệm nữ quyền đã
được định nghĩa bởi nhiều nhà nghiên cứu. Để đưa ra một định nghĩa duy nhất cho lý
thuyết nữ quyền khá khó khăn vì có đến hơn 600 cách định nghĩa khác nhau về nữ
quyền trên thế giới. Do đó, cách hiểu về “lý thuyết Nữ quyền” rất phong phú và mang

nhiều chiều kích khác nhau. “Feminism” là từ khóa “nóng” được tìm kiếm trong
những năm gần đây, nhất là khi những phong trào địi bình đẳng cho phụ nữ ngày
càng được đẩy mạnh. Feminism được Hồ Khánh Vân nhắc đến trong bài viết “Phê
bình văn học Nữ quyền” rất cụ thể: “Khái niệm (Feminism, Women’s right) gắn liền
với hoạt động chính trị và xã hội, sinh ra từ ý thức về sự bình đẳng trên phương diện
giới. Nói một cách khái quát, khái niệm này chỉ quyền lợi về chính trị và xã hội của
người phụ nữ. Thơng qua những hoạt động đấu tranh chính trị và xã hội, giới nữ địi
lại những lợi ích chính đáng của mình để đạt đến sự bình đẳng với nam giới”. Từ
khóa “Feminism” dịch theo từ điển của Oxford Dictionaries được hiểu là “niềm tin
và mục tiêu của phụ nữ về các quyền và cơ hội như nam giới; những cuộc đấu tranh
đạt được mục tiêu này”.
Phong trào nữ quyền khẳng định tầm quan trọng và sự rộng lớn với nhiều lý
thuyết khác nhau. Những lý thuyết nữ quyền nổi bật cần phải kể đến đó là: lý thuyết
nữ quyền Tự do, lý thuyết nữ quyền Macxit, lý thuyết nữ quyền Cấp tiến, lý thuyết
nữ quyền Hậu hiện đại, lý thuyết nữ quyền Hiện sinh… Ở quyển Triết học Nữ quyền,
Lý thuyết Triết học về công bằng xã hội cho Phụ nữ, Nguyễn Thị Nga đã nêu rất rõ
những điểm cơ bản của hệ thống lý thuyết nữ quyền.


10

Đầu tiên là lý thuyết nữ quyền Tự do, lý thuyết này được hình thành từ thế kỉ
XVIII, chủ yếu tập trung đấu tranh bình đẳng về mặt giáo dục, sau đó tiếp tục đấu
tranh về mặt kinh tế và quyền cơng dân chính đáng cho phụ nữ. Cho đến thế kỉ XX,
lý thuyết này mở rộng phạm vi đấu tranh trên các mặt luật pháp, xã hội… Lý thuyết
nữ quyền Tự do được đánh dấu với tác phẩm A Vindication of the Rights of Woman
của Mary Wollstonecraft và hai tác phẩm: The Feminine Mystique, The second Stage
của Betty Friedan. Lý thuyết nữ quyền Tự do khẳng định quyền bình đẳng và khả
năng trí tuệ thực thụ của phụ nữ. Tuy nhiên, sự bình đẳng với nam giới bị phá vỡ khi
chế độ nam quyền lên ngôi. Đồng thời, phản đối việc gia đình tách bạch khỏi đời sống

chính trị, không thuộc quyền quản lý của nhà nước, khiến phụ nữ bị chèn ép trong
đời sống gia đình. Do đó, phụ nữ bị hạn chế về nhu cầu học tập cũng như công việc
và các chế độ xã hội khác. Họ không được hưởng những quyền lợi như nam giới. Có
thể nói, lý thuyết nữ quyền Tự do đem đến sự tích cực cho phong trào nữ quyền nhưng
vẫn chưa thay đổi triệt để quan điểm giới để tiến tới bình đẳng.
Lý thuyết nữ quyền Macxit cũng có những điểm tương đồng với lý thuyết nữ
quyền Tự do. Lý thuyết này hưởng ứng quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Xuất
phát từ đất nước Canada – một nơi sớm đấu tranh cho bình đằng xã hội. Lý thuyết
này nhấn mạnh yếu tố giai cấp và vật chất ảnh hưởng lớn đến bất bình đẳng về giới.
Lý thuyết nữ quyền Macxit cho thấy phụ nữ trở thành nô lệ ngay cả trong gia đình
lẫn ngồi xã hội. Đồng thời đặt ra quan niệm sự bình đẳng mà người phụ nữ có được
trong gia đình vơ sản lớn hơn trong gia đình tư sản. Nó cho thấy cần xóa bỏ chế độ
tư bản để thành lập chế độ vơ sản, giải phóng giai cấp, nhưng thực tế thì mỗi chế độ
lại có cách bóc lột phụ nữ một cách khác nhau. Kinh tế cũng là yếu tố có tác động
đến mức độ bình đẳng nam nữ trong xã hội. Việc phụ nữ chấp nhận đồng lương rẻ
mạt cũng vì họ chấp nhận hi sinh để chăm lo cho gia đình. Vìthế, giai cấp không phải
là mấu chốt của việc phụ nữ bị tước mất quyền bình đẳng. Việc xóa bỏ chế độ tư bản,
giải phóng giai cấp chưa thể đem lại sự bình đẳng cho phụ nữ. Lý thuyết này có những
mặt hạn chế nhất định. Tuy nhiên, sự tác động mạnh mẽ của lý thuyết nữ quyền
Macxit là không thể phủ nhận. Lý thuyết này mở ra hướng nhìn cho phụ nữ trên toàn


11

cầu, dù họ thuộc giai cấp nào đi chăng nữa. Lý thuyết nữ quyền Macxit chỉ ra được
những gánh nặng mà phụ nữ phải chịu khơng chỉ từ bất bình đẳng giai cấp mà còn từ
áp bức của chế độ nam quyền trong gia đình và ngồi xã hội.
Bên cạnh hai lý thuyết trên thìlý thuyết nữ quyền Cấp tiến cũng có nhiều đóng
góp mạnh mẽ cho sự bình đẳng giới. Từ việc phá vỡ sự bình đẳng về giới, lý thuyết
nữ quyền Cấp tiến kêu gọi xóa bỏ chế độ nam quyền một cách triệt để, giúp nữ giới

tìm lại vị trí xứng đáng của mình. Họ đặc biệt chú trọng đến vấn đề sinh học và xã
hội của phụ nữ, vì chế độ nam quyền đã dựa vào hai yếu tố lớn này đề thống trị giới
nữ. Các nhà nữ quyền cấp tiến khuyến khích phụ nữ thốt khỏi sự bó buộc tình dục
với nam giới và tạo ra sự riêng biệt trong tính dục của bản thân giới nữ. Lý thuyết nữ
quyền Hiện sinh cũng góp mặt vào hành trình đấu tranh cho sự bình đẳng giới với
gương mặt nổi tiếng là S.D.Beauvoir. Nhà nữ quyền người Pháp nhấn mạnh việc xóa
bỏ những định kiến về huyền thoại giới nữ để tiến hành một cuộc cách mạng triệt để.
Phụ nữ là người tự nắm trong tay số phận của họ, vìthế tự giải phóng là sự đấu tranh
lớn nhất mà họ có được. Dựa vào lí thuyết Hiện sinh, các nhà nữ quyền hiện sinh
khẳng định mạnh mẽ vai trị, vị trí của người phụ nữ trong xã hội và khẳng định sự
tự do của phụ nữ.
Tiếp theo, chúng ta phải nhắc đến lý thuyết nữ quyền Hậu hiện đại. Xuất hiện
từ những năm 80 của thế kỉ XX, lý thuyết này phát triển mạnh tại khu vực bắc Mỹ
với những cái tên nổi tiếng: Alice Walker, Grace Paley, Toni Morrison… Các nhà nữ
quyền Hậu hiện đại phủ nhận sự diễn giải theo hướng bản thể luận và tự nhiên. Thậm
chí, họ ủng hộ sự khác biệt trong giới nữ. Họ tiến tới kêu gọi phụ nữ giải phóng cho
chính mình, đem lại sự tự do trong tư tưởng của nữ giới và thoát khỏi những tư tưởng
bóc lột của nam quyền. Họ yêu cầu xem xét lại phạm trù về giới – một trong những
nguyên nhân gây mất bình đẳng giới. Lý thuyết nữ quyền Hậu hiện đại vạch trần
những nền văn hóa đậm sắc thái nam quyền, từ đó vạch ra con đường giải phóng cho
nữ giới.
Ngồi những lý thuyết nữ quyền nêu trên cịn có lý thuyết nữ quyền Phân tâm
học, lý thuyết nữ quyền Chủ nghĩa Xã hội, lý thuyết nữ quyền Da đen… Với số lượng


12

lớn như vậy, chúng ta thấy được nổ lực và sức thuyết phục của việc đấu tranh “bình
đẳng giới” mà các nhà hoạt động nữ quyền mang lại. Hành trình đấu tranh cho sự
bình đẳng của phong trào nữ quyền mang nhiều sắc thái thú vị từ những lý thuyết nữ

quyền khác nhau. Tuy mỗi lý thuyết nữ quyền có những điểm khác biệt nhưng mục
đích cuối cùng vẫn hướng đến sự bình đẳng giới và tìm lại giá trị cho người phụ nữ
trong các mặt của đời sống và xã hội. Khái niệm nữ quyền đi một đoạn đường khá
dài, được định nghĩa trên nhiều loại ngôn ngữ, nhiều cách nhìn khác nhau như thế đã
cho thấy tầm ảnh hưởng rộng lớn của nó.
Trần Hàn Giang trong bài viết “Lịch sử tư tưởng Nữ quyền” nhắc đến việc
“Nhiều tài liệu cho thấy vấn đề nữ quyền bắt đầu được đề cập vào thế kỉ XV, trong
cơng trình khoa học của một phụ nữ Pháp là Christine de Pisan”. Tuy nhiên, đây
mới chỉ là một sự “manh nha” nên chưa đủ sức để khuấy đảo thành một phong trào
rộng lớn. Mặc dù mãi cho đến thế kỉ XVII, vấn đề nữ quyền mới được đẩy mạnh
nhưng vấn đề nữ quyền dần dần đạt đến độ chín mùi cả về lý thuyết lẫn phương hướng
thực hiện. Ngày nay, lý thuyết nữ quyền ln nổ lực tìm kiếm những giải pháp phù
hợp trong cả cách sáng tác và phê bình để tích cực chạy đua cho sự bình đẳng của nữ
giới.
1.1.2. Cách nhìn Nữ quyền trong văn hóa Đơng – Tây
Trước khi nói đến sự khác nhau trong cách nhìn nữ quyền Đơng – Tây, chúng
ta phải thừa nhận rằng có mẫu số chung cho quan niệm về giới nữ trên toàn cầu. Từ
thuở xa xưa, loài người đã phải ghi nhận vai trò của người phụ nữ trong xã hội qua
chế độ mẫu hệ. Sau khi chế độ mẫu hệ bị lật đổ, chế độ nam quyền lên cai trị, thìgiới
nữ đã chịu rất nhiều áp bức ở nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống xã hội. Nếu
Khổng Tử cho rằng nữ nhi là loại tiểu nhi khó dạy bảo, thì Aristole cũng cho rằng nữ
giới thấp kém hơn nam giới. Phụ nữ trong quan niệm của các tôn giáo khác nhau, của
những nền văn hóa khác nhau hầu như được xem là mầm mống của tội lỗi. Eva chính
là ngọn nguồn của sự cám dỗ khi thành công thuyết phục Adam ăn trái cấm ở vườn
Địa đàng trong Kinh thánh. Ở Thần thoại Hi lạp, Poseidon đã xâm hại Medusa nhưng
nữ thần Athena lại tức giận, biến Medusa với một mái tóc đầy rắn và trở thành quỷ


13


dữ vì dụ dỗ Poseidon. Như vậy, chẳng phải người đàn ơng cũng mắc sai lầm nhưng
chỉ có phụ nữ trở thành mầm mống của tội lỗi và chịu phạt đấy sao. Đây cũng là một
thành kiến nghiêm trọng dẫn đến sự bất bình đẳng về giới.
Phong trào nữ quyền cho thấy các mặt đa dạng của một phong trào rộng lớn.
Nhiều nhà nghiên cứu lại đồng nhất hoặc đưa một lý thuyết nữ quyền nào đó để tìm
hiểu một cách cứng nhắc thìviệc nghiên cứu khơng mang lại hiệu quả. Chúng ta nhìn
thấy được những góc độ khác nhau của sự áp bức mà chế độ nam quyền đã đặt ra. Vì
thế, ta nên nhìn nhận những nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự bất bình đẳng giới ở
từng vùng địa lí, văn hóa để có hướng giải quyết phù hợp. Chỉ có như vậy thì con
đường đấu tranh nữ quyền mới đi đúng hướng, phát triển mạnh mẽ và giành được
thắng lợi. Lý thuyết nữ quyền đã tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc cho phong trào
nữ quyền trong đời sống và văn học. Lý thuyết nữ quyền Hậu hiện đại ảnh hưởng đến
suy nghĩ mở về phong trào nữ quyền. Họ nhấn mạnh việc đề cao sự khác biệt giữa
những người phụ nữ. Bởi vì, chính phụ nữ cũng có những cách cảm nhận khác nhau
tùy thuộc vào văn hóa hay giai cấp của họ. Vấn đề nữ quyền ở phương Đơng và
phương Tây cũng có những điểm khác nhau, dù mục đích chung của phong trào nữ
quyền đều hướng về sự bình đẳng giới tính và đòi quyền tự do cho giới nữ.
Một trong những sự khác nhau của việc đấu tranh nữ quyền ở phương Đơng
và phương Tây là vấn đề chính trị. Bằng chứng là số lượng nữ giới gia nhập vào vấn
đề chính trị ở phương Tây khá lớn trong khi đó ở phương Đơng ít hơn nhiều. Năm
1906, Phần Lan khai mở bầu cử, giới nữ được tham gia bầu cử bình đẳng như nam
giới. Thụy Điển là nước cơng nhận quyền bỏ phiếu của phụ nữ từ năm 1921 – cột
mốc thời gian khá sớm. Nữ giới các nước phương Tây tích cực tham gia chính trị và
các hoạt động xã hội để tự khẳng định giá trị của bản thân mình một cách quyết liệt.
Trong khi đó, việc chạy đua trong con đường chính trị của nữ giới phương Đơng lại
chậm hơn và diễn ra với số lượng thấp.
Ngồi ra, người phương Tây thường có khả năng phân tích tốt. Vì thế, người
phụ nữ phương Tây thường nâng tầm cái tơi riêng khơng hịa lẫn vào ai. Trong khi
đó, phụ nữ phương Đơng lại sống hài hịa với cộng đồng trong nền văn hóa nơng



14

nghiệp nên thường giỏi sức chịu đựng. Phụ nữ phương Tây khi bị phản bội thường
có thể độc lập li dị và sẵn sàng với hành trình của bà mẹ đơn thân. Hình ảnh người
mẹ đơn thân xuất hiện nhiều trong xã hội phương Tây, nữ giới khá tự tin về vai trò
vừa làm cha, vừa làm mẹ của họ. Nữ giới phương Tây sau khi tan vỡ trong vấn đề
hơn nhân thì đa số có thể tự tin, mạnh mẽ để tìm kiếm tình yêu mới. Điều này ở
phương Đơng cũng có, nhưng nó diễn ra yếu hơn nhiều. Phần lớn phụ nữ phương
Đông được giáo dục để phục tùng người chồng, chấp nhận hi sinh sự nghiệp để lùi
về làm hậu thuẫn cho gia đình. Khi họ gặp phải cuộc hơn nhân tan vỡ thì dễ dàng
đuối sức vì khơng tự chủ về mặt tài chính. Mặc dù đây hồn tồn khơng phải là sự
khác biệt vìcó những trường hợp tương tự giữa phương Đông và phương Tây, nhưng
xét về độ phổ biến thì rõ ràng người phụ nữ phương Tây vẫn đang độc lập hơn người
phụ nữ ở phương Đông. Nữ giới phương Đông không hẳn phải làm được những điều
nam giới làm được thì mới cảm thấy hạnh phúc. Trong khi phụ nữ phương Tây đánh
giá cao vấn đề trên. Phụ nữ phương Đông đa phần cảm thấy hạnh phúc khi họ được
tự do thể hiện tính nữ.
Ngồi những sự chênh lệch trên thìcịn có một sự khác biệt khá lớn trong quan
niệm về “trinh tiết” giữa phụ nữ phương Đông và phương Tây. Xã hội phương Đông
đặt nặng vấn đề “trinh tiết” hơn xã hội phương Tây. Ngày nay, Phương Đơng vẫn cịn
xem “chữ trinh đáng giá ngàn vàng”, nếu nữ giới làm mất cái ngàn vàng ấy đi thì khó
có thể lấy chồng. Tập tục cưới xin của nhiều gia đình ở Việt Nam vẫn giữ hình thức
rước dâu “đi cửa sau” hoặc “trèo tường” vào nhà. Nữ giới không được tôn trọng cho
đi cửa chính nếu có thai trước khi cưới. Nhiều cơ gái ở Ấn Độ bị xâm hại cịn có thể
bị cả làng thiêu chết. Quan niệm về trinh tiết đã từng khiến cho nữ giới trong lịch sử
phải chịu nhiều uất ức. Điều này thúc đẩy phong trào nữ quyền đấu tranh về mặt “tự
do tính dục” mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Ngoài ra, sự khác biệt rõ nét mà chúng ta nhận thấy còn nằm ở vấn đề xuất
phát. Giới nữ phương Tây bắt đầu xây dựng lý thuyết nữ quyền sớm hơn ở phương

Đơng. Nó được thể hiện rõ trong lịch sử hình thành lý thuyết nữ quyền trên thế giới.


15

Trong bài viết “Lý thuyết nữ quyền Hậu hiện đại”, Vũ Thị Minh Thắng đã nhắc đến
cái nhìn nữ quyền giữa Đông và Tây như sau:
“Ở các nước phương Tây, công bằng xã hội tập trung vào vấn đề thu nhập,
khả năng thăng tiến sự nghiệp, quyền tự do thiên hướng tình dục và đặc biệt
là tiếp cận các nguồn phúc lợi xã hội. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia Nam Á ,
việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và đảm bảo chăm sóc y tế cơ bản lại là một
trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu” [tr 132].
Việc nhìn nhận sự khác biệt này dựa trên hiện thực về các khía cạnh kinh tế,
văn hóa, xã hội là rất xác đáng. Đây cũng là một điểm đáng ghi nhận giúp phong trào
nữ quyền ở phương Tây và phương Đơng tìm thấy con đường phù hợp cho đấu tranh
vìnữ giới.
Như vậy, tùy vào mỗi vùng văn hóa, địa lý, kinh tế, chính trị xã hội mà cách
nhìn nữ quyền phương Đơng và phương Tây cũng có những điểm khác nhau. Dựa
trên những điểm khác nhau mà phong trào nữ quyền, lý thuyết nữ quyền và văn học
nữ quyền của mỗi vùng văn hóa lại có cách đấu tranh riêng. Tuy nhiên, những sự
khác biệt không làm chia rẽ sự đoàn kết của phong trào đấu tranh nữ quyền trên toàn
cầu.
1.2. Bối cảnh xã hội ảnh hưởng đến vấn đề Nữ quyền
1.2.1. Bối cảnh xã hội và ảnh hưởng vấn đề Nữ quyền trên thế giới
Câu hỏi mà loài người hay đặt ra về giống loài có lẽ là “tại sao có giới nam và
giới nữ”. Vậy chúng ta sẽ trả lời cho câu hỏi đó như thế nào? Theo quan điểm riêng
của người viết thìviệc có giới nam và giới nữ là do sự bình đẳng của tạo hóa. Cả hai
giới đều góp phần tạo nên sự sinh sơi nảy nở và duy trìsự tồn tại của lồi người. Thử
đặt ra câu hỏi, có thể thiếu một trong hai giới này được không? Câu trả lời chắc chắn
sẽ là không. Nữ giới và nam giới vốn có vai trị bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, sự

cân bằng đó đã bị phá vỡ. Vì thế, sự đấu tranh cho bình đẳng giới là điều bắt buộc
phải diễn ra. Từ nhiều lído khác nhau mà giới nữ trong xã hội ngày nay mất đi vị thế
cân bằng so với với nam giới.


16

Vào giai đoạn lịch sử thời kì đồ đá, nữ giới có những đóng góp quan trọng
trong việc trồng trọt, chăm sóc gia đình cho nên họ rất được tơn vinh. Chế độ mẫu hệ
được kéo dài từ khoảng 6000 đến 4000 năm trước Công nguyên. Việc ngành nghề
dệt vải ra đời giúp tăng kinh tế trong gia đình và bàn tay làm nên sản phẩm chính là
người phụ nữ. Ngồi ra, họ cịn đảm nhận vai trị quan trọng ở việc dạy dỗ con cái
trong khi nam giới lại chủ yếu đi săn bắt ở bên ngoài. Từ vai trị trọng yếu đó, xã hội
nâng tầm vị thế của người phụ nữ. Nhưng sau thời kì ấy, người đàn ông không còn
dành nhiều thời gian đi săn bắt bên ngồi, họ có thể chuyển sang chăn ni ở nhà hay
phát triển việc trồng trọt và dạy bảo con cái. Người đàn ơng góp phần thúc đẩy kinh
tế gia đình phát triển và song song với nó là sự địi hỏi quyền lực chính trong nhà. Có
nhiều ngun nhân khác khiến cho chế độ phụ quyền thay thế chế độ mẫu quyền. Cho
đến nay, chúng ta vẫn cịn phải tìm hiểu về nó, nhưng chắc chắn trong đó có một phần
“sắp đặt” từ chế độ nam quyền.
Tôn giáo và văn hóa cũng là hai giá trị tinh thần có ảnh hưởng sâu sắc đến
quan niệm về giới nữ trong xã hội. Một trong những tơn giáo có quan niệm rất hà
khắc với người phụ nữ là Hồi giáo. Những người đàn ơng đạo Hồi ln giữ vị trí tối
thượng trong gia đình. Nam giới sẽ nắm mọi quyền hành và có quyền quyết định thân
phận của người phụ nữ, kể cả việc gả hoặc bán họ. Nữ giới cùng chung cảnh đa thê,
phục tùng chồng như một vị chúa và khơng có quyền tự quyết về số phận của mình.
Họ còn phải chịu rất nhiều thiệt thòi về mặt y tế, giáo dục, sở hữu… Thân phận của
người phụ nữ trong đạo Hồi luôn bị hạn chế, nhiều luật lệ hà khắc đặt ra nhằm ngăn
cản một cách vô lý các quyền cơ bản của nữ giới. Cho đến nay, những tập tục hà khắc
và tàn nhẫn mà phụ nữ Hồi giáo phải gánh chịu vẫn còn tồn tại. Hơn thế, Hồi giáo

đang có sự phát triển với số lượng gia tăng nhanh chóng, sốn ngơi cả Kitơ giáo cho
nên những luật lệ hà khắc đối với phụ nữ vẫn là một điều rất đáng quan ngại.
Kitơ giáo khi nói đến việc hình thành người đàn bà cũng có phần thiên vị
nghiêng về người đàn ông. Thiên chúa tạo nên người phụ nữ từ chiếc xương sườn của
người đàn ông được ghi rất rõ trong Kinh thánh. Nhiều giả thiết cho rằng người phụ
nữ cũng chỉ được tạo từ người đàn ông và đến sau người đàn ông nên vị thế phải thấp


17

hơn, họ dựa vào cớ đó để hạ thấp người phụ nữ. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ Kinh thánh thì
chúng ta thấy rằng ý nghĩa của câu chuyện khởi tạo người phụ nữ lại ngầm khẳng
định sự quan trọng của họ trong Kinh thánh. Người đàn bà bị Chúa trách phạt, người
đàn ơng cũng như thế. Sự lí giải người nữ trong Kinh thánh có giá trị thấp hơn đàn
ơng vì được tạo nên từ xương sườn của đàn ơng là khơng thỏa đáng. Ngược lại, điều
đó dường như lại nhấn mạnh thân phận của người đàn ông cũng như người đàn bà,
phải trân trọng và không thể tách rời nhau. Vậy, đa số chúng ta chỉ đọc một chi tiết
mà bỏ qua nhiều chi tiết cũng như cố tình hiểu theo một phía, kéo theo sự hiểu sai về
ý nghĩa của người phụ nữ. Phật giáo lại khá trung lập khi nói đến người phụ nữ trong
xã hội, tuy nhiên vẫn có những quan niệm ngầm coi phụ nữ là mầm mống của tội lỗi,
điều này có phần giống với Kitơ giáo. Những người tìm kiếm sự giải thốt nơi Đức
Phật là giới nữ cũng phải chịu nhiều quy tắc hơn giới nam.
Ba tôn giáo lớn được nêu trên tuy có những khía cạnh hạ thấp thân phận người
phụ nữ nhưng cũng khẳng định sự cần thiết của người phụ nữ trong gia đình. Tơn
giáo khơng hồn tồn hạ thấp người phụ nữ mà vẫn cho thấy giá trị quan trọng của
nữ giới trong đời sống thường ngày. Kitô giáo xem đức mẹ Maria là hình mẫu của
người mẹ chuẩn mực trong gia đình, rất nhiều người tìm đến mẹ Maria để cầu nguyện.
Phật giáo khẳng định vị trí của người mẹ trong gia đình là rất quan trọng, tơn giáo
này ln có những bài thuyết giảng về mẹ. Các tín đồ Phật giáo cũng dành niềm tin
nơi Phật bà Quan  m và sốt sắng cầu nguyện. Hồi giáo hạn chế quyền của người phụ

nữ nhưng cũng khẳng định vai trị khơng thể thiếu của người phụ nữ trong gia đình.
Phụ nữ cũng có những vai trị quan trọng nhất định trong tơn giáo này. Ngồi các tơn
giáo lớn trên, cịn có nhiều tơn giáo tơn thờ các vị nữ thần như: Bà La Môn, Linh Sơn
thánh mẫu, Nữ thần Mặt trời và các thánh mẫu khác nhau của mỗi vùng trên thế giới.
Tôn giáo đã đi một đoạn đường rất dài trong đời sống tâm linh của con người và đem
theo nhiều quan niệm về người phụ nữ. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về giá
trị của người phụ nữ nhưng nhìn chung tơn giáo vừa dành sự ưu ái cho nữ giới, đồng
thời tạo nên những rào cản để giới nữ có thể thức tỉnh và đấu tranh cho chính mình.


18

Ngồi ảnh hưởng của tơn giáo thì vị trí của người phụ nữ trong xã hội bị ảnh
hưởng rất lớn từ sau khi chế độ phụ quyền thay thế chế độ mẫu quyền trên thế giới.
Phụ nữ bị hạn chế tham gia vào vấn đề chính trị, ngoại giao… ở nhiều nơi trên thế
giới. Phụ nữ không được tự quyết vấn đề hôn nhân mà phụ thuộc vào người đàn ơng
có quyền trong gia đình. Vấn đề này thường xuất hiện nhiều trong văn học thế giới.
Phụ nữ ở khắp nơi gặp phải một vấn đề chung đó là lao động với công sức ngang
bằng người đàn ông nhưng lại không được trả công bằng người đàn ông. Phụ nữ bị
hạn chế đến trường, họ phải gánh vác việc nuôi dạy con cái kể cả phần của một người
cha mà khơng có sự san sẻ xứng đáng. Cho đến thời điểm hiện tại, việc trẻ em dưới
tuổi vị thành niên phải kết hôn vẫn diễn ra hằng ngày ở các nước Trung Đơng và
nhiều nơi khác. Tình trạng các em bé gái bị xâm hại và bị bạo hành, kìm hãm về mặt
tinh thần vẫn diễn ra từng ngày từng giờ trên tồn cầu. Sự bất bình đẳng giới kéo dài
như thế làm cho giá trị tự nhiên của loài người – bình đẳng giữa nam và nữ khơng
cân bằng. Vì vậy, phụ nữ phải tự tìm con đường giải phóng tự do, bình đẳng cho
chính họ.
Song song với sự kìm hãm thân phận của nữ giới là cuộc đấu tranh âm thầm
từ nhiều khía cạnh và đối tượng khác nhau. Phụ nữ cịn có xu hướng đấu tranh cho
những người phụ nữ khác. Một người cha sẽ sẵn sàng đấu tranh cho con gái của mình

nếu đứa con ấy bị xâm hại. Điều chúng ta phải đặc biệt chú ý là việc đấu tranh cho
nữ giới khơng chỉ có tiếng nói của phụ nữ mà cịn có sự lên tiếng của nam giới. Số
lượng tham gia đấu tranh cho nữ giới từ trước thế kỉ XVII rất thấp. Hầu như việc đấu
tranh chỉ mang tính chất cá nhân, nhỏ lẻ và rải rác. Sự đấu tranh ấy chỉ là những cơn
bùng phát dữ dội của những cá nhân hoặc tập thể nhỏ nhưng cũng mau chóng bị dập
tắt vì thế lực của chế độ nam quyền quá lớn. Cộng hưởng với sự tác động của tơn
giáo và văn hóa, chế độ nam quyền đã từng bước phá vỡ sự bình đẳng về giới. Chúng
ta muốn làm sống lại sự bình đẳng giới thì phải có sự đấu tranh mạnh mẽ từ phía nữ
giới và sự ủng hộ, cộng tác đấu tranh hết lịng từ phía nam giới.
Xuất phát từ những yếu tố đó, thế kỉ XVIII bắt đầu bùng nổ mạnh mẽ các cuộc
đấu tranh cho phụ nữ, vìsức chịu đựng và sự chèn ép đối với giới nữ đã vượt quá giới


19

hạn. Sự xúc phạm mà phụ nữ gánh chịu có khi trùng khớp với sự xúc phạm về nhân
quyền. Xem xét kĩ, chẳng phải việc không cho giới nữ đi học là vi phạm đến quyền
học tập của con người đó sao? Chẳng phải việc cấm phụ nữ tham gia chính trị, tự do
kết hơn… là vi phạm quyền làm việc và quyền sống của con người đó sao? Cho nên,
các cuộc đấu tranh nữ quyền diễn ra trên thế giới được xem là một điều tất yếu sẽ xảy
ra trong lịch sử loài người. Phong trào nữ quyền do đó cũng là một phong trào chính
đáng đấu tranh cho quyền cơ bản của phụ nữ, của con người.
Đánh dấu bước ngoặc to lớn của phong trào nữ quyền là sự đấu tranh chia làm
ba giai đoạn: Giai đoạn 1 từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XX, đây là giai đoạn
làm dấy lên tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của giới nữ. Nữ quyền nổi lên ở Pháp, với
sự tham gia của nhiều nhà nữ quyền. Trong đó, bà Marie –Olympe de Rouges là người
có tầm ảnh hưởng lớn nhất cho giai đoạn đầu tiên. Giai đoạn 2 khơng dài lắm nhưng
đem lại nhiều chiều hướng tích cực cho đấu tranh nữ quyền. Từ giữa thế kỉ XX đến
năm 1980, không chỉ ở Pháp mà các khu vực bắc Mĩ, tây Âu cũng đã tham gia đường
đua đấu tranh quyết liệt. Giai đoạn này đánh dấu thời khắc quan trọng cho sự trở lại

của nữ quyền khi mọi mặt đời sống đều được phơi bày để tìm lại sự tự do, bình đẳng
cho nữ giới. Hai tổ chức nữ quyền là phong trào Giải phóng Phụ nữ ở Pháp và Tổ
chức Quốc gia vì Phụ nữ ở Mĩ đã cho thấy thành quả tích cực mà cuộc đấu tranh nữ
quyền đem lại. Giai đoạn 3 từ năm 1980 đến nay càng đẩy mạnh phong trào nữ quyền
phát triển tồn diện. Tuy nhiên, hiện tại có nhiều vấn đề nan giải vẫn chưa được tháo
gỡ. Nếu chỉ một vài nước phát triển quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới vẫn chưa đủ
để tạo sức mạnh giải phóng sự mất bình đẳng của nữ giới trên tồn cầu. Những đóng
góp to lớn của ba giai đoạn đấu tranh nữ quyền đem lại nhiều tích cực, đồng thời cho
thấy đấu tranh nữ quyền là một cuộc đấu tranh không hề dễ dàng.
Các cuộc đấu tranh nữ quyền đã ảnh hưởng đến triết học, văn học, văn hóa và
rất nhiều ngành khoa học khác. Với tính chất đặc biệt là phản ánh xã hội, văn học đã
ủng hộ phong trào này như một lẽ đương nhiên. Văn học còn là tiếng nói giúp cho
phong trào nữ quyền trên thế giới có thể lan rộng. Nó cịn là một hình thức đấu tranh
văn minh và đầy tri thức của nữ giới. Hơn nữa, những tục lệ hà khắc gán ghép vào


×