Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.4 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐỖ TUẤN HANH

TỔ CHỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI THANH NIÊN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐỖ TUẤN HANH

TỔ CHỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI THANH NIÊN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP


TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CƠNG
Chun ngành: Quản lý cơng
Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH SẢN

HÀ NỘI - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và nội dung trong luận văn này là trung thực, khách quan, dựa trên kết
quả thu thập thông tin, số liệu thực tế đã được công bố.
Học viên

Đỗ Tuấn Hanh


LỜI CẢM ƠN
Để có được cơng trình nghiên cứu khoa học này, em trân trọng cảm ơn
Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; các thầy giáo, cơ giáo, cán bộ
Ban Quản lý đào tạo sau Đại học và các Khoa của Học viện Hành chính Quốc
gia; các thầy giáo, cô giáo giảng dạy các môn học; cô giáo chủ nhiệm lớp
HC22.B1 đã quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện để em hồn thành nhiệm vụ học
tập của mình. Em bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Minh Sản,
người hướng dẫn khoa học, đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, định hướng khoa
học cho em trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn. Trân trọng cảm ơn

các cơ quan, đơn vị và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tơi trong
q trình nghiên cứu, thực hiện luận văn.
Em trân trọng cảm ơn những góp ý của các thầy, cơ trong Hội đồng
đánh giá luận văn và em xin tiếp thu đầy đủ các nội dung góp ý vào cơng trình
nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 12 năm 2019
Học viên

Đỗ Tuấn Hanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI THANH NIÊN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ............... 9
1.1. Thanh niên tại các khu công nghiệp ........................................................ 9
1.2. Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại các khu
công nghiệp .................................................................................................. 16
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối
với thanh niên tại các khu công nghiệp ........................................................ 25
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................. 32
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI THANH NIÊN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ............. 34
2.1. Thực trạng thanh niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc .............................................................................................................. 34
2.2. Thực trạng tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại
các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2014 đến nay ..... 39
2.3. Đánh giá chung về thực trạng tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối
với thanh niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm
2014 đến nay ................................................................................................ 57

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................. 64
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC PHỔ
BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI THANH NIÊN TẠI CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC ............................... 66
3.1. Quan điểm hoàn thiện tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với
thanh niên tại các khu công nghiệp .............................................................. 66


3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh
niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc........................... 75
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3.................................................................................. 93
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 96


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
HĐND:

Hội đồng Nhân dân

KCN:

Khu công nghiệp

LHTN:

Liên hiệp Thanh niên

Nxb:


Nhà xuất bản

PBGDPL:

Phổ biến, giáo dục pháp luật

TNCS:

Thanh niên Cộng sản

UBND:

Ủy ban Nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dẫn đến
việc hình thành các KCN trong cả nước. Các KCN được hình thành đã thu hút
lượng lớn lao động tới làm việc từ nhiều địa bàn khác nhau, trong đó phần lớn
lao động tại các KCN là thanh niên. Thanh niên Việt Nam nói chung và thanh
niên tại các KCN nói riêng là đối tượng dễ tiếp thu cái mới, nhanh nhạy trong
cập nhật thông tin, xu hướng mới. Trong giai đoạn bùng nổ thông tin hiện
nay, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, đã tạo điều kiện
thuận lợi cho thanh niên tiếp cận nhanh hơn các thơng tin về tình hình chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và rất nhiều các nội dung khác, bao gồm cả những
thơng tin tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, một bộ phận thanh niên, trong đó có
thanh niên tại các KCN, thiếu hiểu biết về pháp luật nên không phân biệt
được những thông tin xấu, độc dẫn đến việc dễ dàng bị kích động tham gia
vào những vụ việc gây rối và vi phạm pháp luật; bên cạnh đó, phần lớn người

lao động tại các KCN do thiếu kiến thức về pháp luật nên chưa hình thành
được ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình trong
quan hệ với người sử dụng lao động. Điều này đặt ra đòi hỏi phải tăng cường
PBGDPL đối với thanh niên, giúp họ hiểu, biết về pháp luật; đồng thời hình
thành ở họ tri thức về pháp luật để có hành vi phù hợp với các quy định của
hệ thống pháp luật. Việc tổ chức PBGDPL cho thanh niên nói chung và thanh
niên tại các KCN nói riêng là nhiệm vụ quan trọng, địi hỏi sự vào cuộc tích
cực của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Nội dung này đã được đề cập trong
nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước, như: Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán
1


bộ, nhân dân đã xác định “PBGDPL là một bộ phận của cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của tồn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng” [1]; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật được Quốc hội
thông qua ngày 20/6/2012 nêu rõ “PBGDPL là trách nhiệm của tồn bộ hệ
thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trị nịng cốt” [24].
Vĩnh Phúc là địa phương phát triển mạnh về công nghiệp, thu hút đông
đảo lao động tới sinh sống và làm việc. Trong những năm qua, công tác
PBGDPL tại Vĩnh Phúc đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương,
các đồn thể chính trị - xã hội quan tâm thực hiện với nhiều hình thức, từng
bước đáp ứng nhu cầu về tìm hiểu pháp luật của nhân dân. Tại các KCN trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, các cơ quan chun mơn và các tổ chức đồn thể
chính trị - xã hội đã tích cực tổ chức nhiều hoạt động tun truyền, PBGDPL
cho thanh niên là cơng nhân, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành
pháp luật của thanh niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc tổ
chức PBGDPL cho thanh niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc vẫn
còn bộc lộ một số hạn chế như: Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành

trong tổ chức PBGDPL cho người lao động tại các KCN có hiệu quả chưa
cao; một số hình thức tổ chức PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN chưa
phù hợp; lực lượng cán bộ, công chức làm cơng tác PBGDPL cịn hạn chế,
chưa có cán bộ chun trách làm công tác PBGDPL đối với thanh niên tại các
KCN, v.v. Do vậy, trước yêu cầu phát triển mạnh mẽ của tỉnh Vĩnh Phúc
trong thời gian tới, hướng tới mục tiêu xây dựng Vĩnh Phúc trở thành thành
phố trực thuộc Trung ương vào những năm 20 của thế kỷ XXI như Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã
đề ra thì cơng tác PBGDPL cho các tầng lớp nhân dân phải được triển khai
đồng bộ, hiệu quả; đặc biệt cần đẩy mạnh tổ chức PBGDPL đối với thanh
niên tại các KCN khi công nghiệp tiếp tục khẳng định là nền tảng của nền
2


kinh tế, tạo ra sự đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc.
Để nghiên cứu làm rõ thêm cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện tổ chức PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN, việc
nghiên cứu đề tài “Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh
niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” là yêu cầu tất
yếu khách quan, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Tổ chức phổ biến,
giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc” cho thấy các nhà khoa học, học giả tiếp cận theo nhiều cách,
với những cấp độ khác nhau. Cụ thể như:
Về các sách chuyên khảo:
Cuốn sách “Bàn về giáo dục pháp luật” của tác giả Trần Ngọc Đường
và Dương Thị Thanh Mai, Nxb. Chính trị quốc gia, 1995, đã tập trung nghiên
cứu khái quát những vấn đề lý luận cơ bản nhất về giáo dục pháp luật như
quan niệm về giáo dục pháp luật; chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật; mục

đích của giáo dục pháp luật. Những nội dung này là cơ sở quan trọng cho việc
nghiên cứu về PBGDPL ở các khía cạnh cụ thể [19].
Cuốn sách “Nhiệm vụ cơ bản của Thanh niên Việt Nam trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Đoàn Văn Thái, Nxb.
Thanh niên, 2004, đã khẳng định vai trò của lực lượng thanh niên; định hướng
giá trị của thanh niên trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [28].
Cuốn sách “Lãnh đạo và quản lý về công tác thanh niên trong thời kỳ
đổi mới” của tác giả Dương Tự Đam, Nxb. Thanh niên, 2005, đã phân tích
các yếu tố ảnh hưởng đến lãnh đạo và quản lý đối với thanh niên và công tác
thanh niên; xác định những mục tiêu cơ bản của quản lý nhà nước về công tác
3


thanh niên thơng qua đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một lực lượng
thanh niên mới có đủ sức khỏe, có trí thức, tay nghề và ý thức trách nhiệm
cơng dân [12].
Cuốn sách “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chiến lược phát triển thanh
niên” của tác giả Chu Xuân Việt, Nxb. Thanh niên, 2005, đã khẳng định tầm
quan trọng của việc xây dựng chiến lược phát triển thanh niên. Theo tác giả,
điều này xuất phát từ vai trò của thanh niên đối với sự phát triển đất nước.
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp cho việc xây dựng chiến lược phát
triển thanh niên, trong đó vấn đề giáo dục pháp luật đối với thanh niên được
tác giả quan tâm [10].
Cuốn sách “Đổi mới Đoàn Thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Nguyễn Văn Thanh, Nxb. Thanh niên,
2008, đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với cơng tác thanh
niên; phân tích chỉ ra những thách thức đối với công tác thanh niên; khẳng
định vai trò của thanh niên trong nền kinh tế tri thức; đề xuất giải pháp nâng
cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn, Hội; nâng cao vai trị của tổ chức

Đồn Thanh niên trong cơng cuộc hội nhập quốc tế [29].
Cuốn sách “Tổng quan về chính sách, pháp luật đối với thanh niên” của
Ủy ban Quốc gia về Thanh niên Việt Nam và Bộ Tư pháp, Nxb. Thanh niên,
2011, đã đánh giá khá toàn diện về thực thi chính sách, pháp luật đối với
thanh niên trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; dạy nghề và việc làm; vui chơi,
giải trí và thể dục thể thao; chăm sóc sức khỏe, hơn nhân và gia đình, v.v;
phân tích chỉ rõ những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân của những khó
khăn, hạn chế của chính sách, pháp luật đối với thanh niên; đề xuất phương
hướng, giải pháp và kiến nghị hồn thiện chính sách, pháp luật đối với thanh
niên [42].
Cuốn sách “Tổng quan tình hình thanh niên, cơng tác Đoàn và phong
4


trào thanh thiếu nhi” của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh
niên, 2012, đã phân tích tổng quan về cơng tác Đồn và các phong trào hoạt
động của đoàn viên, thanh niên qua nhiều năm; đánh giá, phân tích về kết quả
đạt được, những hạn chế của hoạt động phong trào thanh niên trong từng đối
tượng như: Thanh niên nông thôn, thanh niên đô thị, thanh niên công nhân,
thanh niên trường học, thanh niên công chức - viên chức, thanh niên lực
lượng vũ trang, v.v; dự báo khả năng và nhu cầu của từng đối tượng thanh
niên trong thời gian tới; đề xuất giải pháp phát triển phong trào thanh niên và
hoạt động của Đoàn Thanh niên [38].
Về đề tài nghiên cứu liên quan đến PBGDPL, có một số luận văn thạc
sĩ đã đề cập như: Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính cơng “Cơng tác phổ
biến, giáo dục pháp luật đối với đoàn viên thanh niên ở huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên” của Tôn Ngọc Chuẩn (2011); Luận văn Thạc sĩ Quản lý công
“Quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức cấp
huyện là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk” của Trần Tuấn Anh (2015);
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trật tự,

an tồn giao thơng đường bộ của lực lượng Cảnh sát giao thông thành phố
Hà Nội” của Nguyễn Thị Bích Phượng (2017), v.v.
Ngồi ra, cịn nhiều bài báo đề cập tới chủ đề thanh niên và công tác
PBGDPL đăng trên các báo, tạp chí chun ngành, v.v.
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu trên cho thấy, đã có nhiều cơng trình
khoa học, bài viết nghiên cứu liên quan đến đề tài “Tổ chức phổ biến, giáo
dục pháp luật đối với thanh niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc”. Những cơng trình khoa học, bài viết này ở chừng mực nhất định
đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức
PBGDPL đối với thanh niên nói chung. Tuy vậy, cho đến nay chưa có cơng
trình nghiên cứu sâu về tổ chức PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN trên
5


địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Việc chọn đề tài “Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp
luật đối với thanh niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”
khơng trùng lặp với các cơng trình khoa học đã được cơng bố. Đề tài nghiên
cứu có sự kế thừa và phát triển những thành quả nghiên cứu của các cơng
trình khoa học trước đó để đánh giá, phân tích và đề xuất các giải pháp phù
hợp trong việc hoàn thiện tổ chức PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Từ việc xây dựng cơ sở lý luận về tổ chức PBGDPL đối với thanh niên
tại các KCN, luận văn đánh giá thực trạng tổ chức PBGDPL đối với thanh
niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nhằm đề xuất giải pháp hoàn
thiện tổ chức PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên đây, đề tài có những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, luận văn xây dựng cơ sở lý luận về tổ chức PBGDPL đối với
thanh niên tại các KCN thông qua việc phân tích làm rõ một số khái niệm cơ
bản như: Thanh niên tại các KCN, PBGDPL, tổ chức PBGDPL đối với thanh
niên tại các KCN; xác định chủ thể, nội dung, hình thức tổ chức PBGDPL đối
với thanh niên tại các KCN; đồng thời phân tích làm rõ các yếu tố ảnh hưởng
đến tổ chức PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức PBGDPL đối với thanh
niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc mà các chủ thể có trách nhiệm
tổ chức PBGDPL đã và đang triển khai thực hiện; trên cơ sở đó, đánh giá
khách quan, khoa học về những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan của những hạn chế của hoạt động tổ
6


chức PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Thứ ba, nghiên cứu về các quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản,
bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện tổ chức PBGDPL đối với thanh
niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tổ chức PBGDPL đối
với thanh niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu tại các KCN trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc.
Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng tổ chức
PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm
2014 đến nay.
Phạm vi về nội dung: Thanh niên tại các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc gồm nhiều đối tượng, cụ thể như: thanh niên là chủ doanh nghiệp, thanh

niên là lãnh đạo - quản lý tại các doanh nghiệp, thanh niên là công nhân tại
các doanh nghiệp, v.v. Trong luận văn này, thanh niên tại các KCN được giới
hạn trong thanh niên là công nhân tại các doanh nghiệp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong tổ chức PBGDPL đối với
thanh niên nói chung và thanh niên tại các KCN nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để phù hợp với nội dung và mục đích của nghiên cứu, luận văn sử
7


dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, thống kê
và so sánh, v.v. Các phương pháp này được luận văn sử dụng linh hoạt và
hiện đại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn góp phần làm phong phú lý luận về tổ chức PBGDPL đối với
thanh niên tại các KCN.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Các giải pháp của luận văn có giá trị là cơ sở để các cơ quan, đơn vị,
địa phương trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc tham khảo nhằm triển khai có hiệu
quả hoạt động tổ chức PBGDPL đối với thanh niên tại các KCN trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời, kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho các nghiên cứu liên quan sau này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết
cấu thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối
với thanh niên tại các khu công nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với
thanh niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện tổ chức phổ biến, giáo
dục pháp luật đối với thanh niên tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI THANH NIÊN
TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Thanh niên tại các khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm Thanh niên tại các khu công nghiệp
Thanh niên là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong mọi mặt của đời
sống hằng ngày cũng như trong các lĩnh vực khoa học. Có nhiều quan niệm
khác nhau về thanh niên.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thanh niên là “người còn trẻ, đang ở độ tuổi
trưởng thành” [43, tr. 913].
Dưới góc độ sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai
đoạn trong quá trình phát triển cơ thể vì trong giai đoạn này thể lực, trí tuệ,
sinh lý của con người có sự thay đổi rõ rệt. Thanh niên là độ tuổi sung sức
nhất về thể chất.
Từ góc độ tâm lý học, thanh niên là giai đoạn chuyển từ ý thức, tư duy
theo khuynh hướng lệ thuộc vào gia đình, nhà trường và xã hội sang giai đoạn
tự ý thức, nhận thức được về thái độ, hành vi, tư tưởng.
Thanh niên dưới góc độ kinh tế học là nguồn nhân lực không thể thiếu

trong đội ngũ lao động và sản xuất. Thanh niên cũng là bộ phận quan trọng
cấu thành lực lượng sản xuất, gắn bó mật thiết với quá trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Theo góc độ xã hội học, thanh niên là một nhóm xã hội dân cư với sự
đa dạng về độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú, định hướng giá trị,
v.v. Nhóm xã hội dân cư này có những đặc điểm, đặc trưng chung tạo nên
tính thống nhất của nhóm, cụ thể như: sự năng động, nhạy bén, sáng tạo, ưa
9


thử nghiệm, v.v.
Độ tuổi của thanh niên được tính khác nhau tuỳ từng nước. Có nước
tính từ 14, 15, thậm chí từ 13, đến 24, 25 tuổi; có nước tính từ 15 đến 30 tuổi.
Tại Việt Nam, Luật Thanh niên được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005
quy định tại Điều 1: “Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi
đến ba mươi tuổi” [23].
Để đánh giá một cách tương đối toàn diện và bao hàm được các nội
dung về tổ chức PBGDPL đối với thanh niên nói chung, thanh niên được hiểu
là một lớp người trong xã hội từ đủ 16 đến 30 tuổi gắn với mọi giai cấp, mọi
tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, có
tâm sinh lý đặc thù và có vai trị quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Thanh niên có thể được chia thành các nhóm khác nhau theo từng địa
bàn, lĩnh vực như: Thanh niên ở đô thị, thanh niên ở nông thôn, thanh niên là
công nhân, thanh niên tại các KCN, v.v.
KCN là cơng cụ của chính sách cơng nghiệp nhằm thực hiện chiến lược
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên phạm vi lãnh thổ nhất định. Việc xây dựng
các KCN tạo nền tảng để huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế
trong và ngồi nước, tiếp nhận cơng nghệ mới, tạo việc làm mới và hỗ trợ giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của những vùng lạc hậu; qua đó, góp phần
quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng, các địa phương theo

hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh
tế chung của cả nước.
Nghiên cứu về KCN cho thấy, KCN do Chính phủ hoặc Thủ tướng
Chính phủ thành lập. Các KCN có ranh giới địa lý độc lập với khu dân cư và
khơng có cư dân sinh sống. Các loại hình doanh nghiệp tại KCN gồm doanh
nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
Doanh nghiệp sản xuất KCN là doanh nghiệp sản xuất hàng công
10


nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN. Doanh nghiệp sản xuất KCN
bao gồm cả doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch
vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, gọi là doanh
nghiệp chế xuất.
Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt
động trong KCN, thực hiện dịch vụ các cơng trình kết cấu hạ tầng KCN, dịch
vụ sản xuất công nghiệp.
Như vậy, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, được Chính
phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục
quy định; trong KCN sẽ bao gồm doanh nghiệp sản xuất KCN, doanh nghiệp
dịch vụ KCN.
Từ các khái niệm thanh niên, KCN như phân tích ở trên, thanh niên tại
các KCN được hiểu là những người từ đủ 16 đến 30 tuổi, làm việc tại các
doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp, doanh nghiệp thực hiện dịch
vụ cho sản xuất cơng nghiệp trong khu vực có ranh giới địa lý xác định do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
1.1.2. Đặc điểm thanh niên tại các khu cơng nghiệp
Tính đến tháng 12/2018, cả nước có 326 KCN được thành lập với tổng
diện tích đất tự nhiên đạt gần 93.000 ha. Có 250 KCN đã đi vào hoạt động với

tỷ lệ lấp đầy đạt hơn 73% và 76 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng
mặt bằng, xây dựng cơ bản [44]. Các KCN đi vào hoạt động đã thu hút hàng
triệu lao động tới làm việc, trong đó phần lớn là lao động trong độ tuổi thanh
niên. Thanh niên tại các KCN có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về giới tính và tuổi tác, lao động tại các KCN phần lớn có độ
tuổi khơng q 30, tỉ lệ nữ cao hơn tỉ lệ nam. Các KCN hiện nay đã thu hút
khoảng 03 triệu lao động tới làm việc, trong đó, lao động nữ chiếm trên 60%
11


tổng số lao động. Một số ngành như da-giày, dệt-may, chế biến thủy sản có tỉ
lệ lao động là nữ chiếm tới 80% đến 90% tổng số lao động tại doanh nghiệp.
Thứ hai, về quê quán, thanh niên tại các KCN hiện nay chủ yếu là lao
động nhập cư từ nhiều vùng trong cả nước và lao động dịch chuyển từ các địa
phương trong địa bàn. Nguồn gốc của thanh niên tại các KCN chủ yếu là lao
động từ khu vực nông thôn. Lý giải cho vấn đề này là do tình trạng thiếu việc
làm, thu nhập thấp ở các vùng nơng thơn khiến dịng người di cư tìm đến các
KCN làm việc.
Thứ ba, phần lớn thanh niên tại các KCN có trình độ chun mơn, tay
nghề chưa cao. Điều này xuất phát từ việc các doanh nghiệp chủ yếu tuyển
dụng lao động phổ thơng tham gia vào quy trình sản xuất khơng địi hỏi trình
độ chun mơn cao. Nhiều ngành nghề tại các KCN như dệt-may, chế biến
lương thực-thực phẩm, lắp ráp linh kiện điện tử, v.v thường có xu hướng sử
dụng lao động giản đơn, chưa qua đào tạo.
Thứ tư, tính kỷ luật, tác phong cơng nghiệp của thanh niên tại các KCN
còn thấp. Hiện nay, tâm lý, thói quen và tác phong lao động gắn với nền sản
xuất nhỏ cịn in đậm trong một bộ phận cơng nhân tại các KCN. Đa số thanh
niên tại các KCN xuất thân từ nơng thơn, vùng có điều kiện kinh tế kém phát
triển, trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ nên
ý thức nghề nghiệp, tác phong cơng nghiệp cịn hạn chế và cịn nhiều thói

quen xấu cần phải được chấn chỉnh.
Thứ năm, sự biến động lao động (vào-ra) của các doanh nghiệp trong
các KCN là rất lớn, chủ yếu do lao động tự ý bỏ việc, chuyển từ doanh nghiệp
này sang doanh nghiệp khác. Biến động lao động xảy ra chủ yếu sau các dịp
tết. Thu nhập thấp; ý thức nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật kém nên thanh
niên tại các KCN thường nghỉ tết nhiều hơn số ngày quy định nhưng lại dễ
dàng tìm một cơng việc mới tại doanh nghiệp khác vì doanh nghiệp thường có
12


nhu cầu tuyển dụng lao động lớn sau dịp tết. Tình trạng này làm cho doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tổ chức sản xuất vì thiếu lao động và phải
đào tạo lao động mới tuyển dụng. Các doanh nghiệp thường có nhiều biến
động lao động là các ngành dệt-may, da-giày, lắp ráp điện tử, v.v.
Thứ sáu, việc làm, thu nhập của thanh niên tại các KCN còn thiếu ổn
định và chưa đáp ứng mức sống tối thiểu của người lao động. Thực trạng
doanh nghiệp chỉ tuyển dụng lao động ở một độ tuổi nhất định và sa thải lao
động sau một thời gian làm việc nhất định đã và đang là vấn đề nhức nhối
hiện nay tại các KCN. Hầu hết lao động tại các KCN có tuổi đời dưới
35. Tiền lương của người lao động trong các doanh nghiệp còn thấp, mức
lương tối thiểu chưa đáp ứng được mức sống tối thiểu của người lao động.
Chi tiêu thường xuyên của lao động di cư luôn ở mức cao hơn so với chi tiêu
của lao động tại địa phương do họ phải chi khá nhiều tiền cho việc thuê nhà ở,
đi lại, chăm sóc y tế, v.v, khơng ít người còn phải tiết kiệm tiền để gửi về quê
hỗ trợ gia đình.
Thứ bảy, nhu cầu về vui chơi giải trí của thanh niên tại các KCN là rất
lớn nhưng chưa được đáp ứng kịp thời; vấn đề hôn nhân, gia đình và chăm
sóc sức khỏe sinh sản cho thanh niên tại các KCN còn nhiều bất cập.
Đa số các doanh nghiệp chỉ chú trọng cho sản xuất, ít quan tâm đến nhu
cầu sinh hoạt, giải trí cho người lao động nên việc tổ chức các hoạt động vui

chơi giải trí cho cơng nhân chưa được đầu tư nhiều. Cơ sở vật chất phục vụ
các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao cho thanh niên tại các KCN gần
như khơng có hoặc nếu có thì phần lớn là do các tổ chức, cá nhân xây dựng,
mang nặng tính dịch vụ, phù hợp hơn với đối tượng có thu nhập cao khiến
cho thanh niên tại các KCN không thể tham gia hưởng thụ và hoạt động
thường xuyên. Phần lớn sau giờ làm việc, thanh niên tại các KCN chỉ biết về
nơi nghỉ tạm, ít được tham gia các hoạt động, phong trào tập thể.
13


Địa điểm làm việc tại các KCN thường ở xa trung tâm, phải thường
xuyên tăng ca, làm thêm giờ nên với cơng nhân đã có gia đình thì gặp nhiều
khó khăn trong chăm sóc, ni dạy con; cịn với cơng nhân là lao động trẻ
chưa có gia đình thì ít có điều kiện, thời gian gặp gỡ, tìm hiểu bạn khác giới.
Bên cạnh đó, thanh niên tại các KCN có tuổi đời cịn trẻ, sống xa gia đình,
thiếu thốn tình cảm; nhận thức, hiểu biết về các vấn đề xã hội còn hạn chế,
đặc biệt là các kỹ năng sống, kỹ năng ứng phó với các tình huống nảy sinh
trong cuộc sống như tình yêu, tình bạn, giữ gìn hạnh phúc gia đình, vấn đề
ni dạy con, v.v nên dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngồi, khơng bị ràng
buộc quá nhiều bởi những khuôn mẫu truyền thống, có những sinh hoạt tự do
hơn, dễ dẫn đến tình trạng sống chung, sống thử, nạo phá thai không an toàn,
trong khi điều kiện và khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của thanh niên tại
các KCN còn rất thấp.
1.1.3. Vai trò của thanh niên tại các khu công nghiệp
Việc phát triển các KCN đã làm cho công nhân tại các KCN tăng nhanh
về số lượng, ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong giai cấp công nhân Việt
Nam, trong đó tập trung nhiều tại các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi. Đây chính là lực lượng lao động làm ra của cải vật
chất trong lĩnh vực cơng nghiệp với trình độ kỹ thuật và cơng nghệ ngày càng
hiện đại, có vai trị quan trọng trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với giai cấp công nhân Việt Nam, thanh niên
tại các KCN có vai trị quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước.
Điều này được thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, về mặt sản xuất, thanh niên tại các KCN là lực lượng quan
trọng, cùng với giai cấp công nhân Việt Nam khẳng định vai trò to lớn trong
nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng, công nhân ở nước ta chiếm tỷ lệ
14


không lớn trong tổng số dân cư (khoảng 14%) nhưng lực lượng này lại nắm
giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội,
quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Cơng nhân Việt
Nam nói chung và cơng nhân tại các KCN nói riêng là lực lượng lao động
đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước hằng năm.
Thứ hai, sự phát triển của thanh niên tại các KCN đã đóng góp tích cực
cho sự lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam, là nhân tố quan trọng để
đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Cùng với giai cấp công nhân Việt Nam, thanh niên tại các KCN
đang trở thành lực lượng sản xuất tiên tiến, là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, thanh niên tại các KCN là lực lượng có nhiều sáng kiến, sáng
tạo góp phần tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp.
Thanh niên tại các KCN đang có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, luôn
chủ động và sáng tạo trong tiếp cận với khoa học, công nghệ tiên tiến. Áp lực
về cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh đã đòi hỏi mỗi người lao động phải
năng động, sáng tạo để cùng góp sức mình vào hoạt động chung của doanh
nghiệp. Những ý tưởng, sáng kiến của người lao động ngày càng tăng về số
lượng và chất lượng, trong đó, tập trung vào việc cải tiến cơng nghệ, máy móc
để giảm chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Thành quả từ quá

trình lao động sáng tạo không ngừng của thanh niên tại các KCN đã góp phần
tích cực vào sự phát triển ổn định và bền vững của doanh nghiệp nói riêng và
nền kinh tế của địa phương, đất nước nói chung.
Thứ tư, thanh niên tại các KCN là lực lượng quan trọng góp phần thúc
đẩy q trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, làm thay đổi
phương thức lao động thủ công, giản đơn, thô sơ, lạc hậu sang phương thức
lao động sử dụng chất xám và trình độ trí tuệ cao.
15


Thứ năm, thanh niên tại các KCN là một trong những lực lượng quan
trọng tiến tới xây dựng nền kinh tế tri thức. Cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện
đại của chúng ta khơng chỉ nhằm đưa đất nước thốt khỏi tình trạng kém phát
triển, mà xa hơn nữa là đưa đất nước đứng vào hàng ngũ các nước phát triển,
đến với nền kinh tế tri thức. Q trình tồn cầu hoá cũng đang làm cho những
tri thức khoa học mới trở thành tài sản chung của toàn thể nhân loại. Nếu
trong kinh tế nông nghiệp, chủ thể của sản xuất, của nền kinh tế và yếu tố
quan trọng cấu thành xã hội chủ yếu là người nông dân; trong nền kinh tế
cơng nghiệp, chủ thể đó chủ yếu là người cơng nhân thì trong nền kinh tế tri
thức, vai trị này chủ yếu vẫn thuộc về cơng nhân, nhưng đó là cơng nhân tri
thức. Thanh niên tại các KCN có điều kiện tiếp cận với công nghệ sản xuất
hiện đại, nếu được bồi dưỡng, nâng cao trình độ học vấn, trình độ chun
mơn sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đưa đất nước tiến nhanh tới nền kinh tế tri thức.
1.2. Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại các
khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh
niên tại các khu công nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt, pháp luật là “tổng hợp các quy tắc xử sự có
tính bắt buộc do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh

cưỡng chế” [43, tr. 767].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, lịch sử phát triển của xã hội
loài người trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, khơng phải bất kỳ
hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có pháp luật. Xã hội cộng sản ngun thủy
chưa có nhà nước và vì vậy cũng chưa có pháp luật, lúc này mới chỉ là những
quy tắc xử sự chung. Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội phân chia thành
giai cấp thì các tập quán thể hiện ý chí chung của mọi người khơng cịn phù
16


hợp nữa. Trong điều kiện lịch sử mới này, bằng sự thừa nhận của nhà nước,
các tập quán đã trở thành những quy tắc xử sự chung, đó là quy phạm pháp
luật. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: "Quy tắc đó, thoạt nhiên là thói quen,
sau đó trở thành pháp luật" [7, tr.378].
Như vậy, pháp luật ra đời cùng với nhà nước. Cùng với nhà nước, pháp
luật ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Xét về
bản chất, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện
tính xã hội. Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ, pháp luật chỉ phát sinh,
tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp; pháp luật phản ánh ý chí nhà
nước của giai cấp thống trị; mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh
quan hệ giữa các tầng lớp xã hội. Tính xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ
pháp luật là do nhà nước, đại diện chính thức của tồn xã hội ban hành. Ở
chừng mực nào đó, pháp luật cịn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp và
tầng lớp khác nhau trong xã hội. Như vậy, thuộc tính giai cấp và thuộc tính xã
hội của pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau
trong một thể thống nhất. Khơng có kiểu pháp luật nào chỉ thể hiện duy nhất
tính giai cấp; và ngược lại, cũng khơng có kiểu pháp luật nào chỉ thể hiện tính
xã hội.
Như vậy, có thể khái qt: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự
chung (quy phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý

chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện, kể cả bằng biện
pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì xã hội.
Có nghiên cứu đưa ra quan niệm về pháp luật xã hội chủ nghĩa: Pháp
luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hóa đường lối,
chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, được nhà nước ban hành
và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa [22, tr. 37]. Pháp luật xã hội
17


chủ nghĩa có những đặc điểm mang tính phổ qt của pháp luật nói chung,
song có những đặc trưng riêng, thể hiện bản chất kiểu mới của nó, cụ thể như:
Ý chí được thể hiện trong pháp luật xã hội chủ nghĩa là ý chí của giai cấp
cơng nhân, đồng thời cũng là ý chí của nhân dân; pháp luật xã hội chủ nghĩa
có tính quy phạm tiên tiến. Cùng với đó, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng
mang tính cưỡng chế thi hành, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính
hệ thống.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tuyên truyền là “giải thích rộng rãi để thuyết
phục mọi người tán thành, ủng hộ, làm theo” [43, tr.1068]. Tùy thuộc vào
mục đích của tun truyền người ta có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có
thể hiểu tuyên truyền pháp luật là việc công bố, giới thiệu, động viên, thuyết
phục mọi người biết, hiểu và làm theo các quy định của pháp luật.
Theo Từ điển Tiếng Việt, phổ biến là “làm cho đông đảo người biết
bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thơng qua hình thức nào đó” [43, tr.785].
Phổ biến mang tính khái quát, rộng rãi với việc cung cấp các thông tin
cho đối tượng tiếp nhận. Tùy thuộc vào các đối tượng, nhóm đối tượng khác
nhau mà có thể dùng các hình thức và biện pháp khác nhau để thực hiện theo
mục đích của chủ thể.
Như vậy, phổ biến pháp luật là khâu quan trọng trong quá trình thực thi
pháp luật, giúp người dân hiểu và tuân thủ pháp luật. Chủ thể của phổ biến

pháp luật có thể do nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau thực hiện, khách thể là
tồn bộ cơng dân, những người cần được tiếp nhận thơng tin theo ý chí, mong
muốn của Nhà nước.
Tuy vậy, phổ biến pháp luật có điểm khác tuyên truyền pháp luật ở chỗ
tính động viên, thuyết phục không cao như tuyên truyền. Ở những mức độ
khác nhau, phổ biến pháp luật là nhằm làm cho đối tượng cụ thể hiểu rõ các
quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế.
18


×