Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiểu luận phân tích và chứng minh những ảnh hưởng của môi trường hoạt động quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh đến sự thay đổi trọng tâm của kế toán quản trị trên thế giới qua các giai đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.73 KB, 24 trang )

Tiểu luận
PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI
TRƯỜNG, HOẠT ĐỘNG, QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH ĐẾN SỰ THAY ĐỔI TRỌNG TÂM CỦA KẾ TOÁN QUẢN
TRỊ TRÊN THẾ GIỚI QUA CÁC GIAI ĐOẠN.

DANH SÁCH NHÓM 1
1. Nguyễn Anh Vũ (nhóm trưởng)
2. Nguyễn Thị Thu Nga
3. Huỳnh Thị Xuân Thùy
4. Trần Thị Bảo Trâm
5. Phan Thị Sen
6. Đặng Thị Thanh Thảo
7. Bùi Thị Hoàng Yến
8. Huỳnh Thị Hoàng Yến

1


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1 Lịch sử phát triển của kế toán quản trị
Trên thế giới:
Kế toán quản trị đã từng xuất hiện rất lâu trong hệ thống kế tốn doanh nghiệp ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển ở vào những năm cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ
19;
- Đầu tiên, kế tốn quản trị xuất hiện dưới hình thức kế tốn chi phí trong doanh
nghiệp sản xuất nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin chủ yếu cho những nhà quản trị
trong nội bộ doanh nghiệp sản xuất kiểm soát chi phí, định hướng sản xuất để nâng cao
năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, để doanh nghiệp chống đỡ sức
ép từ các doanh nghiệp lớn;
- Sau đó, với thực tiễn hữu hiệu, hiệu quả, kế toán quản trị bắt đầu được chú ý, áp


dụng, phát triển rất nhanh trong những loại hình doanh nghiệp khác và cả trong những tổ
chức phi lợi nhuận như các cơ quan của Nhà nước, bệnh viện, trường học...
- Ngày nay, kế tốn quản trị có xu hướng hình thành, phát triển trước trong những
doanh nghiệp lớn có trình độ khoa học - kỹ thuật - quản trị tiên tiến, điều kiện cơ sở vật
chất hiện đại và s au đó mở rộng sang những doanh nghiệp nhỏ, khoa học - kỹ thuật quản trị, điều kiện cơ sở vật chất lạc hậu (H.Thomas Johnson, Robert S.Kaplan (1987),
Relevance lost the rise and fall of management Accounting, Harvard Business School
Press).
Ví dụ: Kế toán quản trị trong doanh nghiệp ở các nước như Nhật, Trung Quốc,
Singapore, Malaysia, Thái Lan, (Akira Nishimura (2003), Management accounting feed
forward and asian perspectives, Palgrave Macmillan, First Puplished, Freface and
Acknowledgements ).
- Tương lai, kế toán quản trị chuyển sang một kỷ nguyên mới, rất gần với quản trị, là
một công cụ hợp nhất giữa chiến lược kinh doanh với thị trường, hợp nhất giữa kiểm
2


sốt, thơng tin phản hồi với thơng tin định hướng (Akira Nishimura (2003), Management
accounting feed forward and asian perspectives, Palgrave Macmillan, First Puplished) và
là một bộ phận thiết yếu của quản trị, kế toán chiến lược (Timothy Doupnik, Hector
Perera (2006)) Internatioanal Accounting, Mc Graw -Hill Companies).


Xét về nội dung thông tin kế tốn quản trị, q trình hình thành, phát triển

kế toán quản trị trong doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn cơ bản với những nội dung
khác nhau:
- Giai đoạn thứ nhất, khoảng trước những năm 1950, kế toán quản trị được xem như
là một phương pháp kỹ thuật xác định, phân bổ chi phí sản xuất để tính giá vốn sản phẩm
chế tạo, giá vốn hàng bán và lập dự tốn chi phí sản xuất nhằm cung cấp thơng tin tài
chính cho nhà quản trị kiểm sốt chi phí, định hướng sản xuất;

- Giai đoạn thứ hai, khoảng những năm 1965 cho đến nay, kế toán quản trị được xem
như là chun mơn kế tốn phản ảnh, cung cấp tồn diện thơng tin kinh tế, tài chính cho
nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị doanh nghiệp trong nội bộ.


Xét về trọng tâm thông tin, quá trình hình thành, phát triển kế tốn quản trị

trong doanh nghiệp trải qua 4 giai đoạn cơ bản với các trọng tâm thông tin khác nhau
(Management accounting concepts) :
- STAGE 01- : Trước những năm 1950 - Cos t determination and financial control;
- STAGE 02 : vào những năm 1965 - Information for management planning and
control;
- STAGE 03 : vào những năm 1985 - Reduction of waste of resource in business
proces ses;
- STAGE 4 : vào những năm 1995 - Creaction of value through effective resource
us e.
Sự phát triển kinh tế, xã hội dẫn đến hình thành những nhận thức khác nhau về kế
tốn, kế tốn quản trị và chính nền kinh tế thị trường đã làm nổi bật nhu cầu về kế toán
3


quản trị, thúc đẩy phát triển kế toán quản trị, thông tin phục vụ cho nâng cao năng lực
quản trị - cạnh tranh để bổ sung toàn diện, hoàn thiện hơn hệ thống thơng tin kế tốn
trong mơi trường sản xuất kinh doanh thay đổi rất nhanh.
Kế toán quản trị được xem như là quy trình định dạng, thu thập, kiểm tra, định tính,
định lượng để trình bày, giải thích và cung cấp thơng tin kinh tế tài chính về hoạt động
của doanh nghiệp cho những nhà quản trị trong nội bộ doanh nghiệp thực hiện toàn diện
các chức năng quản trị doanh nghiệp.
1.2 Định nghĩa:
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kế toán quản trị:

Theo tác già Robert S.Kaplan và Anthony A. Atkinson trong cuốn “Advanced
Management Accounting” đã định nghĩa về kế toán quản trị như sau “Hệ thống k ếtốn
cung cấp thơng tin cho những người quản lý doanh nghiệp trong việc hoạchđịnh và kiểm
soát hoạt động của họ”.
Theo định nghĩa của Viện kế toán viên quản trị Hoa kỳ thì “Kế tốn quản trị là q
trình nhận diện, đo lường, tổng hợp, phân tích, soạn thảo, diễn giải và truyền đạt thông
tin được quản trị sử dụng để lập kế hoạch, đánh giá và kiểm tra trong nội bộ tổ chức, và
để đảm bảo việc sử dụng hợp lý và có trách nhiệm đối với các nguồn lực của tổ chức
đó”.
Theo Luật Kế tốn Việt Nam, “Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích và
cung cấp thơng tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính
trong nội bộ đơn vị kế tốn”
Tóm lại, tùy thuộc vào các quan điểm khác nhau, có thể định nghĩa khác nhau về kế
toán quản trị.Tuy nhiên sự khác nhau là khơng nhiều. Có thể nói, kế tốn quản trị không
chỉ đơn thuần là hệ thống thu thập và phân tích thơng tin về các khoản chi phí của doanh
nghiệp, mà còn là hệ thống tổ chức quản trị các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung,
kể cả quản trị chiến lược và hệ thống đánh giá hoạt động của các bộ phận, phòng ban
chức năng, nhằm đảm bảo sử dụng tối ưu các nguồn lực vật chất, tài chính và nhân lực.
4


1.3. Mục tiêu của kế tốn quản trị
Mục tiêu chính của kế tốn quản trị là cung cấp thơng tin cho lãnh đạo doanh nghiệp
để ra quyết định quản trị đúng và kịp thời, giúp lãnh đạo chủ động tham gia vào quá trình
quản trị hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Các mục tiêu của kế toán quản trị bao
gồm:
- Cung cấp thông tin: thu thập và cung cấp thông tin cần thiết cho lãnh đạo mọi cấp
nhằm hoạch định, đánh giá và quản trị các hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo việc
bảo tồn và tăng tài sản doanh nghiệp.
- Tham gia vào quá trình quản trị: Quá trình quản trị bao gồm ra quyết định chiến lược,

chiến thuật và tác nghiệp hành động phối hợp sức mạnh trong phạm vi doanh nghiệp nhằm
đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, chú trọng đến kết quả đạt được trong các
mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.

5


CHƯƠNG 2: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TRỌNG TÂM KẾ
TOÁN QUẢN TRỊ QUA CÁC GIAI ĐOẠN
2.1 Giai đoạn 1: Trước năm 1950
Từ sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 1 vào cuối thế kỉ 18 đến đầu thế kỉ 19
đã đặt ra nhiều thách thức đối với những người hành nghề kế tốn.
Nguồn gốc của kế tóan quản trị hiện đại có thể được xuất hiện từ sự hiện hữu của
các nhà quản trị các cấp ở các công ty từ rất sớm ở thế kỷ 19 chẳng hạn như các xưởng
chế tạo vũ khí và các xưởng dệt. Các công ty này được thnh lập để tổ chức điều hành và
kiểm sóat quản lý một hệ thống các giai đoạn chế biến trong quy trình sản xuất của một
tổ chức đơn lẻ. Các tổ chức đã tận dụng cơ hội trong việc giảm bớt chi phí sản xuất từ
việc cân đối các yêu cầu đòi hỏi vốn lớn tới việc th mướn các nhóm cơng nhân sản xuất
– những người tạo ra sản lượng của nhà máy. Thường thì, các thiết bị sản xuất hoặc nhà
máy thường đặt gần nguồn năng lượng sẵn sàng cho sản xuất chẳng hạn như nguồn nước
mạnh, địa thế tách rời các khu đơ thị, nhà văn phịng của các chủ sở hữu. Thông tin cần
thiết để thay thế cho các thông tin trước nay sẵn có từ các giao dịch thị trường vì thế hiệu
quả của quy trình sản xuất nội bộ có thể được đo lường từ việc di chuyển sản phẩm trong
nội bộ từ giai đoạn này đến giai đoạn khác. Và cũng thế, văn phịng muốn có một hệ
thống thông tin để thúc đẩy các giám đốc ở các nhà máy có v ị trí cách xa và để đánh giá
năng lực của các giám đốc và công nhân ở nhà máy. Như vậy, đối với một xưởng dệt, các
thước đo nội bộ đó là chi phí cho một đồng nhà xưởng, chi phí cho các giai đoạn riêng
biệt trong quy trình sản xuất như chải len, xe chỉ, dệt, và nhuộm vải.
Có lẽ, sự tác động lớn nhất để hệ thống kế tóan quản trị phát triển là từ sự phát triển
nhanh chóng và mạnh mẽ của ngành đường sắt từ giữa thế kỷ 19. Ngành đường sắt là một

trong những tổ chức lớn và phức tạp nhất lúc bấy giờ được tạo ra bởi con người, có hoạt
động được điều khiển và phối hợp từ tất cả các địa điểm với khoảng cách địa lý rộng lớn.
Rất may mắn, máy điện báo đã được phát minh trong cùng khoảng thời gian này, và nó
đã góp phần trong việc cung cấp năng lực cho việc truyền thông được nhanh chóng, với
6


giá rẻ giữa các vùng hoạt động có khoảng cách địa lý khá lớn. Các nhà quản trị ngành
đường sắt đã có ý tưởng mới trong việc phát triển phương thức tinh vi hơn để xử lý các
nghiệp vụ tài chính theo yêu cầu mở rộng hoạt động của họ. Các thước đo mới như chi
phí cho một tấn hàng tính theo một dặm vận chuyển; chi phí tính cho một hành khách cho
một dặm vận chuyển và các chỉ số hoạt động (chỉ số chi phí hoạt động so với doanh thu)
đã được triển khai và hỗ trợ đắc lực cho các nhà quản trị trong việc đánh gi hiệu quả hoạt
động của họ.
Có rất nhiều ý tưởng có tính chất sáng kiến của kế tóan quản trị đã được triển khai
bởi các nhà quản trị ngành đường sắt sau đó đã được ứng dụng và mở rộng hơn bởi các
nhà quản trị các công ty trong ngành công nghiệp sắt thép. Cụ thể như Andrew Carnegie
nổi tiếng trong việc có một nỗi ám ảnh về chi phí và với sự cố gắng liên tục để cải thiện
cấu trúc chi phí của đơn vị ơng ta đối với các đối thủ cạnh tranh:
Mỗi một bộ phận liệt kê toán bộ số lượng và chi phí vật tư và nhân công đã sử dụng
cho mỗi một đơn đặt hàng khi nó vừa được thực hiện. Các thơng tin (được sử dụng để
chuẩn bị) như báo cáo hàng tháng, hàng ngày thậm chí hàng giờ để cung cấp dữ kiện về
chi phí của quặng, đá vơi, than đá, than cốc, gang, gang kính, kim loại chịu lửa, nhin liệu
và nhân cơng cho mỗi tấn thanh sắt được sản xuất…
Những báo cáo về chi phí này được xem như những cơng cụ kiểm sóat sơ khai của
Carnegie. Chi phí ln là nỗi ám ảnh của Carnegie….Ông ta cứ mãi hỏi (những người
đứng đầu bộ phận) lý do về sự thay đổi chi phí đơn vị sản phẩm. Carnegie tập trung…
vào mảng chi phí cho các tỷ số hoạt động, so ásnh chi phí hiện hành của từng đơn vị sản
phẩm với chi phí của tháng trước và với bất cứ ở đâu có thể, với chi phí này của các
cơng ty khác… Thật ra, một lý do để Carnegie liên kết kinh doanh với Bessemer là để anh

ta có cơ hội nhận diện được các khoản chi phí của đối thủ cạnh tranh của mình. Những
điều này quả là hiệu nghiệm trong việc kiểm sóat chi phí … Các khoản chi phí chi tiết về
vật liệu và nhân công trong mỗi bộ phận xuất hiện từ ngày này đến ngày khác, từ tuần
này đến tuần khác trong các tài khoản; được mọi người ở bộ phận đã tạo ra và chẳng
mấy chốc sẽ được nhận diện.
7


Thêm vào với việc sử dụng bảng kê chi phí để đánh giá sự thực hiện công việc của
các giám đốc bộ phận, tổ trưởng và công nhân, Carnegie (và Tổng giám đốc của anh ta)
dựa vào đó để kiểm tra chất lượng và việc kết hợp các nguyên vật liệu thô. Họ sử dụng
chúng để đánh giá việc cải tiến quy trình sản xuất và đưa ra quyết định cho việc phát
triển sản phẩm phụ thu được từ việc sử dụng các nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất.
Về giá cả, khi các mặt hàng đặc biệt không được chuẩn hóa và khơng thể sản xuất hàng
loạt thì các bảng kê chi phí quả là vơ giá.
Trong tất cả các thí dụ trên ở cơng ty dệt, ngành đường sắt, các công ty thép và các
tổ chức bán lẻ, các nhà quản trị công ty đã phát triển các thước đo để ước lượng hiệu quả
điều hành hoạt động doanh nghiệp. Họ đã ít quan tâm đến thước đo về chi phí của các sản
phẩm khác nhau hay thậm chí cả “lợi nhuận” hàng kỳ của cơng ty. Các tổ chức này đã chỉ
xử lý có hiệu quả các sản phẩm tương đối đồng nhất: biến đổi nguyên vật liệu thành sản
phẩm cuối cùng như vải hoặc thép, vận chuyển hành khách hoặc hàng hóa, hoặc bán lại
hàng hóa đã mua. Nếu các hoạt động cơ bản được thực hiện có hiệu quả, thì các nhà quản
trị tin tưởng rằng cơng ty sẽ có lãi. Các thước đo được khai triển đã được cụ thể hóa đối
với dạng sản phẩm và quy trình của tổ chức, nhưng đã có một đặc tính phổ biến, họ đo
lường hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực đầu vào để sản xuất sản phẩm hòan thành
hoặc doanh thu. Cho dù quy trình sản xuất sản phẩm của các tổ chức này hịan tịan phức
tạp, bao gồm nhiều giai đoạn cơng nghệ chế biến, các tổ chức này vẫn có một số ít sản
phẩm trọng tâm cho phép họ sử dụng những bản tóm tắt đơn giản về đầu ra. Đầu ra của
các công ty dệt là mét vải; của ngành đường sắt là tổng số tấn-km, hoặc cước phí vận
chuyển; đối với các cơng ty thép là tấn thép cịn đối với các tổ chức bán lẻ là đồng (doanh

thu). Vì thế, chi phí sản phẩm có thể được sử dụng cùng với các thước đo tương tự để
thúc đẩy và đánh giá hiệu quả điều hành hoạt động của các nhà quản trị .
Lúc này nhiệm vụ của nhân viên kế tốn khơng cịn là việc ghi bút tốn kép một
cách đơn thuần nữa mà họ được yêu cầu phải làm sao đơn giản hóa thơng tin, cung cấp
thơng tin để có thể kiểm sốt được chi phí và định giá bán sản phẩm. Cũng vào thời điểm
này, thuật ngữ "kế toán quản trị" chưa xuất hiện trong hệ thống Anglo - Saxon nhưng thay
8


vào đó thuật ngữ "kế tốn chi phí" đã xuất hiện để định nghĩa quy trình tính tốn chi phí,
xác định giá thành, kiểm sốt tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù kế toán quản
trị chưa được ghi nhận đến thời điểm trước thế kỉ 19, nhưng công việc thu thập, xử lý các
thông tin kinh tế tài chính đã có và những người chủ kinh doanh đã biết sử dụng những số
liệu thông tin kinh tế trong q khứ để lập dự tốn cho kì hoạt động kế tiếp. Đỉnh cáo là
vào năm 1920, ông Donaldson Brown , gíam đốc tài chính của cơng ty Dupont đã giới
thiệu cơng thức tính tốn tỷ lệ ROI. Sau đó, các công ty Dupont và Geeral Motor đã
tuyên bố là người tiên phong trong việc áp dụng một số kỹ thuật phân tích trong cơng tác
quả trị của mình.
Tuy nhiên trong thời kì này dù có nhiều bằng chứng chứng minh cho sự xuất hiện
của lĩnh vực kế toán quản trị nhưng trong xã hội bấy giờ kế toán quản trị chưa xuất hiện
nổi bật, mà tiềm ẩn dưới dạng kế tốn chi phí như là một hoạt động kỹ thuật cần thiết để
đảm bảo đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.
2.2 Giai đoạn 2: Từ năm 1956 đến cuối năm 1980
Từ những năm 50, thế giới đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của chủ nghĩa tư
bản.Thời kỳ này, các nước tư bản dựa vào cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật để phát
triển nền kinh tế một cách nhanh chóng chưa từng thấy.Hệ thống thơng tin kế toán quản
trị càng được yêu cầu nhiều hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.Từ mục tiêu là xác
định và kiểm sốt chi phí, kế tốn quản trị được yêu cầu cao hơn là hoạch định và kiểm
soát quản lý. Để đáp ứng kịp thời các nhu cầu hiện tại, quyển sách đầu tiên về kế toán
quản trị của Robert Anthony được xuất bản vào năm 1956 như là một dấu mốc quan

trọng của sự ra đời kế toán quản trị. Quyển sách này tập trung vào ba vấn đề chính: Giới
thiệu kế tốn quản trị là gì, làm thế nào có thể hệ thống và phân tích vấn đề mới để ra
quyết định, giới thiệu các công cụ kiểm sốt chi phí thích hợp. Từ sau khi có sự giới thiệu
về kế toán quản trị của Robert Anthony thì nhiều cơng cụ kế tốn quản trị đã được phát
triển trong suốt giai đoạn này.Có thể thấy rõ tại các cơng ty của các nước nói tiếng Đức,
kế tốn quản trị cịn được tách riêng với kế tốn tài chính thành một bộ phận quan trọng
của cơng ty.Đối với các công ty ở các nước này hệ thống kế tốn tài chính và kế tốn chi
9


phí được hoạt động độc lập, với một mơ-dun kết hợp hài hòa đã cung cấp cả hai bộ báo
cáo vào cuối năm khi lập báo cáo tài chính. Nhưng hầu hết các cơng ty ở phía Tây Đức ở
đầu thế kỷ dường như phải giải quyết vấn đề khi chi phí của thơng tin thì cao và tính đa
dạng của quy trình sản xuất thấp thì lợi ích của việc duy trì hai bộ phận kế tốn - một để
báo cáo cho các thành phần bên ngoài và một để hỗ trợ cho việc ra quyết định trong nội
bộ doanh nghiệp có chi phí q cao so với lợi ích mang lại.
Việc ghi nhận, xử lý thơng tin có chi phí khá cao, cùng với việc báo cáo chậm chạp,
khơng chính xác ở các cơng ty có dây chuyền sản xuất đồng nhất buộc các công ty cố
gắng điều hành hoạt động của họ với cùng một hệ thống thông tin được sử dụng để báo
cáo cho các thành phần bên ngồi. Theo cách đó, chi phí sản xuất được tính tốn dựa vào
việc tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung theo mức trung bình và kiểm sốt chúng
bằng cách tính tốn các khoản sai biệt hàng tháng từ sổ cái tổng hợp của kế toán tài
chính.
Có thể thấy, sự quan tâm của kế tốn quản trị đã được chuyển biến mạnh mẽ vào việc
cung cấp thông tin cho hoạt động lập kế hoạch và kiểm sốt của nhà quản trị, thơng qua
việc sử dụng các kỹ thuật như phân tích để ra quyết định và kế tốn trách nhiệm. Sự phát
triển cơng cụ kế tốn quản trị đã phản ánh được các lý thuyết kinh tế nhưng tất cả đều
dựa trên ba giả thuyết cơ bản:
- Các hoạt động diễn ra hàng ngày ở các cấp quản lý và điều hành.
- Môi trường kinh tế bên ngồi ổn định, ít chịu tác động của giá và nhu cầu thị trường.

- Mục đích chủ yếu của kế toán quản trị là phục vụ cho việc ra quyết định.
Chính các giả thuyết này đã khiến cho các kỹ thuật quản trị mới bị giới hạn xung
quanh việc là làm sao xây dựng được công cụ phục vụ cho việc ra quyết định, làm sao
giải quyết những vấn đề truyền thống là tăng lợi nhuận và tăng tính hiệu quả. Ngoài ra,
những kỹ thuật mới trong thời kỳ này khơng xem xét các yếu tố bên ngồi doanh nghiệp
như những thay đổi về công nghệ, những thay đổi về nhu cầu sản phẩm hay những sáng
tạo của đối thủ cạnh tranh…
10


Nói chúng, đặc điểm của kế tốn quản trị trong giai đoạn này là sự định hình lại lĩnh
vực kế tốn quản trị đã có từ trước, giới thiệu các lý thuyết kinh tế để khẳng định và bổ
sung cho các ngun tắc kế tốn quản trị có thể cung cấp các mơ hình và các cơng cụ
hiệu quả để hỗ trợ cho nhà quản trị trong việc ra quyết định. Vì thế, trong giai đoạn này,
kế tốn quản trị chỉ dừng lại ở vai trò là một hoạt động quản lý gián tiếp.Kế toán quản trị
mang ý nghĩa như là sự hỗ trợ từ một nhà quản trị gián tiếp đối với nhà quản trị trực tiếp
thông qua việc cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và ra quyết định.
2.3 Giai đoạn 3: Từ năm 1980 đến cuối năm 1995
Xét về mặt xã hội:
Đây là thời kỳ của sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, sự tồn cầu hóa
kinh tế ngày càng nhanh chóng, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp… Vì vậy,
kế tốn quản trị khơng cịn dừng lại ở vị trí là một phần của kế tốn tài chính, tham gia
gián tiếp vào quản lý mà trở thành một bộ phận cấu thành quá trình quản lý để tất cả các
nhà quản lý có thể tiếp cận với thơng tin. Trong xu thế đó, kế tốn quản trị được đòi hỏi
phải phục vụ sao cho tốt nhất các cơng việc dự báo, tổ chức điều hành, kiểm sốt và ra
quyết định.Chính nhu cầu thơng tin này đã hình thành nên ngành kế tốn quản trị riêng
biệt. Từ đó, ngành kế tốn bắt đầu hình thành hai thái cực cơ bản và phát triển nhanh
chóng:
Một là, cung cấp thơng tin về trách nhiệm vật chất – pháp lý của doanh nghiệp nhằm
đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của các cá nhân, doanh nghiệp có quyền lợi kinh tế liên

quan.
Hai là, cung cấp thông tin cho công việc quản trị các hoạt động trong doanh nghiệp
của các nhà quản trị như lập kế hoạch, tổ chức điều hành, kiểm tra và ra quyết định.
Đây chính là nền tảng hình thành nên sự tách rời kế toán thành kế toán tài chính và
kế tốn quản trị để đẩy nhanh sự phát triển và tính hữu ích của kế tốn quản trị ở những
nước phát triển, những doanh nghiệp có quy mơ lớn, có sự phân quyền, phân cấp trong
quản lý.
11


Xét về mặt khoa học:
Vào những năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ 20, những nhà nghiên cứu và những
người thực hành kế toán quản trị nhận thấy những nội dung của kế tốn quản trị trước đây
khơng cịn thích hợp để giải quyết các vấn đề mà nhà quản trị phải đối mặt. Vì vậy, các
nhà nghiên cứu về kế toán quản trị bắt đầu mở rộng hướng nghiên cứu kế toán quản trị
sang:
 Mở rộng kế tốn quản trị sang lĩnh vực phi tài chính;
 Tìm hiểu nhiều hơn về những vấn đề đương thời và nhu cầu thông tin của nhà
quản trị để xây dựng mơ hình kế tốn quản trị phù hợp hơn;
 Các hướng dẫn thực hành đổi mới hơn
Khoảng thời gian từ năm 1980 đến năm 1995 được xem như một “luồng gió mới”
thổi vào kế tốn quản trị làm cho kế toán quản trị phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Kế toán quản trị tập trung quan tâm vào việc làm giảm hao phí nguồn lực sử dụng
trong các q trình hoạt động sản xuất kinh doanh, thơng qua việc sử dụng các kỹ thuật
phân tích q trình và chuyển từ kế tốn chi phí sang quản trị chi phí.
2.4. Giai đoạn 4: Từ năm 1995 đến nay
Từ năm 1995 đến nay, kế toán quản trị chuyển sang quan tâm đến việc tạo ra giá trị
bằng cách sử dụng hiệu quả các nguồn lực thông qua việc sử dụng các kỹ thuật đánh giá
các yếu tố tạo nên giá trị cho khách hàng, giá trị cho cổ đông, sự thay đổi trong quy trình
hoạt động kinh doanh nội bộ và học hỏi – phát triển.

Trọng tâm giai đoạn 4là cung cấp thông tin tạo ra giá trị mới sử dụng hiệu quả nguồn
lực kinh tế.
Ví dụ: Thay vì trước kia: 1 lượng nhựa dùng để sản xuất được 1 cây viết -> bán được 5
đồng. Giờ đứng trên góc độ quản trị thì nhà quản trị sẽ suy nghĩ lại xem 1 lượng nhựa này
ngồi làm vỏ bút thì có làm gì khác để bán cao hơn thay vì trước đó giai đoạn 3: xem xét
lượng nhựa giảm xuống 90g /cây viết thay vì 100g/ cây viết.
12


Tóm lại, tuy q trình hình thành và phát triển của kế toán quản trị được ghi nhận
thành bốn giai đoạn, nhưng chúng ta có thể thấy được những điểm quan trọng trong quá
trình này như sau:
Những điểm quan trọng trong quá gia đoạn 4:
 Sự thay đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đó là q trình đàn xen vào nhau và
chuyển hoá dần dần.
 Mỗi giai đoạn của q trình phát triển thể hiện sự thích nghi với giai đoạn mới đặt ra
cho các doanh nghiệp và một khi các doanh nghiệp thay đổi theo điều kiện mới thì kế tốn
quản trị cũng thay đổi theo.
 Mỗi giai đoạn là sự kết hợp giữa cái mới và cái cũ, trong đó cái cũ được kết cấu lại
để phù hợp với cái mới theo ý nghĩa các điều kiện mới của môi trường quản trị.

13


CHƯƠNG 3: PHÁT TRIỂN CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ Ở CÁC
NƯỚC
Kế tốn quản trị (KTQT) đã hình thành, phát triển vơ cùng nhanh chóng về lý luận,
thực tiễn trong các doanh nghiệp (DN) trên thế giới. Q trình đó vừa tạo nên những
điểm chung và khuynh hướng riêng của mỗi DN và ở từng nước.
3.1 Kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản xuất ở Anh, Mỹ

KTQT trong DN sản xuất ở Anh, Mỹ là nền KTQT tiên phong trên thế giới với
khuynh hướng cung cấp thơng tin hữu ích, thiết lập các quyết định quản lý bằng những
mơ hình, kỹ thuật định lượng thông tin.
Nền kinh tế thị trường đã xuất hiện từ lâu ở Anh, Mỹ nên KTQT cũng xuất hiện rất
lâu trong DN sản xuất có quy mơ nhỏ dưới hình thức kế tốn chi phí; sau đó, để đáp ứng
nhu cầu thơng tin quản lý, sự chuyển biến DN sản xuất, KTQT tiếp tục phát triển với
những nội dung khác nhau. Q trình đó, KTQT đã trải qua bốn giai đoạn khác nhau: giai
đoạn 1- Thông tin để kiếm sốt và định hướng chi phí, s ản xuất; giai đoạn 2- thông tin
để hoạch định và kiểm sốt tài chính hoạt động SXKD; giai đoạn 3- thông tin để giảm
những tổn thất nguồn lực kinh tế sử dụng của quy trình SXKD; giai đoạn 4- Thơng tin để
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế tạo ra giá trị. Ngày nay, KTQT trong DN sản
xuất vẫn tồn tại thịnh hành những nội dung từ giai đoạn 2 trở đi, thường tập trung vào các
chủ đề như: khái niệm và phân loại chi phí, kế tốn chi phí và tính giá thành sản phẩm
theo cơng việc hoặc theo quy trình sản xuất, nhận thức cách ứng xử chi phí và phân tích
biến động chi phí, phân tích mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận, ảnh hưởng
phương pháp chi phí tồn bộ và phương pháp chi phí trực tiếp trong thiết lập cơng cụ
quản lý, kế tốn chi phí trên cơ sở hoạt động, dự tốn hoạt động SXKD, chi phí tiêu
chuẩn và sự cân bằng các nguồn lực kinh tế, dự toán linh hoạt và phân tích biến động chi
phí sản xuất chung, báo cáo bộ phận và các sự phân quyền trong một tổ chức, chi phí
thích hợp cho quyết định kinh doanh ngắn hạn, dự toán vốn đầu tư dài hạn, phân bổ chi
phí bộ phận trên cơ sở hoạt động, định giá sản phẩm dịch vụ, phân tích báo cáo tài chính.
14


Với sự đề cao vai trò cá nhân, vai trò của những nhà quản lý cao cấp, KTQT được xem
như một công cụ bổ khuyết thông tin quản lý nên KTQT trong DN sản xuất ở Anh, Mỹ
được thiết kế tập trung vào chủ đề phân tích thơng tin phục vụ cho các quyết định quản
lý, đề cao tính hữu ích của thông tin cho các quyết định quản lý hơn là xác lập một hệ
thống thơng tin tồn diện cho yêu cầu quản lý. Do đó, KTQT nổi lên hàng đầu với các mơ
hình, phương pháp kỹ thuật định lượng thông tin. Đồng thời, ở những nước này, KTQT là

công việc riêng của DN nên Nhà nước không can thiệp sâu vào chuyên môn, nghiệp vụ.
Những năm gần đây, mặc dầu vẫn duy trì khuynh hướng đặc trưng như trước nhưng kế
toán quản trị trong DN ở Anh, Mỹ đã xuất hiện một vài thay đổi về cấu trúc thơng tin,
nâng cao tính định tính của thơng tin, tính kiểm sốt để bổ sung cho những thiếu sót, lạc
hậu, không hữu hiệu so với thế giới. Trong suốt quá trình đó, KTQT ln được nhận thức
là một bộ phận chun mơn; tuy nhiên, tổ chức vận hành KTQT có những chuyển biến
khác nhau.Từ một bộ phận thuộc kế toán đến bộ phận thuộc Ban giám đốc.
3.2 KTQT trong DN ở các nước Châu Âu.
KTQT trong DN sản xuất ở các nước châu Âu như Pháp, Đức, Tây Ban Nha có đặc
trưng gắn kết chặt chẽ với kế tốn tài chính, đề cao thơng tin kiểm sốt nội bộ và có sự
ảnh hưởng đáng kể của Nhà nước.
Nền kinh tế thị trường đã xuất hiện khá lâu ở những nước Đơng Âu nhưng KTQT
trong DN hình thành, phát triển chậm hơn KTQT trong DN sản xuất ở các nước Anh, Mỹ.
Được hình thành với mục đích ban đầu chủ yếu là cung cấp thông tin để các cơ quan
quản lý chức năng của nhà nước giám sát chi phí hoạt động DN nên KTQT gần như là sự
chi tiết thêm thơng tin kế tốn tài chính, kế tốn chi phí khuôn mẫu. Kế tiếp, với nhu cầu
thông tin thực hiện các chức năng quản lý, KTQT ở những nước này đều có đặc điểm nổi
bật là được xây dựng gắn kết với kế tốn tài chính, quan hệ mật thiết với chính sách kế
tốn chung, chịu ảnh hưởng sự can thiệp trực tiếp bằng luật pháp của nhà nước và vẫn đề
cao thông tin định lượng, nhưng khuynh hướng trọng tâm là thơng tin kiểm sốt nội bộ.
Vì vậy, KTQT ở những nước này rất khuôn mẫu, phát triển khá chậm so với Anh, Mỹ.
Những năm gần đây, KTQT ở những nước này bắt đầu bắt nhịp phát triển với KTQT của
15


Anh, Mỹ, Nhật, cập nhật một số nội dung mới như: đưa ra bằng chứng giúp nhà quản lý
tìm được phương thức tốt nhất khai thác tiềm năng kinh tế phát triển DN trong tương lai,
nhận định tình hình tiến hành ở các trung tâm trách nhiệm quản lý để dự báo, điều chỉnh
hành động phù hợp với kế hoạch, giám sát tình hình hiện tại và tương lai của những nhà
quản lý ở từng bộ phận nhằm đảm bảo chiến lược, kế hoạch, và khai thác tốt nhất năng

lực các nhà quản lý, tiềm năng từng bộ phận trong cấu trúc tổ chức hoạt động SXKD. Với
quan điểm là một cơng cụ cung cấp thơng tin kiểm sốt, KTQT ở các nước châu Âu luôn
được tổ chức thành một bộ phận thuộc kế toán, do kế toán đảm trách.
3.3 KTQT ở Nhật.
KTQT ở Nhật phát triển phù hợp với đặc thù riêng theo phong cách quản lý với
trọng tâm nâng cao chất lượng kiểm soát, kiểm soát định hướng trong nội bộ.
Kinh tế thị trường, xuất hiện từ lâu ở Nhật, nhưng chỉ thực sự đúng nghĩa sau chiến
tranh thế giới thứ II và KTQT cũng hình thành, phát triển nhanh từ đó. Những năm 1950
đến 1970, KTQT bắt đầu hình thành từ khởi xướng của Chính phủ Nhật qua xúc tiến giới
thiệu, áp dụng KTQT Âu, Mỹ cho DN. KTQT trong DN sản xuất ở Nhật thời kỳ này chịu
ảnh hưởng bởi đặc điểm KTQT Âu-Mỹ với nội dung đơn giản và hướng đến trọng tâm
kiểm soát dự tốn, hoạch định lợi nhuận trong tiến trình tái thiết kinh tế Nhật sau chiến
tranh. Sau những năm 1980 đến những năm cuối thế kỷ 20, nền kinh tế Nhật đã khôi
phục, ổn định, phát triển và bắt đầu hướng ra thị trường quốc tế, phát triển mạnh nền kinh
tế thị trường, cạnh tranh.
Với nguồn lực hạn hẹp, các DN Nhật phải đương đầu với sự bất ổn, s ức ép cạnh
tranh từ DN ở các nước cùng với bản sắc văn hoá người Nhật. Đây cũng là tiền đề nảy
sinh KTQT kiểu Nhật, ảnh hưởng sâu rộng đến nội dung KTQT trên thế giới. Đó là
KTQT với trọng tâm nâng cao về mặt định tính, tính chất thơng tin để giảm những tổn
thất nguồn lực kinh tế sử dụng của quy trình SXKD, thơng tin để sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế tạo ra giá trị, KTQT trên hệ thống quản lý với mơ hình tổ chức linh
hoạt, với phương thức quản lý kết hợp giữa tư duy giá trị, với tư duy chuỗi giá trị. Tuy
nhiên, KTQT ở Nhật vẫn tiếp tục duy trì những tiến bộ của phương pháp kỹ thuật định
16


lượng thông tin theo khuynh hướng riêng tạo nên nội dung KTQT thịnh hành ngày nay
chủ yếu như: xây dựng tiêu chuẩn và phân loại chi phí, thu nhập, lợi nhuận, xây dựng hệ
thống dự toán ngân sách hoạt động hằng năm, xây dựng kế tốn chi phí theo phương
pháp tồn bộ và trực tiếp, kế tốn chi phí theo mục tiêu, kế tốn chi phí theo cơ sở hoạt

động, xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá vốn đầu tư, kế toán các trung tâm trách nhiệm,
xây dựng tiêu chuẩn đánh giá các bộ phận, phân tích biến động chi phí, xây dựng hệ
thống điều hành và đánh giá chi phí, bảng cân đối thành quả, phân tích tính cân đối chi
chí- lợi ích, phân tích báo cáo tài chính,…Xuất phát từ đề cao tính an tồn, tính tập thể,
tính kiểm soát, kiểm soát định hướng hoạt động, KTQT ở Nhật có nhiều mối liên hệ với
kế tốn tài chính, gắn kết với hệ thống kế toán chung, một bộ phận trong tổ chức bộ máy
kế toán.
3.4 KTQT ở Trung Quốc
KTQT ở Trung Quốc cịn nong trẻ và chưa có khuynh hướng riêng gắn liền quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Những dấu hiệu kinh tế thị trường chỉ mới xuất hiện ở Trung Quốc những năm cuối
1980 và KTQT bắt đầu hình hình thành phát triển từ đó. Sự phát triển nhanh chóng nền
kinh tế thị trường cùng hcính sách cải cách kế tốn đã thay đổi, phát triển nhanh chóng hệ
thống kế tốn, KTQT.Năm 1980, KTQT xuất hiện với nội dung cơ bản như KTQT ở Anh,
Mỹ những năm 1965. Sau đó, KTQT được cải t iến, nâng cao nhưng vói mức độ khơng
đồng đều, thường tập trung vào những chủ đề sau: xây dựng hệ thống dự toán ngân sách,
dự toán vốn đầu tư dài hạn, nhận diện và phân tích chi phí sản xuất, bán hàng, quản lý,
phân tích doanh thu, phân tích triển vọng thị trường, phân tích nợ phải thu, phân tích lợi
nhuận, hệ thống khốn chi phí bộ phận, phân tích điểm hồ vốn, phân tích báo cáo tài
chính. Tuy mới bước ra từ tư duy quản lý kinh tế tập trung, bao cấp; tuy nhiên, KTQT đã
nhanh chóng giữ vai trị quan trọng trong hệ thống kế toán, trong DN. KTQT luôn được
xem là một bộ phận chuyên môn, phân hệ của kế toán nhưng khuynh hướng, tổ chức thực
hiện rất đa dạng. Đây cũng chính là đặc điểm chugn tổ chức KTQT trong những nước

17


mới phát triển ở Châu Á, của những nước từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị
trường.
3.5 KTQT ở một s ố nước khu vực Đông Nam Á.

KTQT ở một số nước khu vực Đông Nam Á còn non trẻ, manh mún, lệ thuộc và hỗn
hợp các khuynh hướng khác nhau.
Các nước khu vực Đông Nam Á hầu như có nền kinh tế thị trường mới phát triển.
DN ở các nước này có thể chia làm hai loại: một là những DN nhỏ bé, manh mún trong
nước; hai là những chi nhánh của các tập đoàn kinh tế đa quốc gia từ nước ngồi. Từ đó,
hoạt động và tổ chức, quản lý hoạt động SXKD cũng đa sắc thái nên KTQT rất đa dạng;
một phần được chuyển giao, chịu ảnh hưởng từ mơ hình KTQT của các cơng ty mẹ ở
nước ngồi rất hiện đại; một phần được các DN trong nước xây dựng, cập nhật theo nền
tảng hoạt động quản lý của họ như khá lạc hậu và có những DN hồn tồn khơng quan
tâm đến KTQT. Thực trạng đó dẫn đến KTQT trong DN sản xuất ở các nước khu vực
Đông Nam Á tồn tại đa dạng về khuynh hướng, nội dung, trình độ.
3.6 Áp dụng kinh nghiệm xây dựng KTQT vào Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống kế toán DN phải bao gồm kế tốn tài chính và
KTQT.Sự tồn tại hai bộ phận chun mơn kế tốn này hồn tồn khơng mâu thuẫn mà tạo
nên sự hỗ trợ cần thiết để đảm bảo cho chức năng phản ảnh và cung cấp thơng tin kế
tốn.Sự cạnh tranh càng gia tăng, KTQT càng bức thiết, càng nổi bật vai trò.
KTQT được xây dựng phù hợp với quy trình hoạt động, nguyên lý vận hành quy
trình hoạt động, mơ hình tổ chức quản lý hoạt động, phương thức quản lý hoạt động;
trong đó, mơ hình tổ chức quản lý hoạt động, phương thức quản lý hoạt động tác động
trực tiếp đến KTQT và quyết định những đặc trưng KTQT ở mỗi DN, mỗi nước.
KTQT trên thế giới nổi lên hai khuynh hướng đặc trưng:
- Khuynh hướng cung cấp thơng tin hữu ích cho quyết định quản lý ở những nước đề
cao đến vai trò các nhân và ít có sự can thiệp gián tiếp của nhà nước.

18


- Khuynh hướng cung cấp thông tin tăng cường kiểm soát, kiểm soát nội bộ, kiểm
soát định hướng ở những nước đề cao tính an tồn, tính tập thể, và thừơng có sự can thiệp
trực tiếp của nhà nước bằng luật pháp. Tuy hai khuynh hướng khác nhau nhưng nhận

thức, chức năng, đặc điểm, nội dung, phương pháp kỹ thuật của KTQT không khác biệt
đáng kể.
KTQT đã trải qua nhiều giai đoạn với những nội dung trọng tâm, trình độ khác nhau.
Ngày nay, nội dung KTQT được ứng dụng rộng rãi trong các DN nhất là ở các nước mới,
phát triển kinh tế thị trường, là hệ thống KTQT hỗn hợp với nhiều nội dung, trình độ khác
nhau. Trong đó, nổi bật nhất là những nội dung KTQT liên quan đến thiết lập thơng tin để
hoạch định, kiểm sốt tài chính, thơng tin để giảm những tổn thất nguồn lực kinh tế trong
hoạt động SXKD và thông tin để sử dụng hiệu quả nguồn lực kinh tế trong quy trình tạo
ra giá trị.1
Với các nước đề cao vai trò nhà quản lý DN, ít có sự can thiệp hoặc can thiệp gián
tiếp bằng luật pháp của nhà nước vào chính sách kế tốn như Anh, Mỹ, KTQT có xu
hướng được xây dựng thành bộ phận thuộc Ban giám đốc, là công cụ riêng của nhà quản
lý; ngược lại, với những DN sản xuất ở các nước đề cao tính an tồn, tính tập thể, có sự
can thiệp của Nhà nước trực tiếp bằng luật pháp vào chính sách kế tốn như các nước
Đơng Âu, Nhật, KTQT có xu hướng được xây dựng thành bộ phận kế toán, là một
chuyên ngành khoa học kinh tế độc lập.
KTQT có hệ thống và định hướng phát triển tốt khi định hình mơ hình kế tốn quản
trị, nghĩa là định hình khái niệm, giả thiết, nguyên lý, phương pháp của tiến trình thiết lập
nền tảng kế tốn, từ đó quyết định ghi chép, tính toán, báo cáo một thực thể hoạt động
DN như: nền tảng hình thành nhu cầu quản lý được hình thành từ nền tảng này, chức
năng, đặc điểm, phương pháp kỹ thuật, nội dung và biểu hiện nội dung KTQT bằng
những báo cáo.
Xây dựng KTQT là công việc riêng của mỗi DN, được quyết định bởi chính DN và
Nhà nước chỉ đóng vai trị hỗ trợ cho DN.

19


Thực tiễn KTQT một số nước trên thế giới phản ánh những nguyên tắc chung cần
tuân thủ và đặc thù riêng cần được xem xét lựa chọn thích hợp khi xây dựng KTQT.

So với kế tốn tài chính, kế tốn quản trị là một lĩnh vực khá mới mẻ.Vì vậy, các
khái niệm và cơng cụ của kế tốn quản trị đang được hồn thiện dần nhằm cung cấp
thơng tin trợ giúp cho các quyết định của quản lý.Bên cạnh đó, mơi trường kinh doanh
đang thay đổi nhanh chóng.Để kế tốn quản trị trở thành một công cụ hữu hiệu trong
tương lai, hệ thống kế toán quản trị phải được thay đổi, cải tiến để thích ứng với những
thay đổi đó.Dưới đây là một số sự thay đổi trong môi trường kinh doanh gắn có ảnh
hưởng đến sự thay đổi và phát triển của kế toán quản trị.

20


CHƯƠNG 4: LỜI KẾT
- Ngày nay, kế toán quản trị có xu hướng hình thành, phát triển trước trong những
doanh nghiệp lớn có trình độ khoa học - kỹ thuật - quản trị tiên tiến, điều kiện cơ sở vật
chất hiện đại và s au đó mở rộng sang những doanh nghiệp nhỏ, khoa học - kỹ thuật quản trị, điều kiện cơ sở vật chất lạc hậu (H.Thomas Johnson, Robert S.Kaplan (1987),
Relevance lost the rise and fall of management Accounting, Harvard Business School
Press).
Ví dụ: Kế tốn quản trị trong doanh nghiệp ở các nước như Nhật, Trung Quốc,
Singapore, Malaysia, Thái Lan, (Akira Nishimura (2003), Management accounting feed
forward and asian perspectives, Palgrave Macmillan, First Puplished, Freface and
Acknowledgements ).
- Tương lai, kế toán quản trị chuyển sang một kỷ nguyên mới, rất gần với quản trị, là
một công cụ hợp nhất giữa chiến lược kinh doanh với thị trường, hợp nhất giữa kiểm
sốt, thơng tin phản hồi với thơng tin định hướng (Akira Nishimura (2003), Management
accounting feed forward and asian perspectives, Palgrave Macmillan, First Puplished) và
là một bộ phận thiết yếu của quản trị, kế toán chiến lược (Timothy Doupnik, Hector
Perera (2006)) Internatioanal Accounting, Mc Graw -Hill Companies).
Sự phát triển kinh tế, xã hội dẫn đến hình thành những nhận thức khác nhau về kế
tốn, kế tốn quản trị và chính nền kinh tế thị trường đã làm nổi bật nhu cầu về kế toán
quản trị, thúc đẩy phát triển kế tốn quản trị, thơng tin phục vụ cho nâng cao năng lực

quản trị - cạnh tranh để bổ sung toàn diện, hồn thiện hơn hệ thống thơng tin kế tốn
trong môi trường sản xuất kinh doanh thay đổi rất nhanh.
Kế tốn quản trị được xem như là quy trình định dạng, thu thập, kiểm tra, định tính,
định lượng để trình bày, giải thích và cung cấp thơng tin kinh tế tài chính về hoạt động
của doanh nghiệp cho những nhà quản trị trong nội bộ doanh nghiệp thực hiện toàn diện
các chức năng quản trị doanh nghiệp.
21


Do khơng khơng có một quy chuẩn pháp lý chung nào về hình thức và nội dung báo
cáo, doanh nghiệp phải tự xây dựng một hệ thống chỉ tiêu kế toán quản trị cụ thể theo
mục tiêu quản trị đặt ra. Các chỉ tiêu này phải đảm bảo so sánh được qua các thời kỳ để
đưa ra được các đánh giá chính xác về thực tế. Vì vậy trong q trình hội nhập địi hỏi
doanh nghiệp phải tham khảo thêm các mơ hình báo cáo, hệ thống chỉ tiêu các tập đoàn
kinh tế để áp dụng cho phù hợp thực tế của mình

22


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ ................................... 1
1.1 Lịch sử phát triển của kế toán quản trị .................................................... 2
1.2 Định nghĩa: .......................................................................................... 4
1.3. Mục tiêu của kế toán quản trị ................................................................ 5
CHƯƠNG 2: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TRỌNG TÂM KẾ TOÁN
QUẢN TRỊ QUA CÁC GIAI ĐOẠN .............................................................. 6
2.1 Giai đoạn 1: Trước năm 1950 ................................................................. 6
2.2 Giai đoạn 2: Từ năm 1956 đến cuối năm 1980.......................................... 9
2.3 Giai đoạn 3: Từ năm 1980 đến cuối năm 1995........................................ 11
2.4. Giai đoạn 4: Từ năm 1995 đến nay ........................................................ 12

CHƯƠNG 3: PHÁT TRIỂN CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ................................. 14
Ở CÁC NƯỚC ........................................................................................... 14
3.1 Kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản xuất ở Anh, Mỹ ......................... 14
3.2 KTQT trong DN ở các nước Châu Âu. .................................................. 15
3.3 KTQT ở Nhật. .................................................................................... 16
3.4 KTQT ở Trung Quốc........................................................................... 17
3.5 KTQT ở một số nước khu vực Đông Nam Á. ......................................... 18
3.6 Áp dụng kinh nghiệm xây dựng KTQT vào Việt Nam.............................. 18
CHƯƠNG 4: LỜI KẾT ............................................................................... 21

23


24



×