BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Nguyễn Hạnh Thảo
TÍNH CHẤT TRIẾT LUẬN
TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN KHẢI,
THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được truyền trao ý tưởng và cảm hứng ban đầu từ PGS.TS Nguyễn Thành Thi. Nhờ
sự hướng dẫn quý báu, chỉ bảo tận tình của thầy cùng sự đóng góp ý kiến của các Giáo sư - Tiến
sĩ phản biện đã giúp em hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô Khoa Ngữ Văn đã hết lòng dạy dỗ và sự giúp đỡ của Phòng
Sau Đại học.
Người thực hiện.
DẪN NHẬP
1. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Một nền văn học không bắt rễ từ một nền tảng triết học cơ bản thì sẽ đi đến chỗ thiếu khám phá,
thiếu chiều sâu tư tưởng. Nó sẽ không sản sinh ra nhiều tài năng. Triết luận - thế sự về cái ngày hôm
nay đang từng ngày từng giờ thay đổi. Thế giới của cái ngày hôm nay biến ảo đa đoan, và cõi nội tâm
của con người cũng tràn ngậ
p những khoảng tối sáng lẫn lộn. Đi theo hướng này, nhà văn đã khước từ
việc hòa mình vào dòng chảy tuôn trào của cái tôi cảm xúc để có một cái nhìn tỉnh táo trước những
mâu thuẫn, xung đột và giằng xé của thời đại và trong tâm tư tình cảm con người.
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải là một công cuộc khám phá những vấn đề của cuộc sống
và con người Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc v
ĩ đại và trong công cuộc xây dựng, kiến tạo
một xã hội mới. Nguyễn Khải đã kiên trì mở đường khám phá, giải quyết những vấn đề xã hội chính trị
và càng về sau càng hướng tới vấn đề của đời sống nhân sinh với giọng văn ngày càng nghiêng về suy
ngẫm, triết luận. Tác phẩm của ông luôn đạt tới một tầm tư tưởng, khái quát cao thông qua hình thức
nghệ thuật đặc sắ
c, biến hóa. Mục đích của đề tài là nghiên cứu các đặc điểm triết luận trong văn xuôi
của nhà văn Nguyễn Khải. Những đặc điểm này giúp nhận thức, đánh giá đúng hơn về phong cách
nghệ thuật, nhìn nhận thỏa đáng hơn về sở trường sở đoản của ngòi bút Nguyễn Khải. Thêm vào đó nó
còn cho thấy quá trình phát triển của một tài năng từ chặ
ng đường đầu của sự nghiệp đến sự trưởng
thành chín chắn của một cây bút hiện thực cách mạng sắc sảo. Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài góp phần tìm
hiểu toàn diện hơn cảm hứng triết luận được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ quá trình sáng tác của
nhà văn như một phong cách độc đáo riêng. Tư tưởng triết luận ấy cũng liên tục vận độ
ng, vượt qua
những lối mòn, hạn chế của chính mình rất đáng để chúng ta nghiên cứu, bàn luận. Ngoài ra việc
nghiên cứu chất triết luận trong các sáng tác của ông cũng giúp ta có những định hướng trong việc dạy-
học tác phẩm của ông trong nhà trường tốt hơn. Vì vậy, đề tài luận văn sẽ góp phần tìm hiểu những tư
tưởng triết luận trong các tác phẩm của Nguyễn Khải để thấu hiểu chân dung con ng
ười thời hiện đại.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Thạch Lam từng đánh giá về nền văn học Việt Nam là "Cái mà chúng ta thiếu nhất, ấy là sự sâu
sắc". Đó là chiều sâu cảm hứng triết luận trong văn học. Năm 1977 với bài Nhìn lại một chặng đường
tiểu thuyết, Nguyễn Văn Long đã phát hiện ra Nguyễn Khải là người mở ra một khuynh hướng mới –
đó là khuynh hướng tiểu thuyết triết luận. Ông nêu lên các tiêu chí để nh
ận diện. Một là căn cứ vào nội
dung có thể đặt tên cho các sáng tác của Nguyễn Khải là thể loại thời sự luận đề. Hai là để phục vụ mục
đích luận đề, nhà văn không chú trọng khắc họa tính cách nhân vật mà thường phân tích nhân vật của
mình như một nhà khoa học phân tích đối tượng nghiên cứu. Ba là tuy cùng đi theo một khuynh hướng
nhưng ở mỗi tác phẩm nhà văn đều có sự thay đổi nhất định về cách viết. Năm 1985, trong bài Về một
xu hướng tiểu thuyết đang phát triển, Nguyễn Đăng Mạnh cũng xem Nguyễn Khải là cây bút mở ra
xu hướ
ng tiểu thuyết chính luận-triết luận “riêng Nguyễn Khải thì từ lâu đã viết theo hướng này. Bây
giờ anh vẫn tiếp tục viết như thế. Càng ngày càng như thế” [93]. Sau đó thì khái niệm "triết luận"
được dùng rộng rãi trong các bài nghiên cứu, phê bình các tác phẩm của Nguyễn Khải cũng như
khuynh hướng phong cách của Nguyễn Khải.
Đào Thủy Nguyên nhận định:" Nghiêng về tư tưởng - đó là nét đặc sắc riêng c
ủa Nguyễn Khải.
Nhưng mặt khác, cũng do thế nên thế giới nhân vật của Nguyễn Khải lại có phần nhẹ đi, nhạt đi về tính
cách. Chúng tôi muốn xem đó là đặc điểm đồng thời là nhược điểm. Vì sự kết hợp giữa những nhân vật
tính cách, theo ý chúng tôi, đó mới là con đường đạt được độ cao và sâu của hiện thực" [104].
Theo luận văn nghiên cứ
u Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Khải của Trần Văn Phương: Nội dung
các sáng tác của Nguyễn Khải là một sự tổng hợp nhiều yếu tố bao hàm cả chính luận và triết luận lẫn
miêu tả, thuật kể. Yếu tố chính luận thể hiện ở việc vận dụng các thao tác của tư duy chính luận vào tư
duy tiểu thuyết: đề cập tr
ực tiếp đến những vấn đề chính trị xã hội nóng bỏng được đặt ra trong thực
tiễn đời sống, và nhà văn tham gia vào giải quyết những vấn đề đó với tư cách một nhà hoạt động xã
hội, một nhà tư tưởng. Phương pháp luận của nó là đưa ra những luận điểm, luận cứ vững chắc nhằm lí
giải, biện minh cho tính đúng đắn, khoa học c
ủa vấn đề nhà văn đặt ra trong tác phẩm của mình. Còn
yếu tố triết luận được thể hiện ở cảm hứng khai thác các chiều sâu triết lí của hiện thực đời sống (bao
gồm tất cả những khái quát triết lí được đúc rút ra từ những chiêm nghiệm về mọi mặt của đời sống
nhân sinh). Mặt khác, lối tiếp cận hiện thực cuộc sống từ
nhiều chiều, từ nhiều phía để đi tới một cái
nhìn toàn diện cũng có thể xem là lối tiếp cận chịu ảnh hưởng của tư duy triết học. Tuy nhiên, nếu xét
đến cùng thì không có một cuốn tiểu thuyết nào không có sự gợi ý, hoặc sự bắt nguồn từ một cơ sở triết
học nào đó. Song rõ ràng mật độ xuất hiện ngày càng đậm đặc những yếu tố chính lu
ận, triết luận trong
sáng tác Nguyễn Khải đã đem lại những khoái cảm trí tuệ thẩm mĩ cho người đọc. Với Nguyễn Khải
chính luận thường gắn liền với triết luận.
Các bài phê bình, nghiên cứu về tác giả, tác phẩm Nguyễn Khải đã nhận định, lí giải về chất triết
luận trong sáng tác và quá trình hình thành khuynh hướng này của ông một cách sâu sắc. Các ý kiến
thường tập trung vào hai trọng tâm: sáng tác củ
a Nguyễn Khải có sự song hành với thời hiện tại – “cái
hôm nay” và chuyển hóa dần từ chính luận sang triết luận.
2.1. Những tác phẩm song hành cùng “cái hôm nay” của cuộc sống
Lịch sử văn học đã in đậm dấu ấn của nhà văn vì tất cả những chuyển động bão táp, phức tạp,
trăn trở của số phận đất nước và nhân dân sẽ được tìm thấy và đọc lại nhiều nhất, sâu nhất trong
Nguyễn Khải. Trong cuốn Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại (từ sau 1945) của Chu Nga, bà đ
ã đánh
giá rất cao tính hiện thực trong những tác phẩm của Nguyễn Khải viết về nông thôn, đồng thời khẳng
định ngòi bút của tác giả "thông minh, sâu sắc, giàu tính chiến đấu, (...), luôn có sự đòi hỏi cao với bản
thân và đối với mọi người" [14].
Sáu năm sau đó, Phan Cự Đệ tiếp tục viết về Nguyễn Khải trong Nhà văn Việt Nam 1945-1975
(tập 2). Bài viết bao quát một khối l
ượng tác phẩm lớn của nhà văn sáng tác trong vòng 30 năm và 20
bài nghiên cứu có giá trị về tác phẩm Nguyễn Khải. Ông nhấn mạnh: "Với một ngòi bút hiện thực tỉnh
táo, Nguyễn Khải luôn luôn xông thẳng vào những mâu thuẫn địch ta và mâu thuẫn nội bộ nhân dân
trong xã hội, những xung đột giữa các tính cách, những đấu tranh giằng xé trong tâm tư tình cảm của
mỗi con người"... Đấy là phong cách độc đáo của tác giả khác xa với "những phong cách hi
ện thực tỉnh
táo trong văn học hiện thực phê phán"[14].
Lê Thanh Nghị thì thích thú với cái hiện thực đầy sắc bén được Nguyễn Khải thể hiện rất độc
đáo trong các tác phẩm:“Một số lượng trang viết ít, hướng vào một vấn đề sâu sắc của cuộc sống, có
khi lại trở thành thứ vũ khí sắc bén hơn cả trong tay người đọc.” [102].
Khi lí giải về chất chính luậ
n, triết luận đậm đặc trong sáng tác mà về sau thực sự trở thành
phong cách của nhà văn Nguyễn Khải, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng:“Trong định hướng
tinh thần của xã hội ta từ 1945 tới nay, nếu có khía cạnh nào nổi lên đặc biệt rõ rệt thì đó là sự xâm
nhập của chính trị vào đời sống bình thường mỗi người, khiến cách suy nghĩ của bất cứ ai cũng trở nên
sắc bén hơn hẳ
n. Các vấn đề xã hội chính trị là đầu đề để chúng ta bàn bạc, sự lợi hại về chính trị là
tiêu chuẩn chính để xem xét mối quan hệ giữa người với người.”. Và ông đã làm một phép so sánh thú
vị giữa Nguyễn Khải và Nam Cao:“Trước đây mấy chục năm, trong sự tẻ nhạt đều đều của một xã hội
thuộc địa, một ngòi bút như Nam Cao có triết lí, thì cũng là nhân những chuyệ
n cụ thể trong mối quan
hệ giữa người với người mà khái quát lên. Nam Cao hay nói sự no đói ảnh hưởng đến tâm lí con người
ra sao, cái nghèo có thể làm nhân cách con người thay đổi đến đâu. Mỗi mệnh đề triết lí của Nam Cao
thường ngắn gọn, đôi khi như là những điều nghiền ngẫm quá lâu, im đi không đành nên phải buột ra,
sự suy nghĩ mang dáng dấp một lời tự nhủ hoặc một lời chì chi
ết, đay nghiến. Nay ở Nguyễn Khải,
không riêng tác giả mà các nhân vật cũng hay nói, thích nói, người nọ đối diện với người kia, đồng
tình, phản bác nhau; xét nét, "gí điện" nhau.” [108]. Đến cuối năm 1996 Tuyển tập Nguyễn Khải ra
đời do Vương Trí Nhàn tuyển chọn đã đặt Nguyễn Khải vào trong tiến trình văn học Cách mạng qua
nửa thế kỉ với những biến động dữ dội của lịch sử, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn kết luận: "Ông là
một trong những nhà dẫn đầu của thời đại. Với cuộc Cách mạng này, những năm tháng đấu tranh gian
khổ này, tác phẩm của ông là một bằng chứng một tài liệ
u tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người
thời đại với tất cả những cái hay cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần
của họ, phải đọc Nguyễn Khải" [106].
Để thay lời tổng kết cho văn nghiệp của Nguyễn Khải với tất cả niềm cảm kích, nhà văn Nguyên
Ngọc đã viết
:“Trước hết, tôi muốn nói điều này: Đấy là người tài năng nhất trong thế hệ của chúng
tôi, thế hệ những người cầm bút vậy mà hóa ra vắt qua cả mấy thời kì lịch sử quan trọng: một chút thời
Pháp thuộc, đầy đủ Cách mạng Tháng Tám, đẫm mình trong hai cuộc chiến tranh lớn, và cả hòa bình
nữa (…) các bước đường tư tưởng và sáng tác của Nguyễn Khải. Theo tôi, đấy là con đường rất tiêu
biểu c
ủa chuyển động văn học ta suốt một thời kì lịch sử dài và không hề đơn giản, dễ dàng, tiêu biểu
nhất là ở Nguyễn Khải, chính vì đấy đúng là cái tạng của anh và cũng vì anh là người tài năng nhất,
cũng trung thực nhất với chính mình.” [86].
2.2 Chuyển hóa từ chính luận sang triết luận
Đầu những năm 80 đánh dấu bước chuyển mạnh của văn xuôi nói chung từ việc ph
ản ánh những
năm tháng chiến tranh sang cuộc sống thời bình với những vấn đề nổi lên là gia đình, tình yêu, những
vấn đề thế sự - đạo đức hướng vào các giá trị nhân bản, mạnh dạn đề xuất những chuẩn mực đạo đức
mới phù hợp với thời đại. Là một trong những nhà văn tiên phong của phong trào đổi mới, Nguyễn
Khải viết rất sung sức và dườ
ng như văn ông càng có duyên và thu hút người đọc hơn trước. Tác phẩm
của ông lúc đầu giàu tính chính luận thời sự, khám phá những vấn đề xã hội - chính trị nổi lên trong
từng thời điểm cụ thể của đời sống, càng về sau (nhất là các sáng tác sau 1978 của ông) càng có thiên
hướng vươn tới những khái quát triết lí về đời sống. Rất nhiều cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Khải thu
hút sự chú ý trong các năm này nh
ư Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Thượng đế thì cười. Sự
vận động trong khuynh hướng sáng tác của Nguyễn Khải chuyển dịch từ chính luận tới triết luận: giai
đoạn đầu nó mới dừng lại ở những vấn đề cấp thiết của lợi ích Cách mạng, lợi ích cộng đồng mà chưa
vươn tới những vấn đề
có tính quy luật cuộc sống vĩnh cửu. Sự phát hiện vấn đề của tác giả cũng xuất
phát chủ yếu từ yêu cầu công tác tư tưởng mang đậm tinh thần giáo huấn (đánh giá các hiện tượng đời
sống theo lập trường quan điểm chính trị - đạo đức Cách mạng). Đến giai đoạn sau tuy vẫn gắn bó với
thời sự chính trị nhưng nó còn gắn với cá nhân, nó hướng vào nhữ
ng cuộc đối thoại tư tưởng để giải
quyết những vấn đề vĩnh cửu của đời sống con người. Từ Cha và con và... đến Một cõi nhân gian bé
tí: sáu cuốn tiểu thuyết ra đời liên tiếp trong một thập kỉ đã chứng minh cho kết luận của A.Guluga:
"Nghệ thuật trong thời đại khoa học đặc biệt quan tâm đến triết học, nó sáp gần và đôi khi hòa lẫn với
triết học" [1].
Cùng chung những suy nghĩ ấy, năm 1998 Nguyễn Thị Bình khẳng định:“Nguyễn Khải ngày
càng định hình một phong cách văn xuôi triết luận. Trước đây ông thiên v
ề chính luận và triết lí xung
quanh các vấn đề chính trị (…) nên văn ông trí tuệ mà hơi khô khan (…). Giai đoạn sau này, Nguyễn
Khải hướng sự chú ý vào các vấn đề thế sự nhân sinh (…) văn phong ông chuyển từ chính luận sang
triết luận và năng lực hiểu lòng người, năng lực phân tích đã khiến cho nhiều kết luận của ông đưa ra
đạt tới chiều sâu triết học” [6].
Tuyết Nga nhận xét:“Với năng lự
c chiếm lĩnh hiện thực khái quát và một khuynh hướng triết
luận sâu sắc, với cái nhìn mới mẻ và độc đáo về hiện thực và con người, Nguyễn Khải đã tạo dựng nên
được một thế giới nghệ thuật, trong đó bên cạnh hơi thở ấm nóng của đời sống, con người hiện lên nổi
bật bởi những vẻ đẹp của tinh thần, của trí tuệ. Tác ph
ẩm của ông đạt được giá trị nhận thức cao và
một sức hấp dẫn mạnh mẽ.” [101].
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đi đến một kết luận:“... triết luận là một đặc điểm nhất quán
trong tư duy văn học của Nguyễn Khải nó làm cho ngòi bút ông khi bốc lên sôi nổi, lúc đằm xuống,
trầm tư suy ngẫm và không thiếu vẻ tinh tế. Tuy nhiên, lại cũng phải thấy nhấ
t quán như vậy nhưng
cùng với thời gian, màu sắc triết luận ở Nguyễn Khải mỗi năm một khác. Từ chỗ cuồng nhiệt (đôi khi
là lối áp đặt một chiều) nay cách nghĩ đó đã phần nào có được cái lui tới, cái chừng mực cần thiết.
Nếu hôm qua, Nguyễn Khải đã rất thành công trong việc diễn tả những gay gắt quyết liệt của đời sống
thì hôm nay nhà v
ăn có phần thấm thía sự đời hơn, cái nhìn ra chiều độ lượng và thông cảm hơn. Từ
Xung đột qua Cha và con và.., từ Hòa Vang Họ sống và chiến đấu, qua Thời gian của người, cách
đặt vấn đề giọng điệu tác giả đều có đổi khác. Như tất cả chúng ta, Nguyễn Khải cũng ở trong một quá
trình vận động liên tục.” [109].
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng khảo sát là các tiểu thuyết giai đoạn trước năm 1975 và đặc biệt tập trung vào các
sáng tác của Nguyễn Khải từ năm 1975 đến nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải là một quá trình vận động liên tục trên con đường nhận
thức và tự nhận thức. Vì vậy thực hiện đề tài này người nghiên cứu vận dụng phối hợp các phương
pháp sau:
Phương pháp miêu tả là dùng cách thức miêu tả, kể chuyện để tái hiện lại những sự kiện. tình
tiết mang ý nghĩa triết luận trong tác phẩm. Phương pháp nghiên cứu hệ thống sẽ
được sử dụng để xác
lập các nguyên tắc tư duy nghệ thuật mang phong cách triết luận của nhà văn Nguyễn Khải. Dùng
phương pháp so sánh văn học để đặt nhà văn trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại để vấn đề được
xem xét, đánh giá khách quan. Luận văn cũng sử dụng phương pháp loại hình (loại hình thể loại, loại
hình người kể chuyện,…), còn gọi là loại hình hóa nhằ
m xác lập đặc trưng loại hình tư duy nghệ thuật
và phong cách tự sự của nhà văn từ đó có thể tìm ra những đóng góp thuộc về cá nhân nhà văn.
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
DẪN NHẬP
1. Lí do lựa chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nhiên cứu
5. Cấu trúc luận văn
Chương 1: Nguyễn Khải – triết nhân trong địa hạt văn chương
1.1 Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Khải
1.2 Nguyễn Khải và hành trình đi tìm bản thể
Chương 2: Nguyễn Khải – cuộc tìm kiếm một thế giới nghệ thuật giàu tính triế
t luận
2.1. Nhà văn – con đường của một triết nhân cô độc
2.2. Kiểu nhân vật thấp thoáng dáng dấp của một triết nhân cô đơn
2.3. Đi tìm con đường của con người tự do
2.4 Những người đàn bà trong sáng tác của Nguyễn Khải – một âm bản của cuộc sống ngọt ngào
Chương 3: Nguyễn Khải – những tìm tòi thể nghiệm trong kĩ thuật triết luận
3.1 Khai thác những thế mạnh triết luận trong kĩ thuật kết cấu, kĩ thuật trần thuật, lời văn nghệ thuật
3.2 Khai thác những thế mạnh triết luận trong kĩ thuật xây dựng nhân vật
KẾT LUẬN
Chương 1:
NGUYỄN KHẢI – TRIẾT NHÂN TRONG ĐỊA HẠT VĂN CHƯƠNG
1.1 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN KHẢI
Nhà văn Nguyễn Khải từng tâm sự vào những năm cuối đời: “Viết văn không chỉ do nhu cầu
kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong
muốn được trao trở về với cái vô hạn. Hãy tin vào lời nói của người sắp ra đi mãi mãi. Họ không còn
thì giờ để hưởng danh, hưởng lợi nữa. Họ chỉ còn một khoảng thời gian rất ngắn ng
ủi để nói cho thật,
để bộc lộ bằng hết những nỗi u uẩn trong lòng mình [84].
Nguyễn Khải là người luôn coi viết văn là một thứ "nghề". Ông từng đặt tên cho các tự truyện
của mình là "Con đường dẫn tôi tới nghề văn", "Nghề văn cũng lắm công phu". Nhiều tạp văn xung
quanh cuộc sống được ông gọi chung là Chuyện nghề. Đã là nghề tức là phả
i học, phải khổ luyện.
Thực ra ý thức về nghề của Nguyễn Khải không chỉ dừng lại ở đó. Sâu xa hơn, nó thể hiện thái độ
thẳng thắn, tinh thần dám chịu trách nhiệm của người cầm bút về những đứa con tinh thần của mình.
Ngay từ những ngày đầu cầm bút cho đến khi cuối đời, nhà văn Nguyễn Khải đã sống trọn vẹn cho lí
tưởng ngh
ệ thuật của mình. Lí tưởng nghệ thuật chi phối cuộc sống nhà văn ở tất cả các mặt: bản lĩnh,
nhân cách và trước hết là dám hi sinh suốt đời để phụng sự con người, làm cho con người "người" hơn.
Hứng thú khám phá sự thật lòng người, sự thật của đời sống đã làm sáng tác Nguyễn Khải tách khỏi
dòng chung và ngày càng có khuynh hướng riêng. Nó không phản ánh hiện thực một cách trung thành
hay lãng mạn mà nó khám phá sự th
ật, đáp ứng nhu cầu hiểu biết sự thật của con người hiện đại.“Sự
thật chỉ có thể viết về những tấm lòng, những tâm trạng của các giai cấp trong xã hội với mọi sự phức
tạp, tinh vi, ngoắt ngoéo có thực của nó; như thế mới là sự thật chân thật theo quan niệm của tôi...”
[26]. Những tác phẩm được viết ra không đơn thuần chỉ vì nhữ
ng thương ghét nhất thời mà phải giúp
người ta hiểu biết, nhận thức những sự thật trong đời. Nhu cầu hiểu biết sự thật là nhu cầu lớn của thời
đại và hiển nhiên con đường nhận biết nó không thể nào đơn giản, dễ dàng. Với quan niệm nghệ thuật
là khoa học thể hiện lòng người, nhà văn đã trực tiếp tham gia vào đời sống như một nhà tư tưởng, m
ột
nhà khoa học về đời sống. Đối với nhà văn, thì sự thật là không khí. Vấn đề là cái nhìn, điểm nhìn.
Nguyễn Khải có thể “lúc thế này, lúc thế kia” là vì phải đuổi theo cái sự thật luôn luôn biến đổi đến
chóng mặt đó. Nhưng luôn luôn ông là người biết nghĩ. Và ông đã tự nguyện lấy chính nghệ thuật ra để
nghiên cứu những sự thật ấy. Vì vậy, tính triết luậ
n, ở đây, trở thành một nguyên tắc mỹ học trong kiến
tạo thế giới nghệ thuật cũng như định hướng sáng tạo ngôn ngữ văn chương trong tác phẩm của nhà
văn Nguyễn Khải. Đó là một thứ triết luận toát ra không phải từ đôi ba câu trữ tình ngoại đề của tác giả,
hay vài câu nói trứ danh của nhân vật, mà từ thể tài tiểu thuyết, từ sự tương tác thẩm mỹ giữa các yếu
tố, giữa nhiều cấp độ trong thế giới nghệ thuật của ông.
1.1.1 Sự kết hợp giữa tư duy hình tượng và phân tích khoa học trong việc phả
n ánh hiện thực
đời sống:
Nguyễn Khải bộc bạch: Tôi quan niệm nghệ thuật đơn giản như sau: là khoa học thể hiện lòng
người, là lịch sử của lòng người (...) Sự thật chỉ có thể viết về những tấm lòng, những tâm trạng của
các giai cấp trong xã hội và mọi sự phức tạp, tinh vi, ngoắt ngoéo có thực của nó, như thế mới là sự
chân thật theo quan niệ
m của tôi (...) Hãy nói về sự thật lòng người, sự chân thật, kết quả của sự
nghiên cứu thận trọng, tỉ mỉ của chúng ta [26].
Những ý kiến như thế cho thấy nhà văn có xu hướng muốn vươn tới một sự kết hợp giữa tư duy
hình tượng và phân tích khoa học trong việc phản ánh hiện thực đời sống. Ông muốn chiếm lĩnh hiện
thực đời số
ng cả "ở cái bề sâu, ở cái bề xa" với khát vọng thể hiện chân thật lòng người trong những
năm tháng lịch sử nhiều biến động. Ông chinh phục người đọc bằng những lập luận, lí lẽ, những cách
đặt vấn đề và cách giải đáp riêng và đáp ứng nhu cầu đánh thức trí tuệ của họ. Nhà văn đã cung cấp
một kinh nghiệm quý báu là muốn tìm ra được những nét că
n bản của cuộc sống, muốn có được những
hình tượng nghệ thuật chân thật và sinh động thì phải có sự hiểu biết chu đáo, sâu rộng, phong phú về
phạm vi hiện thực mà nhà văn đó phản ánh. Để có lòng tin cậy của bạn đọc, nhà văn không thể hiểu
biết hời hợt về cuộc sống được. Ông coi trọng sự giải thích thực tại hơn là sự chứng minh nh
ững định
kiến có sẵn, không bắt những sự kiện thích nghi những tư tưởng mà bắt những tư tưởng phục tùng
những sự kiện, có lương tâm trong việc sưu tầm và sử dụng những dữ kiện sự kiện, nhờ căn cứ dữ kiện
chính xác, phong phú, tỉ mỉ. Nhà văn viện dẫn lịch sử qua sự chọn lọc, khái quát hóa, sắp xếp những
cái vốn rời rạc, thúc đẩy mối quan hệ xuất hiện giữa các nhân vật với mục tiêu sau cùng là tìm được
triết học văn hóa của các hiện tượng xã hội - lịch sử. Xung đột là bức tranh sinh động, chân thực về
nông thôn Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh giai cấp gay gắt. Những phát hiện của nhà văn thực chất
là sự tự phát hiện của chính bản thân nông thôn, của những con người qua cuộ
c cách mạng ruộng đất.
Thông qua câu chuyện ở một xóm đạo Nghĩa Hưng, nhà văn tái hiện miền Bắc thu nhỏ với những cuộc
đấu tranh chính trị quyết liệt xảy ra trong từng thôn xóm, gia đình. Ngay từ phần I, tác giả đã khéo léo
giới thiệu trên hai mươi nhân vật thuộc đủ mọi thành phần với đủ vẻ khác nhau. Sau những năm chiến
tranh khói lửa, lực lượng nào sẽ nổi lên chi phối xã hộ
i? Nông thôn sẽ đi về đâu? Những hình tượng
nhân vật như Nhàn, Môn, Tùng… cũng chính là sự ra đời của những con người mới trong cuộc đấu
tranh ác liệt giữa hiện tại và quá khứ. Trên cơ sở nhận thức về bản chất và chiều hướng phát triển của
xã hội, Nguyễn Khải đi vào những vấn đề phức tạp, những ngóc ngách của cuộc sống, những chuyển
biến bên trong phức tạp của tâm tư con người. Sức mạnh của những chi tiết sự việc, chi tiết tâm lí
không dừng lại ở giá trị
hình thức mà chứa đựng ý nghĩa nhận thức tư tưởng. Những tìm tòi của nhà
văn đều hướng đến sự nhận thức và phản ánh một loạt vấn đề khá phức tạp như cải cách ruộng đất, xây
dựng nông thôn mới, quan hệ giữa gia đình và xã hội,… Tác giả đã triển khai được mối quan hệ chi
phối lẫn nhau giữa hai trận tuyến xung đột, vạch ra được xu thế
của từng loại mâu thuẫn, nhìn thấy khả
năng chuyển hóa của chúng trong đường lối đấu tranh.
Hệ quả của khuynh hướng phân tích nghiên cứu trong khi đi sâu vào mổ xẻ quá trình vận động
phức tạp của đời sống tư tưởng con người là tác phẩm mang đậm chất chính luận, triết luận. Các sáng
tác giai đoạn trước 1977, nhà văn tập trung vào mối quan hệ giữa "cái tôi" và "chúng ta": hòa nhập
nhưng đừng để
bị hòa tan vào cái tầm thường của đám đông, đấy là một phát hiện của Nguyễn Khải.
Quan tâm đến cá nhân con người trong mối quan hệ "cái tôi" và "chúng ta" là một việc làm đạt đến
chiều sâu triết học và nhân bản. Vì lúc đó người ta hay nhấn mạnh đến sức mạnh, tinh thần tập thể mà
dè dặt khi nói đến ý thức trách nhiệm cá nhân đặc biệt là vấn đề khẳng định bản lĩnh cá nhân của con
người gi
ữa một hoàn cảnh sống mà cái "tôi" chưa được nhìn nhận công bằng, thoả đáng. Hay vấn đề
tôn giáo được nhìn theo hướng đấu tranh giữa những người cách mạng và phe đội lốt tôn giáo chống
phá cách mạng. Các sáng tác giai đoạn sau 1977 nghiên cứu quá trình diễn biến tư tưởng nhân vật
nhằm đi tới những khái quát lớn về tôn giáo và dân tộc, sự hòa hợp giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội,
tôn giáo với quá trình vận động để
tồn tại của chính nó. Tuy nhiên cái nhìn tôn giáo ở tác phẩm này vẫn
còn bị chi phối chủ yếu bởi nhãn quan chính trị. Vấn đề lựa chọn một nhân cách sống vẫn đang là vấn
đề còn đặt ra đối với người trí thức hôm nay. Gặp gỡ cuối năm là cuộc đối thoại giữa người "thắng
cuộc" với người "thua cuộc" để hòa nhập vào cuộc sống và thúc đẩy cuộc sống phát tri
ển. Thời gian
của người, Điều tra về một cái chết chạm đến vấn đề nhìn sâu vào bản thể để tự ý thức. Trong cái mịt
mờ đen tối của những mưu đồ, sự giả dối, tội lỗi và niềm tuyệt vọng, chợt lóe lên một ánh chớp soi
sáng tất cả để người đọc tự nhận ra "Ta là ai?". Đây là ý nghĩa triết luậ
n của cuốn sách được đút rút ra,
là một chữ tâm. Một cõi nhân gian bé tí là vấn đề mối quan hệ giữa con người và thời thế. Một cõi
nhân gian bé tí là những cái may, cái rủi, cái được, cái mất của kiếp người ở những lứa tuổi khác nhau.
Từ đó hình thành hai lớp người: Lớp người lạc thời vì chọn lầm đường, vì ảo tưởng vào bản thân, vì
cái thời của họ đã hế
t (Mọ Vũ, ông Mọn, ông Định ), vì chịu oan do tội của tổ tông (Hải - cháu mọ Vũ
), vì không chịu được sự kiềm hãm của cơ chế lạc hậu, vì thời thế thay đổi (Chính, Tiến )... Lớp người
gặp thời nhờ "trúng quả", biết lợi dụng cơ chế, nhưng ít học, hãnh tiến, sống bát nháo... Các sáng tác
lúc này vẫn không thiếu tính thời sự, nhưng giá trị của chúng đã vượt ra khỏi cái khung thời sự nhất
thời để gây ám ảnh lâu dài.
1.1.2 Niềm khao khát được hiện diện trong sự chuyển động của cuộc sống
Cái sự “gặp thời” mà nhà văn Nguyễn Khải vẫn thường tự nhận đó chính là môi trường lí tưởng
để thế hệ của ông được đặt những viên gạch đầu tiên tạ
o dựng nên một thời đại mới, một thế hệ sáng
nghiệp sử. Dù giai đoạn trước đây hay sau này, ngòi bút Nguyễn Khải vẫn thống nhất ở niềm khao khát
vô tận muốn được có mặt trong cuộc đời. Nói như Vương Trí Nhàn thì “một chút đanh đá, chua ngoa,
pha lẫn một chút ngông nghênh hiếu thắng, lối nói băm bổ, lối trình bày thẳng tuột những điều người
khác chỉ dám nghĩ
” để cuối cùng nói lên được sự thật [110, tr.120]. Tác phẩm của ông thường hướng
thẳng vào những vấn đề hiện tại, đặc biệt là những vấn đề đang gây chú ý, thậm chí đang gây tranh
luận nghĩa là còn dở dang, chưa hoàn tất. Vì vậy khi tác phẩm ra đời thường gây nên nhiều ý kiến tranh
luận sôi nổi. Nguyễn Khải khát khao "muốn có mặt trong đời sống" và sự lựa chọn của nhà văn là
"Thà
bị chê bai một chút nhưng luôn luôn có mặt trong ngày hôm nay, được lên tiếng trong ngày hôm nay,
còn hơn ngồi đó tu luyện, nói những chuyện cao xa và tạo ra những vẻ đẹp hoàn chỉnh, nhưng không
mấy liên quan đến cuộc sống" [107]. Tiểu thuyết Xung đột tập trung diễn tả những xung đột trong đời
sống tinh thần và tư tưởng của con người. Tập một xoáy sâu vào mối xung đột giữa hai hệ tư tưởng đối
ngh
ịch. Tập này tạo được tiếng vang trong dư luận, được khen là có tính chân thật. Còn tập hai là cuộc
xung đột đáng buồn giữa những người anh hùng của một thời. Tác phẩm gây ra nhiều luồng ý kiến trái
chiều nhưng bị ngầm chê là bôi nhọ cán bộ, viết sai sự thật, có những cái nhìn không đúng đắn về một
vùng nông thôn công giáo. Sứ mệnh khiến người cầm bút nhiều khi phải tự nguyện chấp nhận m
ột sự
chờ đợi khi có những khác biệt giữa những cái đang tồn tại với những cái phải tồn tại trong xã hội.
Ngòi bút của ông luôn xuất hiện ở những bước chuyển quan trọng, khi hiện thực còn đang mới mẻ,
ngổn ngang, bề bộn, nảy sinh nhiều vấn đề. Ông tìm lên Điện Biên vào lúc mảnh đất từng là chiến
trường này đang trở thành một trong những vùng kinh tế
mới điển hình của miền Bắc xã hội chủ nghĩa
để viết về phong trào hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cuộc sống mới (Mùa lạc). Ông tìm
về vùng Bùi Chu - Phát Diệm vào lúc cuộc đấu tranh trong nội bộ nhân dân vùng tôn giáo toàn tòng
này đang diễn ra quyết liệt. Ngay khi Mĩ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc, ông có mặt ở những
nơi xung yếu nhất, ác liệt nhất để nghiên cứ
u hiện thực chiến đấu: Kí sự Họ sống và chiến đấu ra đời ở
Cồn Cỏ. Tiểu thuyết Đường trong mây ra đời ở Trường Sơn. Tiểu thuyết Ra đảo ở đất lửa Vĩnh Linh.
Tiểu thuyết Chiến sĩ trong chiến dịch Đường 9 Nam Lào. Kí sự Tháng 3 ở Tây Nguyên trong chiến
dịch giải phóng miền Nam 1975. Rồi ông lại đặt chân tới Sài Gòn vào đ
úng năm 1975, khi chiến dịch
Hồ Chí Minh toàn thắng. Ông tập trung vào việc phát hiện những khía cạnh sâu hơn của hiện thực cách
mạng những năm tháng đầu hòa bình: sự xoay chuyển của ý thức, cách nhìn nhận và chấp nhận đời
sống mới trong tâm thức những con người của xã hội Sài Gòn cũ. Kịch Cách mạng, tiểu thuyết Gặp gỡ
cuối năm bàn về những thay đổi quyết liệt của đời số
ng xã hội chủ nghĩa mới trong những lớp người
cũ những năm đầu hòa bình lập lại ở miền Nam. Trong tác phẩm Gặp gỡ cuối năm, ông đã khéo léo
dựng lại được phần nào cái không khí của xã hội miền Nam. Chuyện Nguyễn Thế Uyển tát tai tổng đốc
Thái Bình tại bến phà Tân Đệ, chuyện những người làm nghề “xỉa răng cá sấu” ngoài Mã Đảo để
kiếm tiền, chuyện một cán bộ khoa học có tài bị thoái hóa mới trốn ra nước ngoài ở xí nghiệp Bình;
chuyện một thằng A cỡ bự được Quân tặng chó lại có liên quan đến “chú Phùng” tình báo (...) cũng
được bà Hoàng coi là ân nhân v.v... Rồi những chuyện về Thiền, về tử vi, tướng số, về sáng tác nghệ
thuật, về văn hóa ẩm thực, về chơi cờ tướng, thậm chí triết luận cả về một cái tên ng
ười. Chẳng hạn tên
ông Đại thêm một chấm ở vai thành Khuyển là chó. Thêm một chấm ở háng là Thái, thái quá thì bất
cập. Giáo chủ Cao đài mời ông ra làm việc với Pháp, ông đã từ chối khéo vì không muốn có thêm một
chấm trên vai thành chó săn (thành chuyện chính trị). Nói về Thiền: Thiền dạy con người ta biết sống
cho hợp lẽ tự nhiên:“Thượng thiện nhược thủy, Bậc thượng thiện sống như nước. Nước luôn luôn có
khuynh hướng nhập vào dòng lớn chảy ra đại dương. Mà tự nhiên, mà thanh thản” [32, tr.98]. Chuyện
nào cũng cô đọng, hàm súc mà lung linh, đa nghĩa, chỉ cốt lấy cái thần để rút ra những triết lí thâm
trầm, sâu sắc bằng những chính kiến, những trải nghiệm cá nhân khác nhau. Thời kì đất nước tiến hành
đổi mới với sự xuất hiện của kinh tế hàng hóa kéo theo nhiều xáo trộn trong nếp sống nếp nghĩ người
Việt Nam, ông l
ại tập trung viết về "văn hóa sống", về cuộc đấu tranh âm thầm nhưng quyết liệt để giữ
gìn đạo đức và nhân cách của mỗi con người (Một người Hà Nội, Sống ở đời...). Với ý thức đi thẳng
vào đời sống hiện tại, theo sát thời sự, tác phẩm Nguyễn Khải nói chung thường gắn với những chuyến
đi - với những gì nhà văn từ
ng tai nghe mắt thấy, từng nếm trải đến hết mình cái dư vị của nó. Chính
những mảng hiện thực đời sống nóng bỏng đang nằm trong thời khắc của sự chuyển đổi quan trọng này
đã giúp ngòi bút của ông có điều kiện tiếp cận, khám phá kịp thời những vấn đề mới mẻ vừa mới nảy
sinh, những vấn đề mà người khác chưa kịp tìm th
ấy. Ông gợi mở những trăn trở băn khoăn, những
vướng mắc của bản thân trước những vấn đề phong phú và phức tạp đang đặt ra trong cuộc sống. Đó là
tính tư hữu của người nông dân và sự bất ổn của một mô hình kinh tế vào thời điểm nó đang được đề
cao, phổ biến (Tầm nhìn xa), khả năng hòa hợp giữa tôn giáo và chủ ngh
ĩa xã hội (Cha và con và...,
Thời gian của Người). Vào những năm giữa thập kỉ 90, đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới kéo theo
sự biến đổi sâu sắc trong lĩnh vực đời sống tinh thần xã hội. Ông khai thác mối tương quan giữa hai thế
hệ già và trẻ trong xã hội để trân trọng thế hệ già cùng với những chuẩn mực đạo đức, lối sống của họ
nhưng đồng thời ông cũng chỉ ra giới hạn của tuổi tác như sự bảo thủ, trì trệ không phù hợp với nhịp
điệu của đời sống mới. Quan niệm mĩ học của Nguyễn Khải là luôn nhìn thấy cái đẹp trong sự vận
động, giữa những xung đột gay gắt trong đời sống tinh thần và tư tưởng của con người. Từ đó con
người toát ra vẻ đẹ
p của trí tuệ (chinh phục những thử thách nghiệt ngã nhất mà lịch sử hay cuộc đời đã
cố tình chơi khăm họ) và vẻ đẹp nhân cách (sự hi sinh, không khuất phục số phận).
Ngoài đời Nguyễn Khải là một con người sống xuê xoa, biết tự giảm bớt những yêu cầu bình
thường và càng tránh va chạm càng tốt. Nhưng càng dễ dãi trong đời sống bao nhiêu, ông lại càng chặt
chẽ, quyết tâm, nghiêm khắc với vi
ệc viết lách của mình bấy nhiêu. Vì cái ham muốn tột bậc của ông là
được chắt lọc hết tài năng của mình ra và đó cũng chính là chỗ mạnh trong văn chương của ông. Nét
đặc biệt trong đời văn của Nguyễn Khải có lẽ không phải ở năng khiếu mà do ý thức về sứ mệnh của
mình, vai trò của ngòi bút trong đời sống. Nguyễn Khải tâm niệm phải cầm bút viết về “những gì mà ta
ngh
ĩ, ta yêu thương, ta phẫn nộ” và những điều ấy không thể là gì khác với cái “cả xã hội cùng nói,
cùng nghĩ, cùng yêu thương, phẫn nộ” [41, tr.614]. Quan niệm ấy cho thấy rằng văn học nghiên cứu
thế giới tinh thần, đời sống tình cảm, tâm lí, đời sống tư tưởng và toàn bộ tâm hồn con người. Nó bao
hàm cả sự cần thiết phải phanh phui những thói hư, nhược điểm của con ngườ
i để giúp con người nhận
thức được chính mình và đời sống xung quanh. Nhưng mục đích cuối cùng của văn học không gì khác
hơn là hướng con người đến Chân-Thiện-Mĩ, hướng đến một cuộc sống hoàn hảo cho nên nhà văn
"không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là
cái cao cả, cái tốt đẹp, cái thủy chung" [25]. Từ quan niệm đó, Nguyễn Khải đã hình thành cảm hứ
ng
nghiên cứu đời sống và những con người đương thời một cách nhất quán, rõ rệt. Nguyễn Khải hầu như
chỉ viết về hiện tại và những trang viết về quá khứ chiếm phần khiêm tốn trong những sáng tác của
ông. Ông gọi đó là "cái hôm nay": "Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối
và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động, đầy bất ngờ mới th
ật là mảnh đất phì
nhiêu cho các tay bút tiểu thuyết thả sức khai vỡ" [32]. "Cái hôm nay" luôn luôn ở "thì hiện tại", ở
trạng thái "chưa hoàn kết" (M.Bakhtin). "Nếu không đi, chỉ ngồi tĩnh lặng mà nhớ lại thì nhạt lắm.
Ngay cả khi viết về cái xa xưa cũng cần có tia nhánh lửa của hôm nay, cái xôn xao của bây giờ."- nhà
văn Nguyễn Khải tâm sự [99]. "Nếu ngày hôm qua bao giờ cũng tốt đẹp h
ơn ngày hôm nay và cả ngày
mai thì sẽ không có lịch sử, không có khoa học về lịch sử, không có sự sống, không có gì hết" [27].
Cảm hứng nghiên cứu đời sống bắt rễ vào "cái hôm nay" thôi thúc Nguyễn Khải tự phải vươn lên
không ngừng, học hỏi không ngừng để theo kịp với những yêu cầu cuộc sống đặt ra như nhân vật của
ông từng nói:"Ngày qua tháng lại, một năm qua đi, một năm mới lạ
i tới, nhiều vấn đề mới xuất hiện
buộc ông phải đọc nhiều thứ, học thêm nhiều thứ để sự so sánh được rộng hơn, những kết luận đã xác
thực hơn và niềm tin cũ lại có thêm những căn cứ vững chắc" [34].
1.2 NGUYỄN KHẢI VÀ HÀNH TRÌNH ĐI TÌM BẢN THỂ
Cuộc đời của nhà văn Nguyễn Khải mang hai số phận khác nhau. Đó là một đứa trẻ chịu cảnh
thiệt thòi vì là con vợ lẽ. Cậu bé Nguyễn Khải bị giam cầm trong bóng tối của sự mặc cảm, sợ hãi và
bất khả nhận thức. Rồi trước bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc, cuộc đời của Nguyễn Khải đã bước
sang một trang mới. Cậu có cơ hội trở thành một con người mới, được học tập và tiếp cận chân lí.
Chính niềm cảm kích sâu sắc và đam mê lí tưởng cách mạng, Nguyễn Khải đã hình thành nên những
phẩm chất mà thời đại yêu cầu và sống theo những tiêu chuẩn ấy. Những sáng tác đầu tiên của nhà văn
ở giai đoạn này cũng viết về hành trình giải phóng tâm hồn của con người (đi từ bóng t
ối đến ánh sáng)
và khuynh hướng khám phá phẩm chất tuyệt vời của con người trong chiến tranh. Đây là những tác
phẩm mang đậm chất chính luận và triết lí với những nhân vật khôn ngoan và giỏi hùng biện.
Nhưng đó chỉ là khởi đầu của một hành trình khó khăn đi tìm bản thể của chính nhà văn. Từ một
con người mang những phẩm chất do thời đại tạo ra, nhà văn đã phủ nhận nhữ
ng định kiến, những lầm
lẫn và thơ ngây của nó để tự tìm và sáng tạo chính mình đích thực trong văn giới. Cùng với thời gian và
những trải nghiệm ngọt bùi cay đắng, ông nhận ra thái độ thiên lệch “độc quyền lẽ phải” của chính
mình (từ dùng của Nguyễn Phượng (2005), Vị sứ đồ tự nguyện trong văn xuôi Việt Nam hiện đại).
Ông đã tự hòa giải với chính mình b
ằng lòng khoan hòa, đồng điệu. Và chính tấm lòng tự nguyện hòa
giải ấy đã mở ra cho ông một con đường thênh thang trong sáng tạo văn chương. Để tìm về chính mình,
Nguyễn Khải phải đối đầu với bao thử thách để vượt qua hạn chế của thời đại và trong chính bản thân
mình để tìm thấy tự do và đạt đến sự minh triết. Các sáng tác của Nguyễn Khải từ sau năm 1987 mang
đậm chất triết luận - th
ế sự sâu sắc về các vấn đề thế sự, nhân sinh, sự nghiền ngẫm kiếm tìm chân lí
bằng trải nghiệm cá nhân, năng lực hiểu lòng người và năng lực tự phân tích bằng các hình tượng nhân
vật khiêm nhường, từng trải và thấu hiểu. Nguyễn Khải luôn khắc khoải suy tư để tìm lời đáp cho
những câu hỏi hóc búa của lịch sử.
1.2.1 Cuộc đi tìm bản thể qua hai giai đoạ
n sáng tác
Nguyễn Khải là nhà văn có một quá trình vận động và biến đổi trong quan niệm nghệ thuật cũng
như phong cách sáng tạo, như chính ông đã thừa nhận: "Từ 1955 đến 1977 tôi sáng tác một cách. Từ
1978 đến nay sáng tác một cách khác" [25]. Nhưng đúng như nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh: "Thực
ra sự biến đổi về tư tưởng và nghệ thuật từ sau 1975 là hiện tượng chung của mọi cây bút chứ
đâu chỉ
riêng Nguyễn Khải [...], phải đợi đến Đại hội Đảng thứ VI năm 1986 thì sự chuyển biến của giới cầm
bút mới thật rõ rệt và có chiều sâu [...]. Đại hội VI của Đảng với tinh thần dân chủ và nhìn thẳng sự
thật, nói đúng sự thật dường như đã đáp ứng nhu cầu tự thân của Nguyễn Khải" [95]. Về sau nhà văn
Nguyễn Khải cũng giải thích rõ hơn về các giai đoạn sáng tác của mình: “Trong 53 năm làm nghề, do
sự phát triển tự thân, tôi đã thay đổi ba lần những quan niệ
m về tiểu thuyết, những đề tài và nhân vật
cần phải quan tâm, nghệ thuật kết cấu và ngôn từ. Lần thứ nhất vào năm 1957 để có được cuốn tiểu
thuyết Xung đột, lần thứ hai vào năm 1978 thì viết được Cha và con và..., Gặp gỡ cuối năm, mở đầu
cho năm cuốn tiểu thuyết tiếp theo, có thể còn đọc được trong khoảng mươi năm nữ
a. Và lần cuối là
năm 1990 với một chuỗi truyện ngắn, khoảng sáu, bảy chục truyện, viết trong 10 năm, và tuổi thọ của
nó xem chừng cũng còn dài” [87]. Khuynh hướng sáng tác của nhà văn Nguyễn Khải chuyển dịch từ
chính luận sang triết luận. Giai đoạn đầu nó mới dừng lại ở những vấn đề cấp thiết của lợi ích cách
mạng, cộng đồng mang đậ
m tinh thần giáo huấn theo lập trường quan điểm chính trị - đạo đức cách
mạng. Nhà văn không cảm thấy tù túng bó buộc giữa yêu cầu của cách mạng với văn học, yêu cầu của
thời đại với nhà văn. Nhà văn luôn tìm được khoảng trống rộng rãi đủ để ông múa bút. Đối với quan
niệm chung chi phối sáng tác văn học sau năm 1945 là nhà văn phải gắn bó với đời sống những ngườ
i
bình thường thì ông hăng hái đi khắp vùng ven biển Nam Định và tái hiện những bức tranh cuộc sống
của con người nơi đây chân thật và tỉ mỉ đến bất ngờ. Nguyễn Khải thú thật đã từng lãng quên những
con người và những việc bình thường:“(…) chuyện hằng ngày, nhỏ nhặt và tầm thường có gì đáng để
phải viết. Chả là tôi rất thích viết những hoàn cảnh gay gắt, đơ
n biệt, những tính cách hoặc u tối hoặc
chói sáng.” [68]. Các truyện trước đây của Nguyễn Khải dù rất uyển chuyển, sinh động nhưng vẫn nổi
lên một sắc thái nhất định. Nguyễn Khải, "đi thực tế đấy mà thực chất là để tìm mình, để phát ngôn cho
chính mình [...]. Vì sự lựa chọn của họ rút cục đều do ông mách nước cả". Các sáng tác của Nguyễn
Khải đầy ắp cả
m hứng chính luận, chuyên đề cập các vấn đề thời sự, chính trị của đất nước và thường
lấy tiêu chí chính trị, đạo đức cách mạng để bàn luận, đánh giá sự kiện, con người. Đến giai đoạn sau,
nhà văn đề cập đến vấn đề thời sự, chính trị nhưng nó gắn với cá nhân, hướng vào những cuộc đối thoại
tư tưởng để giải quyế
t những vấn đề vĩnh cửu của đời sống con người. “Nghệ thuật trong thời đại khoa
học đặc biệt quan tâm đến triết học, nó sáp gần và đôi khi hòa lẫn vào triết học” (A. Gulưga). Những
nhà văn lớn thường gặp những triết gia lớn ở chỗ trong tác phẩm của họ con người được đặt trong quan
hệ với cái “tuyệt đối”. Con người thường đượ
c đặt trong quan hệ với những vấn đề chính trị-xã hội thời
sự. Tác phẩm văn học sẽ có chiều sâu hơn nếu như những vấn đề thời sự chỉ là điểm xuất phát. “Chúng
ta không đi đến chân lí, chúng ta chỉ va chạm vào chân lí”(Evarist Gallois). Từ những vấn đề thời sự,
trong cảm hứng triết luận, nhà văn có cơ chạm được vào “cái tuyệt đối”. Quan niệ
m về “cái tuyệt đối”
cũng đơn giản thôi, đó là những khát vọng nhân bản và vĩnh hằng của con người về chân, thiện, mĩ...
Ông sớm nhận ra phải nhanh chóng từ giã thời lãng mạn, đơn giản, dễ dãi để viết những tác phẩm
mang quan điểm cá nhân. Ngày nay đến với truyện của ông, ta thấy cách nhìn không còn rõ rệt phân ra
quan điểm đúng sai mà là những xót xa đau đớn vì sự ngó lơ trước những khuyết tật của con người. Đó
còn là những nỗi đau vô cớ, những bất hạnh mơ hồ, những đắng cay chua xót không đâu, nhữ
ng nỗi
nhục, những mặc cảm không có duyên do, không tài nào ai hiểu nổi vẫn thường đầy rẫy trong cuộc đời
mỗi người. Bước ngoặt khiến ông tìm về đề tài những con người tẻ nhạt, nhỏ mọn, tầm thường trong
cuộc sống hàng ngày là “…vào năm tôi đã 60 tuổi. Là khi tôi ngộ ra cái dòng chảy tự nhiên của một
đời người từ xưa cho tới nay, thời chiến thì đi lính; thời bình thì đ
i cày, đi buôn với những lo toan,
buồn vui của mỗi ngày. Những danh nhân, anh hùng của mọi thời đều từ cái đám đông nhờ nhờ ấy
bước vào vùng sáng của lịch sử một khi thời thế thay đổi. Tôi đã dành một nửa đời viết chỉ để quan tâm
tới những số phận khác thường, những tính cách khác thường, thì thời gian còn lại tôi sẽ chỉ dành cho
những con người vô danh, những con người của
đám đông với những số phận rất tầm thường.” [87].
Sự thay đổi trong quan niệm về cuộc sống, về con người đã dẫn đến những đổi thay trong bút pháp của
nhà văn. Truyện Nguyễn Khải từ hướng ngoại chuyển dần sang hướng nội, giọng điệu tâm tình sẻ chia
tương ứng với nội dung nhân bản kia dần lấn át giọng tranh biện, thuyết lí. Đ
úng như nhà nghiên cứu
văn học Vương Trí Nhàn từng nhận định:"Ngày nay đến với truyện của ông, người ta được đến với một
thế giới đa dạng hơn, nhiều sắc thái hơn, cái anh hùng xen với cái bình thường, cái đáng căm giận
đáng phỉ nhổ không thiếu, nhưng còn bao nhiêu cái đáng cảm động, đáng để tin yêu, nó góp phần làm
nên một cuộc sống thú vị có cả tiếng cười l
ẫn nước mắt". [110, tr.119]. Dường như trong văn chương
thì nỗi đau dễ còn lại với đời sau hơn là niềm hân hoan và những câu chúc tụng. Nhìn chung ta có thể
khái quát hai giai đoạn sáng tác lớn của Nguyễn Khải. Trước 1978, tác giả có cái nhìn tỉnh táo, sắc
lạnh, nghiêm ngặt, luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, ta – địch, tốt – xấu
nhằm khẳng định xu thế
vận động (từ bóng tối ra ánh sáng) của cuộc sống mới, con người mới. Ngòi
bút văn xuôi có khuynh hướng chính luận với sức mạnh của lí trí tỉnh táo. Sau 1978, cái nhìn của ông
trở nên đầy trăn trở, chiêm nghiệm, cảm nhận hiện thực xô bồ, hối hả, đầy đổi thay và đặc biệt là
chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội. Tác giả nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ
với
lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ nhằm khẳng định, ngợi ca những giá trị nhân
văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay. Lấy việc khám phá những con người trong cuộc
sống đời thường làm trung tâm. Các tác phẩm thể hiện cảm hứng triết luận với giọng văn đôn hậu, trầm
lắng, nhiều suy nghiệm.
Từ
sau Xung đột, những tác phẩm như Mùa lạc, Đứa con nuôi, Chuyện người tổ trưởng máy
kéo đều nhất quán trong cảm hứng lãng mạn. Những kiểu nhân vật như chị Đào, Thoa, Thi... đã khá
quen thuộc trong văn học của ta. Đó là những con người rất bình thường, nhỏ bé bị tơi bời trong sóng
gió cuộc đời. Nhưng họ vẫn đầy lạc quan với sức trỗi dậy bền bỉ, khả năng tự tái sinh mình đến kì lạ.
Trong những năm đầu tiên được hưởng thành quả của chế độ mới (sau 1945), nhà văn đã không tránh
khỏi cái cảm xúc quá hào hứng và thán phục đối vớ
i mọi việc và mọi người. Ông đã hăm hở đẩy mọi
thứ lên đến cực đoan rồi đi đến những tổng kết mang nặng tính lí thuyết. Tất nhiên cứ say sưa ca ngợi
cái này thì đương nhiên cũng hăm hở phê phán chế giễu cái kia. Nguyễn Khải từng thừa nhận:“Có một
thời mà thời ấy kéo hơi quá dài, những ba chục năm, chúng ta chỉ tôn trọng có ý chí có nghị lực có
chính trị tư tưởng.” [52]. Chỉ cần so sánh một chút cảm hứng khái quát đời sống khi nhà văn viết Mùa
lạc với những thiên truyện ông viết những năm cuối 80 đến nay ta sẽ thấy bao khác biệt. Cái nông nổi
bồng bột say sưa của tuổi trẻ, và cái chiêm nghiệm thâm trầm sâu sắc của tuổi già. Cái cao giọng lớn
tiếng khẳng định, khái quát, tổng kết quy luật cuộc sống nhưng còn hồn nhiên, chân ch
ất; và cái ngập
ngừng, ngẫm nghĩ, lo âu vì sợ sẽ tiếp tục sai lầm lại tiến gần đến quy luật cuộc đời. Và khi tuân theo
quy luật cuộc đời, nhà văn cũng đã chạm đến cái hồn của văn chương vốn rộng lượng với những lầm
lạc, vấp ngã của con người. Sự thay đổi trong quan niệm về cuộc sống, về con người đã dẫn
đến những
đổi thay trong bút pháp của nhà văn. Truyện Nguyễn Khải từ hướng ngoại chuyển dần sang hướng nội,
giọng điệu tâm tình sẻ chia tương ứng với nội dung nhân bản kia dần lấn át giọng tranh biện, thuyết lí.
Vì thế mà, Nguyễn Khải đã tự nguyện quay trở lại, soi chiếu lại cái thế giới cũ để dũng cảm nhìn nhận
chính mình như một lẽ t
ất nhiên hơn ai hết. Và ông vẫn hăm hở với những tác phẩm được viết tiếp hay
viết lại (Cái thời lãng mạn nhìn lại Tầm nhìn xa; Cha và con và… nhìn lại Xung đột; Người trở về,
Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười…). Có mấy ai lại mang một tâm thế hăm hở đến vậy khi
nhìn nhận, mổ xẻ, tự giễu chính những đứa con tinh thần củ
a mình. Phải chăng cái khao khát tìm cho ra
chân tướng tận cùng sự thật đã cao hơn tất cả, cao hơn nỗi đau cắt lìa chính “những đứa con mình”.
1.2.2 Hành trình nhận thức quan cuộc tự phát hiện trở lại
Nghề cầm bút với Nguyễn Khải rất nghiêm trang và khó nhọc như nghề làm người. Nó cũng trải
qua những giai đoạn phát triển, tự nhìn lại mình, tự ý thức rồi thức tỉnh như chính ông trên hành trình
làm ngườ
i. Ban đầu ông viết văn như để giải oan, để đáp lại cái quá khứ tủi nhục, bị coi thường, bị hắt
hủi của mình. Ông viết văn để đền ơn cho gia đình lớn cách mạng. Ông viết văn bằng cái ham muốn
bộc lộ tài năng, ham muốn góp mặt trong đời sống văn học. Nhưng cùng với thời gian và những trải
nghiệm ngọt bùi cay đắng, ông nhận ra thái độ
thiên lệch “độc quyền lẽ phải” của chính mình. Bám sát
đời sống, không rời cái hôm nay, con người năng động và thông minh, luôn khát khao tìm tòi này đã
sớm nhận ra thiếu sót thuở nào trong những quan niệm một thời của mình. Nhìn nhận lại quá khứ, nói
thêm về những vấn đề mà mình đã từng nói thuở nào giờ đây bỗng trở thành một nguyện vọng thôi
thúc trong con người làm nghề viết lách này.
Ông đã tự hòa giải với chính mình bằng lòng khoan hòa,
đồng điệu. Và chính tấm lòng tự nguyện hòa giải ấy đã mở ra cho ông một con đường thênh thang
trong sáng tạo văn chương. Ông đã không ngần ngại nói lên những cảm nhận mới về đời sống của ngày
hôm nay:"Tôi chợt nhận ra sự sống đã trở lại, đã phá vỡ cái nền nếp khắc khổ của một thời nghiệt ngã,
để
được sống đến triệt để, đến thỏa thê, sống bằng hết sức mạnh vốn có, những thèm khát vốn có. Vì đã
từ lâu lắm rồi mỗi người chỉ còn sống với cái tối thiểu để tồn tại, tồn tại là trước hết" [47, tr.470].
Những cuộc đối thoại giữa ngòi bút Nguyễn Khải hôm nay và những trang viết mấy chục năm về trước
là cuộc
đối thoại dài với chính mình, với các nhân vật của mình và với chính các tác phẩm của mình.
1.2.2.1. Nhìn nhận vấn đề cũ dưới một cái nhìn mới
Với Nguyễn Khải đặt vấn đề thường đồng nghĩa với việc đặt lại vấn đề, nghĩa là phát hiện lại,
nghiên cứu lại những vấn đề của hiện thực tưởng đã xong xuôi. Nhân vật chính trong các tác phẩm của
Nguyễn Khải ở thời kì đầu đều là những người tốt, dẫu có "vẫy vùng" đến đâu thì "cái riêng của từng
người" c
ũng phải "hòa tan trong sự nghiệp kháng chiến" [35, tr.124]. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp
không phát huy tính cần cù sáng tạo của từng cá thể nông dân, nhưng đây là chủ trương lớn nên như
nhiều nhà văn đương thời, Nguyễn Khải cũng phải "tuyên truyền qua đường lối Xung đột". 45 năm
sau, qua Thượng đế thì cười, Nguyễn Khải mới có thể nói được những cảm nhận về người nông dân
khi đ
i vào hợp tác hóa nông nghiệp:"Đang làm chủ trở thành người làm công ăn lương, không thể tính
toán cho riêng mình bất cứ việc gì, họ không còn đất đai, không còn nông cụ, không còn cả lao động
và thời gian, tất cả đã thuộc về hợp tác xã thì còn gì để tính nữa. Vì không tính được nên cái lo của
người già và những người chủ gia đình là cái lo kéo dài suốt mấy chục năm, từ đời này qua đời nọ, lo
quá thì không còn lo nữa cho xong, đã lụt thì lụt cả làng, cả làng
đói thì đã có nhà nước lo, sự bình
đẳng gần như hoàn toàn, không còn giàu và nghèo thì cũng không còn lười và chăm, ngu và sáng, may
và không may, các số phận riêng mất dần đi" [79, tr.231].
An (Chủ tịch huyện) tháo vát nhưng kiêu căng, một con người bên cạnh nhược điểm lớn nhất là
tự cao tự đại lại có những ưu điểm không thể phủ nhận là tính cách mạnh mẽ, quyết đoán, dám chịu
trách nhiệm thế mà ch
ỉ "vấp" một cái đã tuôn nước mắt trước mặt ông bí thư xã mà hằng ngày An
chẳng chút kiêng nể; gã run "sống đơn độc mới thấy hãi, rất hãi..." . An nhanh chóng được nhà văn mài
cho nhẵn thín để dễ lăn tròn vào đám đông cách mạng. Những trang viết về An trong Chủ tịch huyện
(1972) đã làm Nguyễn Khải day dứt nên mười năm sau với Gặp gỡ cuối năm ông đã gởi g
ắm lòng
mình qua phát ngôn của kĩ sư Bình:"cái trách nhiệm cá nhân phải hòa tan trong cái lãnh đạm của tập
thể, cái sắc sảo thì mài cùn đi thành cái mù mờ, cái tiên phong thì tụt lại một chút để không bị xung
quanh ghét. Tự biến hóa thành kẻ vô danh, là tôi mà chẳng phải tôi, công thì được hưởng mà tội thì
cũng phải gánh lấy, tội của mọi người, tội của trên, của dưới, của tất cả, chứ không phải riêng của một
ai, nhất là không phải của tôi. Thiệt, nhà nước chịu, cái đại tập thể chịu, chứ cái tiểu t
ập thể vẫn yên
tâm ngủ kĩ" [35, tr.88-89]. Và thêm mười năm nữa để trong Thượng đế thì cười Nguyễn Khải cho nhân
vật "hắn" nhìn lại Chủ tịch huyện:"Cái phần hiện thực chỉ tới đó thôi, sau đó còn lại là "lãng mạn" rồi
bằng một kết thúc xem ra cũng có lí:cả nước đã bước vào cuộc chiến tranh chống Mĩ nên nhân vật An
đã tự gột r
ửa mình trở thành sạch sẽ để bước vào cuộc chiến đấu mới. Bạn đọc những năm ấy cũng
mong muốn câu chuyện được kết thúc vui vẻ như thế nên đã đồng tình với tác giả. Các nhà phê bình
văn học lại còn đồng tình hơn. Cuốn sách đã thành công theo đúng những tiêu chuẩn mĩ học của một
thời" [79, tr.245].
1.2.2.2. Viết về những người “phía bên kia”
Năm 1959 Nguyễn Khải viết Xung đột. Khi viết Xung đột, ông tiếp cận với Thiên Chúa giáo,
linh mục, giáo dân còn phiến diện, nghiêng về mặt đấu tranh với những kẻ đội lốt tôn giáo chống phá
cách mạng nên những nhân vật như Cha Thuyết, Cha Vinh, tu sĩ Thịnh, các giáo dân cuồng tín như Lý,
Dụ, Quảng, Tài... lấn át những nhân vật là giáo dân - công dân kính Chúa yêu nước. Trong Xung đột,
hàng loạt các tín đồ Công giáo cuồng tín, mê muội; các tu sĩ phản
động, dâm ác, ngay các nữ tu trong
nhà dòng "khấn vái từ sáng đến tối nhưng vẫn tằng tịu với người khác giới, có người uống thuốc thôi
thai, có người đi đẻ giấu, có người còn đang tay bóp chết con nhỏ", tất cả những hành động hoặc u mê,
hoặc hủ bại, chống phá Cách mạng được đẩy lên tới mức có thể gây ngộ nhận đó là bản chất của linh
mục, tu sĩ, giáo hữu Công giáo thì có ph
ần bất công. Tác giả cũng đặt Công giáo và Cách mạng vào thế
mâu thuẫn gần chạm mức đối kháng, khả năng hòa hợp hòa giải trở nên mong manh. Môn gay gắt,
quyết liệt: "...Ý chừng linh mục muốn chống đối với chúng tôi mãi mãi chăng? ... Nếu vậy chúng tôi sẽ
có cách"... "muốn đạo gì thì đạo, đã là công dân thì phải theo đúng pháp luật nhà nước" [80, tr.97]. 15
năm sau (1974) ông viết Cha và con và... đến năm 1984 ông lại cho ra đời Thờ
i gian của người và sau
đó hai năm là Điều tra về một cái chết cho thấy sự vận động trong quan niệm về tôn giáo và con người
tôn giáo của nhà văn. Nếu Xung đột đi vào tố cáo sự lỗi thời, bất lực của các thế lực Thiên Chúa giáo
thì đến Cha và Con và... nhân vật cha đạo không bị bôi nhọ, không bị hạ thấp về mặt nhân cách. Ngược
lại đó là một người tr
ẻ trung, tự trọng, tỉnh táo luôn muốn thay đổi những thứ cũ kĩ, trì trệ. Trong Xung
đột, các tu sĩ Thiên chúa giáo và lực lượng cách mạng hiện lên như một mâu thuẫn mang tính đối
kháng, những người Kitô hữu vừa muốn giữ đạo vừa muốn đến với cách mạng phải trải qua bao giằng
xé, vật vã thì trong hai tác phẩm sau này, Nguyễn Khải có những lí giải lí tình hơn: giáo hữu cũng là tế
bào trong cơ thể dân tộc. Cảm nhận của nhà văn về các tu sĩ không nặng nề, ít nhiều phiến diện ở góc
độ quan sát địch - ta, các thôn xóm Thiên Chúa giáo toàn tòng không mụ mị trong đám mây cuồng tín.
Điều cha Thư (Cha và con và...) chiêm nghiệm: "Đi với giáo hữu, tuân theo ý muốn của giáo hữu sẽ
hoà hợp được với tất cả
, vì giáo hữu là nền tảng, là cội nguồn. Cách mạng cũng từ đấy mà có. Hội
Thánh cũng từ đấy mà có, không có gì trái ngược" [76, tr.746]. Tất cả những gì nhà văn viết trong Cha
và con và..., Thời gian của người là hết sức mới mẻ, khẳng định cái hôm nay của năm 1978,1983 (khi
viết hai tiểu thuyết trên) đã khác xa cái hôm nay của năm 1959,1960 (khi viết Xung đột). Điều đó nói
lên khả năng phát hiện, ý thứ
c tôn trọng lịch sử khách quan và dũng lực của ngòi bút Nguyễn Khải -
nói như Hà Minh Đức - nhà văn đã "miêu tả quá khứ để có cách nhìn đánh giá thỏa đáng với những
vấn đề đã qua và góp phần với hiện tại" [19, tr.207]. Qua Thời gian của người và Điều tra về một cái
chết, nhà văn đã có một cái nhìn khác, khá sâu về tôn giáo. Nhà văn cho rằng tôn giáo là một nhu cầu
về tinh thầ
n, nó có thể giúp con người vươn tới Chân - Thiện - Mĩ. Tôn giáo chân chính là "sự thăng
hoa" của tâm hồn con người, tôn giáo chân chính là giá trị văn hóa của nhân loại. Trong con mắt ông
giờ đây con người tôn giáo chân chính là con người cao quý, con người có khả năng dân hiến cho đồng
loại. Thái độ của ông đối với họ là sự tôn trọng, ngưỡng mộ chân thành.
Trong vở kịch Cách mạng, ông viết về những cuộc tranh luận trong một gia đình khi quân giải
phóng b
ước vào thực hiện chế độ quân quản Sài Gòn. Đó là phản ứng của những lớp người ở các lứa
tuổi khác nhau, có số phận khác nhau nhưng cùng ở trong một thế kẹt khi bị rơi vào những biến động
của lịch sử. Đây là tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự cuồng nhiệt của Nguyễn Khải khi khai thác những
cùng quẫn, bất lực mà con người phải chịu
đựng. Ông hăng hái xé toạc tấm màn, phơi bày mọi xấu xa,
dơ bẩn để những người trong cuộc nhận rõ bản chất mình và bản chất của mọi việc. Tiếp tục cái mạch
ấy, tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm là cuộc đối thoại giữa những người trí thức lựa chọn những con đường
hoàn toàn khác nhau. Những người thua cuộc càng nói càng quẫn quanh bế tắc, càng giãy gi
ụa càng lộ
ra những mưu đồ phản trắc, càng khinh bỉ lẫn nhau giữa những kẻ cùng hội cùng thuyền. Ban đầu khi
viết về những người từng sống ở một chế độ có quan điểm và lập trường khác biệt, ông thường trêu
chọc, móc máy để chứng tỏ cái hướng đi đúng đắn của mình. Đó là những cuộc trò chuyện có phần gay
gắt giữa những ngườ
i đang đứng ở hai phía đối lập trong tư tưởng, về sau các cuộc trò chuyện đã diễn
ra bình tĩnh, thoải mái và tin cậy hơn giữa những người cùng thời, tuy có thể có lập trường quan điểm
khác nhau nhưng đều cùng chung một mối quan tâm tới số phận con người, giúp ông suy ngẫm thêm
về cuộc đời. Ông đã ngộ ra rằng phải "mở rộng cái biết của mình ra nhiều lĩnh vực, thu
ộc nhiều xu
hướng khác nhau để có được sự rộng lượng với những người mãi mãi không thể giống mình" [47,
tr.47]. Từ tiếng cười giòn giã không kém phần tai ác để giễu chuyển sang xót xa, suy ngẫm và âm thầm
ngưỡng mộ nuối tiếc vẻ đẹp xưa. Một Nguyễn Khải của Một người Hà Nội, Một cõi nhân gian bé tí,
đã khác rất nhiều với Nguyễn Khải của Cách mạng, Gặp gỡ cuối năm, Khoảnh khắc đang sống.
Nguyễn Khải sau này thuyết phục người ta không chỉ bằng cái lí mà phầ
n nhiều là sự trải nghiệm,
khoáng đạt, độ lượng. Những câu chuyện Nguyễn Khải viết về Hà Nội, chuyện nào cũng tràn đầy yêu
thương, trân trọng và kính phục, từ "bà cô tôi" trong Nếp nhà, cô Hiền trong Nắng chiều, đến các danh
sĩ Bắc Hà thời nay như Hồ Dzếnh, Kim Lân... Người nào cũng đẹp, cũng có một nhân cách vững vàng
trước sự thay đổi bể dâu của cuộc đời. Ông tìm thấy bà Hiền - “h
ạt bụi vàng” của đất kinh kì giữa bao
nhiêu bụi bặm xô bồ nhốn nháo trong buổi giao thời để mà ước ao “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu
đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng” [85,
tr.339].
Chính những thay đổi ấy nơi ông đã được mọi người tích cực ghi nhận. "Nguyễn Khải đã có một
sự điều chỉnh không ít trong cách nhìn con người "ở phía bên kia", những con ng
ười mà một thời
chúng ta quan niệm là những nhân vật tiêu cực, nhân vật phản diện. Trong khi miêu tả và thể hiện, đa
phần họ được vẽ bằng những nét bút biếm họa hoặc công thức giản đơn, sơ lược, như những cái máy
vô cảm, vô hồn" [24]. Nguyễn Khải bộc bạch: "Lắm ngày ngồi đọc lại hay nghĩ về những tác phẩm đã
viết trong mấy chụ
c năm qua, nhiều trang viết vẫn còn làm tôi hãnh diện và có nhiều trang viết làm tôi
xấu hổ và rất buồn. Những trang viết chủ quan, kiêu ngạo chỉ khẳng định một niềm tin, một lẽ sống, rồi
dạy dỗ, lên án, rồi chế giễu tất cả những gì khác biệt với mình, đọc lại thấy đáng sợ" [51, tr.428].
Nguyễn Khải đã chia sẻ trong Chuyện nghề: "Những trang viết hay t
ất nhiên rất dễ nhận ra là con đẻ
của mình. Nhưng những trang viết dở cũng vẫn là tôi viết cũng chả nên tự trách. Nhận thức là một quá
trình, năm ấy chỉ nghĩ được đến thế thì viết như thế. Còn bây giờ cuộc sống đã mở ra thêm những chân
trời mới, có những quan điểm mới nên cái sự hiểu việc hiểu người của tôi cũng khác trước. Ngh
ĩ khác
tất sẽ viết khác" [51, tr.428].
1.2.2.3 Kiểu nhân vật thích ứng:
Nhà văn đặc biệt yêu thích loại nhân vật có khả năng thích ứng với thời thế. Cơ sở để lựa chọn
một cách sống và kiên trì theo đuổi lí tưởng đó là sức mạnh truyền thống muôn đời, là bản lĩnh, sức
mạnh nội lực vượt lên hoàn cảnh, biết sống vì mình và vì người để chiến thắng bản thân và chiến thắng
cuộc đời. Những nhân vật tr
ẻ, khỏe đóng vai trò chính trong cuộc sống tương lai luôn hút lấy cả tâm trí
của tác giả. Họ là một lớp trẻ táo bạo, quyết liệt, sòng phẳng, luôn muốn dứt tung ra khỏi khuôn phép
cũ. Họ xa lạ với lối sống thụ động, nhạt nhẽo, với sự hưởng thụ ích kỉ. Những năm tháng ấy con người
đã vượt ra khỏi kích thước thông thường là cái “cơ cấu sinh lí” của nó để “vươn tới cái tuyệt đối, cái
vô biên, cái vĩnh cửu”, là những năm tháng nổ bùng ra mọi năng lượng, mọi tính năng, vượt rất xa cái
giới hạn của mình để làm nên những kích thước mới.
Xung đột tập trung giải quyết “vấn đề xứ Hỗ”, những vấn đề chính trị rắc rối nhấ
t của huyện,
của tỉnh. Đó là những năm tháng các thế lực phản động nhân danh Chúa nổi lên kết bè kết đảng hòng
lung lạc, lật đổ chính quyền nhân dân, buộc những người đại diện chính quyền xã (Môn, Nhàn, Thụy)
cũng phải thể hiện hết bản lĩnh chính trị và năng lực của mình. Trong bộ ba ấy, Môn nổi bật lên ở giác
quan chính trị nhạy bén và ý thức đấu tranh không khoan nhượng với k
ẻ thù. Trong lãnh đạo Môn có
tính quyết đoán dám làm dám chịu, có khi ý kiến Ủy ban chưa thống nhất nhưng anh vẫn nhân danh
chính quyền giải quyết theo cách của mình (tuân thủ chính sách, pháp luật và lẽ phải). Những nhiệt tình
cống hiến cho sự nghiệp chung của Môn làm người ta không thể ngờ rằng trong cải cách ruộng đất anh
cũng từng bị tù, tài sản bị tịch biên, con ốm không tiền chạy thuốc và vợ anh có lúc bị quẫn trí điên dạ
i.
Nhưng sau sửa sai, Môn lại hăm hở ra gánh vác công việc của xã mặc vợ phản đối quyết liệt. Tính cách
mạnh mẽ, triệt để, tư tưởng thẳng băng ở Môn, đã tạo cho anh có đủ bản lĩnh và khả năng đáp ứng yêu
cầu Cách mạng đặt ra lúc đó. Môn trở thành “đối thủ xứng đáng nhất” của lũ cha cố phản động.
Đến Chủ t
ịch huyện vấn đề đặt ra là phẩm chất đạo đức Cách mạng, năng lực chỉ đạo sản xuất
của người cán bộ nông thôn trong tình hình mới. Một loạt các cán bộ lãnh đạo nông thôn được phác
họa. Chủ tịch xã An rất tháo vát nhưng thiếu sự khiêm tốn, chưa thấy được sự hữu hạn của trí lực mình.
Chủ tịch huyện Hiệp luôn quả quyết trong hành động như
ng lại không đủ tỉnh táo giữ vững ranh giới
giữa nguyên tắc và nhân nhượng. Bí thư đảng ủy xã Khang là người quá tốt nhưng lại thiếu năng lực.
Để có được cái kết luận tư tưởng mỗi con người cần phải vượt qua được chính mình tức là vượt qua cái
hạn chế của bản thân để đóng góp cho lợi ích chung thì mới mong đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của
cuộ
c sống trong điều kiện vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu. Trên con đường tìm đến cái lí tưởng đó
trong đầu Hiệp thường xuyên xảy ra cuộc tranh luận gay gắt giữa mình với mình, tự mình kết luận
những việc làm của mình. Ông luôn luôn tự vấn giữa đúng hoặc sai: thái độ thiếu kiên quyết của mình
đối với những lỗi lầm của mình với chủ tịch xã Đàm là
đúng hay sai? Việc mình ủng hộ, khuyến khích
những cách làm táo bạo của Chủ tịch xã An là đúng hay sai? Rồi ông “khắc khoải phác họa một kế
hoạch sửa chữa sai lầm” mặc dù chính ông “vẫn chưa nhận ra mình đã có sai lầm gì, mà chỉ có ấn
tượng chắc chắn đã mắc nhiều sai lầm”.
Hay trong tác phẩm Người trở về, con đường để tư tưởng được thay đổi và thích
ứng như đã được sắp
đặt sẵn. Các tình huống diễn ra như để phục vụ cho sự thay đổi cách nhìn của Khang – anh thanh niên
thuộc tầng lớp trung nông đi bộ đội về, đối với quê hương và con người nơi đây. Anh đã hình dung sẵn
về một quê hương hoàn hảo theo tưởng tượng của anh nên thấy bản danh sách ứng cử viên bầu cử hội
đồng nhân dân xã và huyện viết không theo thứ tự a, b, c rồi hô chào cờ khi chỉ có mười cử tri đến thì
lấy làm khó chịu. Rồi bà đội trưởng sản xuất tiên tiến có đôi môi thâm cứng vì ăn trầu, quần áo lại xộc
xệch khiến Khang nghi ngờ khả năng áp dụng kĩ thuật mới c
ủa bà. Anh lại cho rằng cô người yêu sắp
cưới của mình là người quá cũ. Cách nhìn một mặt, nặng về hình thức bên ngoài đã khiến anh rất khó
khăn nhận ra tính chất tốt đẹp của ý thức làm chủ đất nước của nhân dân lao động trong những buổi
đầu bầu cử, bà đội trưởng tuy có bề ngoài luộm thuộm ấy lại có rất nhiều kinh nghiệm quản lí, và người
vợ chưa cưới c
ủa Khang thì dám chủ động cắt đứt quan hệ với anh khi biết bị khinh rẻ. Anh lại bắt đầu
tuy khó khăn nhưng đầy ý thức để thấu hiểu bài học cuộc đời và sống thích ứng nhất với nó. Và như
thế Người trở về đã nêu lên được phải có một cái nhìn, thái độ đúng đắn thì mới hiểu được cuộc sống
nông thôn. Chỉ tiếc rằng cái nhìn đó hơ
i thiếu tự nhiên vì có bàn tay tham gia sắp đặt hơi nhiều của
chính tác giả.
Đây là loại nhân vật hiếu thắng, thích ứng mọi nghịch cảnh bằng niềm tin mạnh mẽ sẽ xoay
chuyển được tất cả bằng nghị lực và sự sáng suốt của mình vì đó là thời của họ. Nhưng càng về sau các
nhân vật hầu như đều nếm trải những nỗi niềm của từ
ng thân phận riêng, không thể vin vào sức mạnh
của tập thể, của thời đại để hà hơi tiếp sức cho mình. Sức mạnh của những người sáng nghiệp sử, của
những người không nghĩ đến cái riêng tư đã không còn nữa. Họ trở lại làm những cá nhân bình thường
với những khao khát và bất lực không sao tránh khỏi. Ta gặp lại những kiếp người khốn khổ, những số
ph
ận bị ông trời bày trò chơi khăm đến cùng. Ta bắt gặp những người đàn bà cả đời chỉ biết hầu hạ
chồng con mà số phận vẫn kiếm cớ hành hạ. Hay có người cả đời chỉ tìm lẽ sống an hòa, nhân nhượng,
biết điều mà chẳng bao giờ có được sự yên ổn. Những con người ấy phải làm sao để gượng dậy, phải
làm sao để thích ứng?
Đứng trước những biến cố quá lớn lao của bản thân cũng như thời cuộc, một con
người nhỏ bé làm thế nào để đưa ra được quyết định đúng đắn và chính xác? Đứng trước một thực tế
hoàn toàn thay đổi, những kinh nghiệm bao năm tích lũy dường như cũng thành ra cũ kĩ chẳng còn hữu
dụng, người trong cuộc sao tránh được cảm giác tất cả như sụp
đổ. Nguyễn Khải luôn đau đáu trước
câu hỏi đó. Làm thế nào để con người tìm được sự thăng bằng ngay trên mặt đất này chứ không phải
che giấu mình, cũng không phải sống chập chờn lơ lửng? Tác giả nhìn thấy một sức sống dẻo dai, một
thái độ tận tụy và tha thiết với cuộc sống. Dường như ở trong những con người bình thường ấy có một
lẽ sống thâm trầm và cao xa. Họ không cố tiêu diệt cái xấu xa mà chấp nhận nó như một sự bất toàn
của cuộc đời và chính mình. Nhưng không vì thế họ đánh mất đi cái đẹp của riêng mình. Họ dùng tình
yêu thương để hàn gắn lại những sứt mẻ, những tàn nhẫn và bất công. Họ thích ứng với hoàn cảnh
không phải vì hèn mà là biết nhượng bộ trong khi vẫn vượt lên hoàn cảnh bằng nhân cách của mình. Sự