Tải bản đầy đủ (.ppt) (73 trang)

TRIEU DAI NHA NGUYEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 73 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>Nguồn:</b></i>

<i><b> Internet</b></i>



<i><b>Nhạc: </b></i>

<i><b>Right Samadhi – Chinmaya Dunster</b></i>



<i>Click</i>
<i>chuột</i>


<i><b>VIỆT NAM</b></i>



<i><b>(5)</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2></div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3></div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Thời vua chúa lúc dân ta chưa biết Tây lịch, để xác định thời gian cho một dữ kiện đã </i>


<i>xãy ra, dân ta dùng niên hiệu của ông vua đương thời.</i>



<i><b>Niên hiệu :</b></i>

<i> Khi một ông vua lên ngơi đều tự lấy cho mình một niên hiệu để đánh dấu </i>


<i>giai đoạn mà mình trị vì và tất cả những dữ kiện xảy ra sẽ được ghi lại so với cái niên </i>


<i>hiệu của mình. Thí dụ người ta nói "Tự Ðức năm thứ 2", "Minh Mạng năm thứ 6", .... </i>


<i>(thay vì năm 1848, năm 1825, ...) Với cách ghi thời gian kiểu nầy thì có cái lợi là biết câu </i>


<i>chuyện đó xảy ra dưới thời vua nào nhưng cái bất lợi là khó mà biết được cái nào xảy ra </i>


<i>trước, cái nào xảy ra sau, nếu không giỏi sử học.</i>



<i><b>Miếu hiệu :</b></i>

<i> Tên hiệu của ông vua đã chết. Khi một ông vua mất, ông vua sau lên kế vị </i>


<i>và đặt miếu hiệu cho vị vua trước như là phong chức tước hay tơn vinh người q cố. Ví </i>


<i>dụ, miếu hiệu của vua Gia Long là Thế Tổ, miếu hiệu vua Minh Mạng là Thánh Tổ. </i>



<i>Dĩ nhiên có nhiều ơng vua khơng có miếu hiệu.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i><b>Vua Gia Long </b></i>

<b>(1802-1820)</b>



<i><b>người thành lập Triều đại nhà Nguyễn</b></i>




<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1762-1820</b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1802-1820</b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Gia Long</b></i>



<i><b>Miếu hiệu: </b></i>

<i><b> Thế Tổ Cao Hoàng Ðế </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Trắp đựng Kim Sách </i>


<i>của vua Gia Long</i>



<i>Mỗi vị vua triều Nguyễn </i>


<i>đều có một Kim Sách </i>



<i>giống như thế.</i>



<i>Ở Việt Nam, thư tịch cổ chỉ </i>


<i>thấy nói tới Kim Sách (loại </i>


<i>sách làm bằng vàng, bạc) từ </i>


<i>thế kỷ 15, đặc biệt thịnh hành </i>


<i>trong triều đình Lê-Trịnh </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i><b>Gia Long là ơng vua sáng lập ra triều Nguyễn, tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, thường gọi là </b></i>


<i><b>Nguyễn Ánh ( </b></i>

<i>阮福映 ; 1762–1820), lên ngôi ngày 1 tháng 6 âm lịch năm 1802, đặt niên hiệu là </i>


<i><b>Gia Long (</b></i>

<i>嘉隆 ). </i>



<i>Nguyễn Ánh là con thứ ba thứ 3 của Nguyễn Phúc Luân và Nguyễn Thị Hoàn, cháu nội của Võ </i>


<i>Vương Nguyễn Phúc Hoạt, sinh ngày 15-1 năm Nhâm Ngọ (8-2-1762). Lúc cịn tuổi thơ ấu, ơng rất </i>


<i>được Chúa Nguyễn Phúc Thuần thương yêu, nên được ở trong học đường Vương phủ. Vào tuổi </i>


<i>thiếu niên, ông đã tỏ ra là người khơn ngoan có khả năng lập nghiệp lớn.</i>




<i>Năm 1777 khi Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, cùng với cháu là Hoàng thân Nguyễn </i>


<i>Phúc Đồng (con Nguyễn Phúc Luân - anh Phúc Ánh) và Tống Phước Thuận, Nguyễn Doanh </i>


<i>Khoảng bị Vua Tây Sơn Nguyễn Huệ bắt tại Long Xuyên và đem về Sài Gòn giết, thì chỉ có một </i>


<i>mình Hồng thân Nguyễn Phúc Ánh thốt nạn. Ơng chạy ra đảo Thổ Chu (trấn Hà Tiên) và từ đó </i>


<i>mọi quyền hành quốc sự của các chúa Nguyễn do ông thống lĩnh.</i>



<i>Năm 1778, khi 16 tuổi ông được ba quân suy tôn lên làm ngun sối nhiếp chính quốc và khởi </i>


<i>binh chiếm lại Gia Định. Trong 24 năm, được sự giúp đỡ của dân chúng miền Nam, Nguyễn Ánh đã </i>


<i>cùng với các tướng lĩnh vượt qua mọi gian nguy, bao phen vào sinh ra tử, bền bĩ chống lại nhà Tây </i>


<i>Sơn. </i>



<i>Cuối cùng, nhờ có các mâu thuẫn nội bộ của nhà Tây Sơn và sự hậu thuẩn của quân Pháp về sau </i>


<i>(ông nhờ Bá Đa Lộc cầu viện) ông đã khôi phục lại xứ Đàng Trong của các Tiên Chúa. Năm 1801 </i>


<i>ông tiến quân ra Bắc Hà, đánh bại hoàn toàn nhà Tây Sơn; năm 1802 lập nên nước Việt Nam như </i>


<i>ngày nay.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i><b>Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu (1762-1814)</b></i>



<i><b>(Mẹ Thái Tử Cảnh)</b></i>



<i>Tên húy: Tống Thị Lan </i>



<i>Bà là con gái thứ ba của Qui Quốc Công Tống Phước Khuông, mẹ họ Lê. Bà </i>


<i>là người nhân hậu, cần kiệm, biết thương yêu tất cả mọi người. Bà thận trọng </i>


<i>lễ phép, cư xử đúng theo lễ nghi nên được vua Gia Long rất sủng ái. Vua Gia </i>


<i>Long cưới bà lúc ơng được 18 tuổi.</i>



<i>Bà là mẹ của Hồng Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh. Bà hạ sinh được hai thái tử </i>


<i>với vua Gia Long: Nguyễn Phúc Chiểu (mất lúc mới sinh được vài ngày) và </i>



<i>Nguyễn Phúc Cảnh.</i>



<i>Bà được được lập làm Hồng Hậu năm Bính Dần (1806). Tháng 6 năm Canh </i>


<i>Thìn (1820) tơn thụy là: “Thừa Thiên Tá Thánh Hậu Đức Từ Nhân Giản Cung </i>


<i>Tề Hiếu Dục Chính Thuận Nguyên Cao Hoàng Hậu”.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i><b>Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (1769 – 1846)</b></i>



<i><b>(Mẹ vua Minh Mạng)</b></i>



<b> </b>

<i><b>Tên húy: Trần Thị Đang, Kính</b></i>



<i>Bà là con gái của Thọ Quốc Cơng Trần Hưng Đạt, mẹ họ Lê. Bà là người cần kiệm, </i>


<i>hiền từ, thơng thuộc kinh sử, tính lại khiêm cung thường hay lo nghĩ đến dân. Bà luôn </i>


<i>luôn nghĩ đến việc nước, khuyên con nhủ cháu mà ít khi nghĩ đến mình. </i>



<i>Năm Tân Tỵ (1821) bà được tấn tơn làm Hồng Thái Hậu.</i>


<i> </i>



<i>Năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị dâng tôn hiệu là: Nhân Tuyên Từ Khánh Thái </i>


<i>Hoàng Thái Hậu. </i>



<i>Năm Quý Mão (1843) nhân trong cung gặp việc tốt là "ngũ đại đồng đường”, vua Thiệu </i>


<i>Trị dâng Kim sách tấn tôn là: “Thánh Mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Ninh </i>


<i>Thái Hoàng Thái Hậu”. </i>



<i>Bà mất ngày 18 tháng 9 năm Bính Ngọ (6-11-1846), thọ 76 tuổi. Vua Thiệu Trị dâng tôn </i>


<i>thụy là: “Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dũ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch </i>


<i>Nguyên Cơng Cao Hồng Hậu”.</i>




<i> </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10></div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i><b>Vua Minh Mạng</b></i>

<b> </b>



<b>(1820-1840)</b>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1791-1840</b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1820-1840</b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Minh Mạng</b></i>



<i><b>Miếu hiệu: </b></i>

<i><b>Thánh Tổ Nhân Hoàng Ðế</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i><b>Nguyễn Phúc Đảm là con trai thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao Hồng Hậu Trần Thị </b></i>



<i>Đang. Ơng sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi, tức 25 tháng 5, 1791 tại làng Tân Lộc, gần Sài Gòn, </i>


<i>giữa cuộc Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1787-1802). </i>



<i>Con thứ hai của Gia Long là hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh mất sớm năm 1801. Do thái tử Cảnh </i>


<i>và người con chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Cơ Đốc từ Pháp nên sau khi hoàng tử Cảnh qua đời, </i>


<i>vua Gia Long khơng chọn cháu đích tơn của mình (con Cảnh) làm người thừa kế vì sợ những ảnh </i>


<i>hưởng của Pháp tới triều đình.</i>



<i>Mặc dù có nhiều đình thần phản đối nhưng vua Gia Long vẫn quyết chọn Nguyễn Phúc Đảm làm </i>


<i>người kế vị. Năm 1815, Nguyễn Phúc Đảm được phong Hồng Thái Tử và từ đó sống ở điện </i>


<i>Thanh Hoà để quen với việc trị nước.</i>

<b> </b>



<i>Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (chữ Hán: </i>

<i>明命 , 25 tháng 5, 1791 – 20 tháng 1, 1841), tức </i>


<i>Nguyễn Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế - là vị Hồng đế thứ hai (ở ngơi từ 1820 đến 1841) của nhà </i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>miền Bắc và Lê Văn Khơi ở miền Nam. Triều đình đã phải đối phó vất vả với những cuộc </i>


<i>nổi dậy ấy.</i>



<i>Ngồi việc trừ nội loạn, Minh Mạng còn chủ trương mở mang thế lực ra nước ngồi. </i>


<i>Ơng đổi tên Việt Nam thành Đại Nam, và muốn cho đất nước trở thành một đế quốc </i>


<i>hùng mạnh. </i>



<i>Nhà vua lập các phủ Trấn Ninh, Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống chế Ai Lao; </i>


<i>và thực sự kiểm soát Chân Lạp, đổi Nam Vang (Phnôm Pênh ngày nay) thành Trấn Tây </i>


<i>thành; kết quả là Đại Nam có lãnh thổ rộng hơn cả. </i>



<i>Do khơng có thiện cảm với phương Tây, Minh Mạng đã khước từ mọi tiếp xúc với họ. </i>


<i>Ngồi ra, vì Minh Mạng khơng thích đạo Cơ Đốc của phương Tây, nên ông đã ra chiếu </i>


<i>cấm đạo và tàn sát hàng loạt tín đồ Cơ Đốc giáo. </i>



<i>Thụy hiệu do vua con Thiệu Trị đặt cho ông là: </i>



<i>Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại Thành </i>


<i>Hậu Trạch Phong Cơng Nhân Hồng Đế (</i>

體天昌運至孝淳德文武明斷創述大成厚宅豐功



<i>仁皇帝 ).</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i><b>Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, </b></i>

<i><b>quê Thủ Đức - Gia Định. </b></i>


<i><b>(Thủ Đức – Sài Gòn) </b></i>



<i>Tên húy: Hồ Thị Hoa.</i>



<i>Hồ Thị Hoa là con gái Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi, quê Thủ Đức, tỉnh Gia </i>


<i>Định, nay thuộc quận Thủ Đức, Sài Gịn.</i>




<i>Năm Bính Dần 1806, mới 15 tuổi, bà được tuyển vào cung và sau trở thành </i>


<i>chánh hậu của vua Minh Mạng (</i>

明命

<i>; 1820-1841), duệ hiệu của bà là Tá </i>


<i>Thiên Nhân Hoàng Hậu.</i>



<i>Vì kiêng húy tên bà, nên chữ Hoa thường đọc trại là Ba hoặc Huê, Bông. Như </i>


<i>cầu Hoa gọi là cầu Bông, chợ Đông Hoa ở Huế, đọc trạnh là Đông Ba. Con bà </i>


<i>là Nguyễn Phúc Dung (Miên Tông) được lập Thái tử, về sau nối ngôi Minh </i>



<i>Mạng, tức vua Thiệu Trị (</i>

紹治

<i>; 1807-1847).</i>



<i>Bà Hồ Thị Hoa, sinh ngày 6/6/1791 (năm Tân Hợi), mất ngày 8/7/1867 (năm </i>


<i>Đinh Mão). Sau khi mất, bà có miếu hiệu là Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu. Lăng </i>


<i>bà được xây dựng vào năm 1840, nằm trong khuôn viên lăng Thiệu Trị, xã </i>


<i>Thuỷ Bằng; huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên-Huế. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Năm 1823, Minh Mạng làm bài Đế Hệ Thi và 10 bài Phiên Hệ Thi để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu </i>
<i>các thế hệ sau. Bài Đế Hệ Thi gồm 20 chữ, dùng làm chữ lót tên cho mỗi thế hệ từ vua Minh Mạng trở về sau:</i>
<i>MIÊN HỒNG ƯNG BỬU VĨNH</i>


<i>BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG</i>
<i>HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT</i>
<i>THẾ THỤY QUỐC GIA XƯƠNG </i>


<i>•MIÊN: Trường cửu phước duyên trên hết</i>


<i>* HỒNG: Oai hùng đúc kết thế gia</i>
<i>* ƯNG: Nên danh xây dựng sơn hà</i>
<i>* BỬU: Bối báu lợi tha quần chúng</i>
<i>* VĨNH: Bền chí hùng anh ca tụng</i>


<i>* BẢO: Ơm lịng khí dũng bình sanh</i>
<i>* Q: Cao sanh vinh hạnh công thành</i>
<i>* ĐỊNH: Tiên quyết thi hành oanh liệt</i>


<i>* LONG: Vương tướng rồng tiên nối nghiệp</i>
<i>* TRƯỜNG: Vĩnh cửu nối tiếp giống nòi</i>
<i>* HIỀN: Tài đức phúc ấm sáng soi</i>
<i>* NĂNG: Gương nơi khuôn phép bờ cõi</i>
<i>* KHAM: Đảm đương mọi cơ cấu giỏi</i>
<i>* KẾ: Hoạch sách mây khói cân phân</i>
<i>* THUẬT: Biên chép lời đúng ý dân</i>
<i>* THẾ: Mãi thọ cận thân gia tộc</i>
<i>* THỤY: Ngọc quý tha hồ phước lộc</i>
<i>* QUỐC: Dân phục nằm gốc giang san</i>
<i>* GIA: Mn nhà Nguyễn vẫn huy hồng</i>
<i>* XƯƠNG: Phồn thịnh bình an thiên hạ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>Tuy nhiên, chưa dừng lại đó, đi kèm với mỗi chữ trong bài Đế Hệ Thi là một bộ:</i>


<i>Miên (miên) Hồng (nhân) Ưng (thị) Bửu (sơn) Vĩnh (ngọc )</i>



<i>Bảo (phụ) Quý (nhân) Định (ngơn) Long (thủ) Trường (hịa)</i>


<i>Hiền (bối) Năng (lực) Kham (thủ) Kế (ngôn) Thuật (tâm)</i>


<i>Thế (ngọc) Thoại (thạch) Quốc (đại) Gia (hịa) Xương (tiểu)</i>



<i>Tên đặt cho các hồng tử lúc chưa làm vua bắt buộc phải dùng một chữ có bộ đó, ví dụ: </i>



<i>* Vua Thiệu Trị, có chữ lót là Miên, và tên là Tơng (thuộc bộ miên), và tất cả các anh em của vua </i>


<i>Thiệu Trị cũng đều phải có tên có chữ bộ Miên cả (tuy nhiên con của các vị hoàng tử này phải đặt </i>


<i>tên khơng được có bộ nhân, trừ con vua Thiệu Trị)</i>




<i>* Vua Tự Đức có chữ lót là Hồng, và tên là Nhậm (thuộc bộ nhân)</i>



<i>* Vua Tự Đức khơng có con, nên lấy cháu lên làm vua, người cháu này tên là Ưng Cái, chữ lót thì </i>


<i>đúng, nhưng tên khơng có bộ thị, khơng phải dịng họ chính của vua, nên để được làm thái tử, ơng </i>


<i>được đổi tên thành Ưng Chân, chữ Chân này có bộ thị. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17></div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18></div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19></div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i><b>Vua Thiệu Trị</b></i>



<i><b>(1841-1847)</b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất:</b></i>

<i><b> 1807-1847</b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1841-1847</b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Thiệu Trị</b></i>



<i><b>Miếu hiệu: </b></i>

<i><b>Hiến Tổ Chương Hoàng Ðế</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<i><b>Hoàng đế Thiệu Trị (chữ Hán: </b><b>紹治 ; sinh ngày 16 tháng 6, 1807 – mất ngày 4 tháng 10, 1847), Nguyễn Hiến </b></i>
<i><b>Tổ Chương Hoàng Đế là vị Hồng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847. Thụy hiệu của ông </b></i>


<i>là Thiệu Thiên Long Vận Chí Thiện Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đốn Văn Trị Vũ Cơng Thánh Triết Chương </i>
<i>Hồng Đế (<b>紹天隆運至善淳孝寬明睿斷文治武功聖哲章皇帝 ). </b></i>


<i><b>Thiệu Trị tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tơng (</b><b><sub>阮福綿宗 ), ngồi ra cịn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền ( 阮福</sub></b></i>


<i><b>暶 ) và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu Hồ Thị Hoa, sinh ngày 11 </b></i>


<i>tháng 5 năm Đinh Mão, tức 16 tháng 6 năm 1807, tại ấp Xn Lộc, phía Đơng kinh thành Huế. 13 ngày sau khi </i>
<i>sinh hạ Miên Tông, thân mẫu của ông mất. </i>



<i>Khi vua Minh Mạng qua đời, Nguyễn Phúc Miên Tông được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Vua </i>
<i>Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng giêng năm Tân Sửu tức 11 tháng 2 năm 1841 ở điện Thái Hòa, vừa đúng 34 </i>
<i>tuổi. </i>


<i>Sử sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hồ, siêng năng cần mẫn nhưng khơng có tính hoạt động như vua </i>
<i>cha. Vả chăng, mọi định chế pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa và binh bị đều được sắp đặt khá quy củ </i>
<i>từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị chỉ áp dụng theo các định lệ của tiên đế, khơng có sự cải cách, thay đổi gì mới. </i>
<i>Bầy tơi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Dỗn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy </i>
<i>Tiếp ra sức giúp rập.</i>


<i>Thiệu Trị cũng nổi tiếng là một vị vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là 2 bài thơ chữ Hán có tên </i>
<i>là Vũ Trung Sơn Thủy (Cảnh Trong Mưa) và Phước Viên Văn Hội Lương Dạ Mạn Ngâm (Đêm thơ ở Phước </i>
<i>Viên). Cả 2 bài khơng trình bày theo lối thường mà viết thành 5 vòng tròn đồng tâm, mỗi vịng trịn có 1 số chữ, </i>
<i>đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngơn bát cú, nhìn vào như một “trận đồ bát quái”, vua có chỉ </i>
<i>cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai tìm ra được. </i>


<i>Thiệu Trị qua đời ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, tức 4 tháng 10 năm 1847, hưởng thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến </i>
<i>Tổ. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu. Lăng của ông là Xương Lăng, tọa lạc tại làng </i>
<i>Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<i><b>Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu</b></i>


<i><b>(Thái hậu Từ Dũ, 1810-1902)</b></i>



<i>Tên húy: Phạm Thị Hằng</i>



<i>Bà </i>

<i>là vợ vua Thiệu Trị và là mẹ vua Tự </i>


<i>Đức. Bà nổi tiếng là người đức hạnh, biết </i>


<i>u q dân và giỏi ni dạy con cái.</i>




<i><b>Bà Phạm Thị Hằng, sinh ngày 19 tháng 5 </b></i>


<i>năm Canh Ngọ (1810) tại giồng Sơn Quy </i>


<i>(Gị Rùa), làng Gị Cơng, huyện Tân Hòa, </i>


<i>tỉnh Gia Định (sau thuộc tỉnh Gò Công, nay </i>


<i>thuộc Tiền Giang). Bà là trưởng nữ của </i>


<i>Quốc công Phạm Đăng Hưng và bà Phạm </i>


<i>Thị Vị. Ngay từ thưở nhỏ bà đã nổi tiếng </i>


<i>thông minh, xinh đẹp, hiếu thuận, ham đọc </i>


<i>sách.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23></div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i><b>Vua Tự Ðức</b></i>

<b> </b>



<b>(1847-1883)</b>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1829 -1883</b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1847-1883</b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Tự Ðức</b></i>



<i><b>Miếu hiệu: </b></i>

<i><b>Dực Tơng Anh Hồng Ðế</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i><b>Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (</b></i>

<i><b>阮福洪任 ), cịn có tên Nguyễn Phúc Thì ( 阮福蒔 ), là vị </b></i>



<i>Hồng đế thứ tư của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến năm 1883. Ơng là vị vua có </i>


<i>thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn.</i>



<i><b>Nguyễn Phúc Hồng Nhậm là con thứ của vua Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng, sinh </b></i>



<i>ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu, tức 22 tháng 9 năm 1829. Ông lên ngôi vào tháng 10 </i>



<i><b>năm Đinh Mùi 1847 theo di chiếu của vua cha Thiệu Trị. Lấy niên hiệu là Tự Đức. Bấy </b></i>


<i>giờ ơng mới có 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái.</i>



<i>Ðời vua Tự Ðức có rất nhiều loạn lạc (giặc cờ Ðen, cờ Vàng, cờ Trắng, nội loạn, phò Lê </i>


<i>diệt Nguyễn v.v...) và cũng là giai đoạn đầu mà Pháp đánh Việt Nam.</i>



<i>Sau khi ơng Hồng Diệu treo cổ tự tử vì mất thành, viên Khâm sai Pháp ở Huế, Rheinart </i>


<i>sang thương thuyết, trong đó địi nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ và nhường </i>


<i>thành thị Hà Nội cho Pháp. Nhiều người trong Triều đình nói rằng: "Nước ta trong cịn </i>


<i>Lưu Vĩnh Phúc, ngồi cịn nước Tàu, lẽ nào bó tay mà chịu" nên từ chối. </i>



<i>Sau đó Triều đình cho người sang cầu cứu với nước Tàu. Triều đình nhà Thanh được </i>


<i>dịp bèn gởi quân qua đóng hết các tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<i><b>Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu </b></i>



<i>Tên húy: Vỏ Thị</i>



<i>Bà là Hoàng Hậu của vua Tự Đức, là con của Thái Tử Thái Bảo, Đông Các Đại </i>


<i>Học Sĩ, kiêm quản Quốc Tử Giám sự vụ Võ Xuân Cẩn.</i>



<i>Lăng của Hoàng Hậu hiệu Khiêm Thọ Lăng, bên phía tả Khiêm Lăng, tại làng </i>


<i>Dương Xuân Thượng, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên.</i>



<i>Vua Tự Đức vì lúc bé bị bệnh đậu mùa nên khơng có con.</i>



<i><b>Ơng nhận 3 người cháu làm con ni:</b></i>



<i>Hồng Trưởng Tử Ưng Chân, tức vua Dục Đức</i>


<i>Hoàng Tử Ưng Kỷ, tức vua Đồng Khánh</i>




<i>Hoàng Tử Ưng Đăng, tức vua Kiến Phúc</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>Các Phi tần của vua Tự Đức. </i>



<i>Những người này sống đến đầu thế kỷ XX. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28></div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i><b>Vua Dục Ðức</b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b> 1853-1883</b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì:</b></i>

<i><b> 1883 </b></i>



<i><b>Niên hiệu:</b></i>

<i><b> Dục Ðức</b></i>



<i><b>Miếu hiệu:</b></i>

<i><b> Cơng Tơng Huệ Hồng Ðế</b></i>



<i><b>Tên Húy:</b></i>

<i><b> Nguyễn Phúc Ưng Chân</b></i>



<i><b>Vua Hiệp Hoà</b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1847-1883</b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1883</b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Hiệp Hoà </b></i>



<i><b>Tên Húy: </b></i>

<i><b>Nguyễn Phúc Thăng, Nguyễn </b></i>


<i><b>Phúc Hường Dật</b></i>




<i><b>Vua Kiến Phúc</b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1869-1884</b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1884 </b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Kiến Phúc </b></i>



<i><b>Miếu hiệu: </b></i>

<i><b>Giảng Tơng Nghị Hồng Ðế</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i><b>Vua Hàm Nghi</b></i>



<i><b>(1884-1885)</b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1871-1943 </b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1884-1885 </b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Hàm Nghi </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i><b>Nguyễn Phúc Ưng Lịch lên ngôi năm 1884 - chưa đầy 14 tuổi - lấy niên hiệu là Hàm Nghi. </b></i>


<i>Nhưng chỉ một năm sau đã rời bỏ ngai vàng chạy ra Tân Sở lãnh đạo Phong trào Cần Vương </i>


<i>chống lại thực dân Pháp. </i>



<i>Sau hơn ba năm nằm gai nếm mật trên các chiến khu tại vùng sơn cước các tỉnh Quảng Trị, Quảng </i>


<i>Bình và Hà Tĩnh, nhà vua bị Pháp bắt rồi đày sang Algérie năm 1888, lúc đó mới 18 tuổi. Nhà vua </i>


<i>từ trần ngày 28 tháng 11 năm Nhâm Ngọ, tức là ngày 4 tháng 1 năm 1944 tại Alger sau 55 năm </i>


<i>sống cuộc đời lưu đày, không hề được gặp lại bất cứ một người bà con họ hàng thân thích nào. </i>


<i>Khi đến Algérie, Vua Hàm Nghi là một nhà cách mạng, một thanh niên 18 tuổi khơng hề biết mảy </i>


<i>may gì về nền văn hố xứ người, tuy nhiên khi từ giã cõi đời thì ông là một người nghệ sĩ đa tài với </i>



<i>một kiến thức chẳng kém gì những bậc thượng lưu trí thức của nước Pháp.</i>



<i>Dù đã bị truất ngôi nhưng trong suốt 55 năm sống cuộc đời lưu đày ông luôn luôn giữ phong cách </i>


<i>của một bậc quân vương bởi ông không hề thoái vị. </i>



<i>Dù sống trên đất nước của kẻ thù nhưng ông vẫn luôn luôn chứng tỏ cho người Pháp thấy tinh thần </i>


<i>bất khuất của ông, sự chống đối của ông, dù chỉ là một sự chống đối tiêu cực: dù rằng ông lấy vợ </i>


<i>người Pháp, phải học nói tiếng Pháp và nền văn hoá của nước Pháp, nhưng trong suốt cuộc đời </i>


<i>lưu đày, từ ngày đặt chân lên xứ Algérie cho đến ngày từ giã cõi đời, ông không hề thay đổi trang </i>


<i>phục của quê hương ông, của dân tộc ông, đó là đầu tóc búi và cái khăn đóng đội trên đầu cùng cái </i>


<i>áo dài đen cố hữu. Ông không hề thay đổi một loại y phục nào khác.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<i>Vào 4 giờ sáng ngày 25 tháng 11 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi vào Lăng Cơ. Từ Sài Gịn, ngày </i>
<i>13 tháng 12 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống chiếc tàu mang tên "Biên Hoà" vượt đại dương đi Bắc Phi. </i>
<i>Chiều chủ nhật, 13 tháng 1 năm 1889, cựu hồng Hàm Nghi đến thủ đơ Alger của Algérie, nhà vua vừa bước </i>
<i>qua tuổi 18. Mười ngày đầu, cựu hồng Hàm Nghi tạm trú tại L'hơtel de la Régence (Tồ nhiếp chính). Sau đó, </i>
<i>ơng được chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách Alger 5 cây số. </i>


<i>Ngày 24 tháng 1 năm 1889, Toàn quyền Tirman của Algérie tiếp kiến và mời nhà vua ăn cơm gia đình. Ít ngày </i>
<i>sau, qua Toàn quyền Tirman, cựu hoàng nhận được tin thân mẫu là Bà Phan Thị Nhàn (vợ thứ của Kiên Thái </i>
<i>Vương, hoàng tử thứ 26 của vua Thiệu Trị) đã từ trần vào ngày 21 tháng 1 năm 1889 tại Huế. </i>


<i>Trong mười tháng tiếp đó, cựu hồng Hàm Nghi nhất định khơng chịu học tiếng Pháp vì ơng cho đó là thứ tiếng </i>
<i>của dân tộc xâm lược nước mình và vẫn dùng khăn lượt, áo dài theo nếp cũ ở quê hương. Mọi việc giao thiệp </i>
<i>đều qua thơng ngơn Trần Bình Thanh. </i>


<i>Nhưng về sau, thấy người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên từ tháng 11 năm </i>
<i>1889 ông bắt đầu học tiếng Pháp. Vài năm sau, vua Hàm Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp rất tốt. </i>


<i>Năm 1904, nhà vua kết hôn với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1884), con gái của ơng Laloe, chánh án tồ Thượng </i>


<i>Thẩm Alger. Đám cưới của họ trở thành một sự kiện văn hóa của thủ đơ Alger. </i>


<i>Vua Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có ba người con:</i>
<i>* Cơng chúa Như Mai sinh năm 1905</i>


<i>* Công chúa Như Lý sinh năm 1908</i>
<i>* Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33></div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34></div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35></div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<i>Vua Hàm Nghi năm 64 tuổi </i>


<i>với những tác phẩm điêu </i>


<i>khắc của ông. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

<i>Bia mộ vua Hàm Nghi </i>


<i>ở Sarlat </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<i>Di ảnh vua Hàm Nghi</i>


<i>thờ tại lâu đài De la Nauche</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<i><b>Vua Ðồng Khánh</b></i>



<i><b>(1885-1889)</b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1864-1889 </b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1885-1889 </b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Ðồng Khánh </b></i>



<i><b>Miếu hiệu: </b></i>

<i><b>Cảnh Tơng Thuần Hồng Ðế </b></i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i><b>Vua Đồng Khánh (1864–1889) </b></i>

<i>là vị vua thứ 9 của nhà Nguyễn trị vì từ năm 1885 đến 1889. </i>
<i>Hiệu của ông là Hoằng Liệt Thống Thiết Mẫn Huệ Thuần Hồng Đế.</i>


<i>Đức Cảnh Tơn Thuần Hồng Đế Đồng Khánh sinh ngày 12 tháng giêng năm Giáp Tý, tức ngày 19 tháng 2 năm </i>
<i>1864. Tên húy của Đồng Khánh các tài liệu ghi rất mâu thuẫn, có nhắc tới những tên Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, </i>
<i>Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mơng, ngồi ra cịn có tên Nguyễn Phúc </i>
<i>Đường.</i>


<i>Ơng là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Năm 1865 Ưng Kỷ được </i>
<i>vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm dạy bảo chăm sóc. </i>


<i>Khi đó vua Hàm Nghi đã thốt ly triều đình kéo cờ khởi nghĩa chống Pháp, Thống tướng de Courcy sai ông de </i>
<i>Champeaux lên yết kiến Hoàng thái hậu Từ Dũ, mẹ đẻ của vua Tự Đức, để xin lập Ưng Kỷ lên làm vua. Ngày 6 </i>
<i>tháng 8 năm Ất Dậu, tức ngày 19 tháng 9 năm 1885, Nguyễn Phúc Ưng Kỷ phải thân hành sang bên Khâm sứ </i>
<i>Pháp làm lễ thụ phong, được tôn làm vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh.</i>


<i>Đồng Khánh là ông vua không chống Pháp. Sách của Trần Trọng Kim viết: "Vua Đồng Khánh tính tình hiền </i>
<i>lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người Pháp." </i>


<i>Khi đó vua Hàm Nghi đang ở vùng Quảng Bình, qn Pháp đang tấn cơng về vùng đó. Vua Đồng Khánh đích </i>
<i>thân ra tận Quảng Bình để chiêu dụ vua Hàm Nghi và các quan tùy tùng về hàng, hứa là sẽ cho cai trị 3 tỉnh </i>
<i>Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhưng không thành công. Sau đó vua Hàm Nghi bị một thuộc hạ là Trương </i>
<i>Quang Ngọc làm phản. Hàm Nghi bị người Pháp bắt rồi bị đưa đi đầy ở Algérie. </i>


<i>Vua Đồng Khánh ở ngơi đươc ba năm thì bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý, tức ngày 28 tháng 1 </i>
<i>năm 1889. Nhà vua được 25 tuổi.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<i><b>Lưỡng Tôn Cung </b></i>



<i><b>Bà Thánh Cung là vợ thứ nhất của vua Đồng Khánh, húy là Nguyễn Thị Nhàn, con gái thứ hai </b></i>



<i>của ông Nguyễn Hữu Độ, Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ, Kinh Lược Sứ Bắc kỳ, là người có thế lực </i>


<i>nhất trong triều đình lúc bấy giờ, và rất được người Pháp tín nhiệm. Đám cưới diễn ra vào tháng 2 </i>


<i>năm 1886. Bà được phong ngay làm Hồng Q Phi (tức Hoàng Hậu), lãnh trách nhiệm tổng quản </i>


<i>Lục Viện. Năm 1924 vua Khải Định đã làm lễ tấn tơn bà làm Khơn Ngun Hồng Thái Hậu. Rồi </i>


<i>sau đó vua Bảo Đại lại làm lễ tấn gia tơn làm Khơn Ngun Xương Đức Thái Hồng Thái Hậu năm </i>


<i>1933. Bà mất tháng 11 năm 1935. </i>



<i><b>Bà Tiên Cung, người làng Trung Kiền, huyện Phú Lộc, mẹ ruột vua Khải Định, là vợ thứ hai của </b></i>


<i>vua Đồng Khánh, mặc dầu bà là người đã gặp vua Đồng Khánh trước bà Thánh Cung. Bà húy </i>


<i>Dương Thị Thục, là con gái của Phú Lộc Quận Công Dương Quang Hướng. Kể về thứ bậc thì thua </i>


<i>bà Thánh Cung nhiều, nhưng lại có thế rất mạnh là có con trai trưởng làm vua. Năm 1886, bà mới </i>


<i>chỉ được phong làm Ngũ giai Tiếp Dư; qua năm 1889, lên Tứ giai Hòa Tân, và mãi đến năm 1914, </i>


<i>mới được vua Duy Tân phong làm Tam giai Nghi Tân trong một buổi lễ khá long trọng ở phủ Phụng </i>


<i>Hóa. Sau khi lên ngơi, vua Khải Định tấn tơn bà làm Hồng Thái Phi, rồi đến năm 1924 mới tấn tôn </i>


<i>làm Khôn Nghi Hồng Thái Hậu. Sau đó, vua Bảo Đại XE tấn gia tơn làm Khơn Nghi Xương Minh </i>


<i>Thái Hồng Thái Hậu năm 1933. Bà mất năm 1944. </i>



<i>Sau khi con trai làm vua (5/1916), hai bà mới trở lại cung cấm. Bà Thánh Cung ở tại cung Ninh Thọ </i>


<i>(sau vua Khải Định đổi làm Diên Thọ), và bà Tiên Cung ở tại cung Trường Ninh (sau đổi làm </i>



<i>Trường Sanh). </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<i><b>Khôn Nguyên Hoàng Thái Hậu</b></i>



<i>(thường được gọi là Đức Thánh Cung)</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

<i><b>Khơn Nghi Hịang Thái Hậu </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44></div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<i><b>Vua Thành Thái </b></i>




<i><b>(1889-1907) </b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1879-1954</b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1889-1907</b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Thành Thái </b></i>



<i><b>Miếu hiệu: </b></i>

<i><b>Hồi Trạch Cơng Hồng Ðế </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<i><b>Vua Thành Thái tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Lân (</b></i>

<i><b>阮福寶嶙 ), cịn có tên là Nguyễn Phúc </b></i>



<i><b>Chiêu (</b></i>

<i>阮福昭 ). Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng Hậu (Phạm Thị Điểu), </i>



<i>sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão, tức 14 tháng 3 năm 1879. </i>



<i>Năm ông bốn tuổi, vua cha Dục Đức bị phế và chết trong tù. Đến nǎm được chín tuổi, vì ơng ngoại </i>


<i>là Phạm Đình Bình (làm quan Thượng Thư Bộ Hộ) bị vua Đồng Khánh bắt giam, Bửu Lân lại phải </i>


<i>cùng mẹ lên kinh đô, chịu sự quản thúc, sống trong cảnh thiếu thốn.</i>



<i>Ngày 28 tháng 1 năm 1889, vua Đồng Khánh mất vì bệnh. Khi đó con vua Đồng Khánh mới 3 tuổi </i>


<i>nên không nối ngôi được, triều đình Huế xin ý kiến của Khâm sứ Trung kỳ Pierre Paul Rheinart. </i>


<i>Ở tịa khâm sứ lúc này có ông Diệp Vǎn Cương đang làm thông ngôn. Diệp Vǎn Cương lấy bà cô </i>


<i>ruột của Bửu Lân, và cũng có cảm tình thương hại vua Dục Đức, nên cố tìm cách cho cháu mình </i>


<i>lên ngơi. </i>



<i>Ơng dịch cho Khâm sứ Rheinart nghe hoàn toàn khác với ý của Viện cơ mật. Vì thế Bửu Lân được </i>


<i>chọn lên ngai vàng. Bà Phạm Thị Điểu nghĩ tới cảnh vua Dục Đức và thảm kịch bốn tháng ba vua </i>


<i>trước đây nên khóc lóc, khơng đồng ý, phải khuyên giải mãi mới ưng thuận.</i>




<i>Sau khi lên ngôi, nhà vua tiến hành canh tân đất nnước, đẩy mạnh quá trình đơ thị hố, cho lập chợ </i>


<i>Đơng Ba, xây cầu Tràng Tiền, mở đường Nam Giao Tân Lộ, thành lập thị xã Huế. Vua Thành Thái </i>


<i>là người có tư tưởng chống Pháp. Vì vậy, sau 19 năm ở ngơi, dưới áp lực của Pháp, triều đình Huế </i>


<i>lấy cớ nhà vua mắc bệnh tâm thần và buộc phải thối vị.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<i><b>Từ Minh Hồng Hậu </b></i>



<i><b>Bà tên là Phạm Thị Điều, vợ vua Dục </b></i>


<i>Đức, mẹ vua Thành Thái, sinh ngày </i>


<i>8/9/1855, mất ngày 27/12/1906. </i>



<i>Cuộc đời bà khá gian truân, sau khi </i>


<i>vua Dục Đức bị phế truất và chết, một </i>


<i>mình bà lo việc an táng và ở lại chùa </i>


<i>để hương khói cho ông. </i>



<i>Khi vua Thành Thái lên ngôi, bà được </i>


<i>đưa về ở cung Diên Thọ. Sau khi vua </i>


<i>Thành Thái bị đày, bà lại trở về An </i>


<i>Lăng ở ẩn cho đến khi qua đời và </i>


<i>được an táng tại đây. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<i><b>Thứ Phi Nguyễn Thị Dinh</b></i>


<i>vợ vua Thành Thái, </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49></div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

<i><b>Vua Duy Tân </b></i>



<i><b>(1907-1916)</b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1900-1945 </b></i>




<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1907-1916 </b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Duy Tân </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<i><b>Ngày 5 tháng 9 năm 1907, Nguyễn Phúc Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân. Để kiểm soát vua </b></i>
<i><b>Duy Tân, người Pháp cho lập một phụ chính gồm sáu đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh </b></i>
<i><b>Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp. </b></i>
<i><b>Một tiến sĩ sinh học là Ebérhard được đưa đến để dạy học cho vua Duy Tân, theo nhiều người thì đó chỉ </b></i>
<i><b>là hành động kiểm sốt. </b></i>


<i><b>Khoảng năm 1912, Khâm sứ Georges Marie Joseph Mahé mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy </b></i>
<i><b>tượng vàng đúc từ thời Nguyễn Phúc Chu trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào lăng Vua Tự Đức </b></i>
<i><b>và đào xới lung tung trong Đại Nội để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thơ </b></i>
<i><b>bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ. Duy Tân ra lệnh đóng cửa cung khơng tiếp ai. Toà Khâm sứ Pháp làm </b></i>
<i><b>áp lực với nhà vua thì Duy Tân đe đọa sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng </b></i>
<i><b>Toàn quyền Albert Pierre Sarraut từ Hà Nội phải vào giải quyết vua Duy Tân mới cho mở Hồng thành. </b></i>
<i><b>Năm vua Duy Tân 13 tuổi, ơng xem lại những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký. Nhà vua cảm thấy </b></i>
<i><b>việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau nên một </b></i>
<i><b>hôm giữa triều đình, nhà vua tỏ ý muốn cử ơng Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng Pháp sang Pháp để </b></i>
<i><b>yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre). Nhưng cả triều đình khơng ai dám nhận chuyến đi </b></i>
<i><b>đó. </b></i>


<i><b>Năm 15 tuổi, vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ơng đại thần trong Phụ chính, bắt buộc các vị phải ký vào </b></i>
<i><b>biên bản để đích thân vua sẽ cầm qua trình với tồ Khâm Sứ nhưng các đại thần sợ người Pháp giận sẽ </b></i>
<i><b>kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái hậu để nhờ bà can gián nhà vua. Từ đó </b></i>
<i><b>khơng những nhà vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52></div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<i>Nguyễn Phúc Vĩnh San </i>


<i>(vua Duy Tân) với chị </i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54></div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

<i><b>Vua Khải Ðịnh </b></i>



<i><b>(1916-1925) </b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1885-1933 </b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1916-1925 </b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Khải Ðịnh </b></i>



<i><b>Miếu hiệu: </b></i>

<i><b>Hoằng Tông Tuyên Hồng Ðế </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

<i><b>Hoằng Tơn Tun Hồng Đế Khải Định tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo (</b></i>

阮福寶



<i><b>嶹 ), cịn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn ( 阮福昶 ), con trưởng của vua Đồng Khánh và </b></i>



<i>bà Hựu Thiên Thuần Hoàng Hậu Dương Thị Thục, sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu tức </i>


<i>8 tháng 10 năm 1885.</i>



<i>Khi nhà vua Đồng Khánh mất, Bửu Đảo còn nhỏ tuổi nên không được kế vị. Nǎm 1906 </i>


<i>Bửu Đảo được phong là Phụng Hóa Cơng. Bửu Đảo là người mê cờ bạc, thường xuyên </i>


<i>bị thua, có khi phải cầm bán cả những đồ dùng và những người hầu hạ. Bửu Đảo còn </i>


<i>bắt vợ mình, là con gái của quan đại thần Trương Như Cương, về xin tiền bố mẹ gán nợ </i>


<i>để đánh bạc tiếp.</i>



<i>Việc Bửu Đảo lên ngơi cũng khơng hồn tồn sn sẻ. Vì sau khi buộc tội vua Duy Tân, </i>


<i>người Pháp đã có ý muốn xóa bỏ nền quân chủ ở Việt Nam nhưng các triều thần, đặc </i>


<i>biệt là thượng thư Nguyễn Hữu Bài không chịu nên Pháp phải chiều theo ý.</i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57></div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<i><b>Nhất Giai Ân Phi </b></i>


<i><b>Hồ Thị Chỉ</b></i>



<i>Vợ vua Khải Định </i>



<i>con gái của Thượng Thư Bộ Học </i>


<i>Hồ Đắc Trung</i>



<i> Bà Ân Phi khơng có con, sau khi vua </i>


<i>Khải Định băng hà, bà ngày càng trở </i>


<i>thành một bóng mờ trong cung cấm. </i>


<i>Càng lớn tuổi càng có triệu chứng tâm </i>


<i>thần, có lẽ vì gặp nhiều thất vọng trong </i>


<i>đời, chẳng hạn mối tình đầu đã theo gió </i>



<i>chính trị bay sang Phi Châu (vua Duy </i>


<i>Tân), và tuy kết hôn với vua Khải Định </i>


<i>nhưng tình vợ chồng lạt lẻo, khơng con.</i>


<i>Sau năm 1945, người ta thường gặp bà </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

<i><b>Nhị Giai Hữu Phi - Hoàng Thị Cúc</b></i>



<i>(Đức Từ Cung - Đoan Huy Hoàng Thái Hậu)</i>



<i>Vợ vua Khải Định, mẹ ruột vua Bảo Đại. Bà Hoàng </i>
<i>Thái Hậu cuối cùng của triều Nguyễn.</i>


<i>Bà Hoàng Thị Cúc, người quê Mỹ Lợi, huyện Phú </i>
<i>Lộc, con của ơng Hồng Văn Tích. Tiểu sử của bà </i>
<i>cũng mang nhiều nét mờ ảo của dư luận và tin đồn, </i>


<i>vì vậy có nhiều kiến giải khác nhau được công bố. </i>
<i>Chẳng hạn, theo Nguyễn Lý Tưởng - bà Cúc “nguyên </i>
<i>không phải là cung phi hay cung tần mà chỉ là một </i>
<i>gái hầu của Ngọc Lâm Công Chúa (con vua Đồng </i>
<i>Khánh), xuất thân từ gia đình bình dân.” </i>


<i>Theo Trần Gia Phụng - “Khi mới đến Huế, bà Cúc </i>
<i>buôn bán nhỏ ở chợ An Cựu, gặp mẹ ruột của hoàng </i>
<i>thân Bửu Đảo (sau này là vua Khải Định) là bà Tiên </i>
<i>Cung (vợ vua Đồng Khánh), người không cùng làng </i>
<i>nhưng cùng huyện Phú Lộc. Bà Tiên Cung nhận bà </i>
<i>Cúc vào làm việc trong dinh của ông hoàng Bửu Đảo </i>
<i>ở An Cựu (sau này xây thành An Định Cung). Từ đó </i>
<i>bà Cúc mới quen biết ơng hồng”. Bà Cúc sinh Bảo </i>
<i>Đại trước khi Khải Định cưới bà Ân Phi Hồ Thị Chỉ.</i><b>   </b>


<i>Vì khơng phải là dịng dỏi q tộc nên bà không được </i>
<i><b>phong chánh phi. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60></div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

<i><b>Vua Bảo Ðại </b></i>



<i><b>(1925-1945)</b></i>



<i><b>Năm sanh, năm mất: </b></i>

<i><b>1913-1997 </b></i>



<i><b>Giai đoạn trị vì: </b></i>

<i><b>1925- 1945 </b></i>



<i><b>Niên hiệu: </b></i>

<i><b>Bảo Ðại </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62></div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

<i><b>Hoàng Đế Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (</b><b>阮福永瑞 ), cịn có tên Nguyễn Phúc Thiển ( 阮福晪 ) </b></i>



<i>sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 (năm Quý Sửu) tại Huế, là con của vua Khải Định và bà Từ Cung Hồng Thị </i>
<i>Cúc. </i>


<i>Năm 1922, ơng được sách lập Đơng Cung Hồng Thái tử. Ngày 24 tháng 4 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ </i>


<i>chồng cựu Khâm s Trung k Jean Franỗois Eugốne Charles nhn lm con nuôi và đưa sang Pháp học ở trường </i>
<i>Lycée Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques), Paris. </i>


<i>Năm 1925, vua Khải Định băng hà. Ngày 8 tháng 1 năm 1926 ông được tôn kế vị, lấy niên hiệu là Bảo Đại, là </i>
<i>vua thứ 13 của triều Nguyễn khi đúng 13 tuổi. Sau khi lên ngôi, ông lại trở sang Pháp để học tiếp, cịn việc triều </i>
<i>chính trong nước giao cho Tơn Thất Hân nhiếp chính trong thời gian vua vắng mặt. Tháng 9 năm 1932, Bảo Đại </i>
<i>hồi loan trở về nước, chính thức làm vua. </i>


<i>Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm </i>
<i>Nam Phương Hoàng Hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho </i>
<i>đến các vị vua về sau, các vợ vua chỉ được phong tước Vương Phi, sau khi mất mới được truy phong Hồng </i>
<i>Hậu. Ơng là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều </i>
<i>phản đối vì Nguyễn Hữu Thị Lan là người Công giáo và mang quốc tịch Pháp. </i>


<i>Bảo Đại đã cho bỏ một số tập tục mà các tiên vương đã bày ra. Từ nay thần dân không phải quỳ lạy mà có thể </i>
<i>ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà vua tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ </i>
<i>bắt tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy. </i>


<i>Bảo Đại cũng cải tổ bộ máy hành chính, cho các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài về </i>
<i>hưu, sắc phong thêm 4 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính. Ơng thành lập Viện Dân Biểu để </i>
<i>trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay </i>
<i>mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo hộ. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<i>Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông qua đời ngày 31 tháng 7 năm </i>



<i>1997 tại Quân Y Viện Val de Grâce, hưởng thọ 84 tuổi. Ông cũng là một phế đế sống </i>


<i>thọ nhất trên thế giới thời hiện đại. </i>



<i>Đám tang Bảo Đại được điện Elysée đứng ra lo liệu đầy đủ và trang trọng. Về phía gia </i>


<i>đình, có hồng tử Bảo Long và các công chúa cùng đến tiễn đưa thân phụ, ngồi ra cịn </i>


<i>có bà Didelot (chị ruột của bà Nam Phương), tuy đã 90 tuổi nhưng cũng tới dự. Ông </i>


<i>được an táng tại nghĩa trang Passy, quận 16, Paris, khá gần tháp Eiffel. </i>



<i>Đám tang Bảo Đại được nhà nước Pháp cử một tiểu đội lính lê dương quân phục trắng, </i>


<i>gù đỏ trên vai, bồng súng, một sĩ quan cầm quốc kỳ Pháp đi đầu và tiểu đội lính cầm </i>


<i>súng đi hai bên linh cữu. Chính phủ Pháp có cử đại diện đến dự lễ, chia buồn và tiễn </i>


<i>đưa. </i>



<i>Ông cùng Nam Phương Hoàng Hậu sinh hạ 2 thái tử và 3 cơng chúa:</i>



<i>- Hồng Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, mất ngày 28 </i>


<i>tháng 7 năm 2007.</i>



<i>- Công chúa Nguyễn Phúc Phương Mai,sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937 tại Đà Lạt.</i>


<i>- Công chúa Nguyễn Phúc Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

<i><b>Nam Phương Hoàng Hậu </b></i>

<i>- vị Hoàng Hậu cuối </i>
<i>cùng của Vịệt Nam - khuê danh Nguyễn Hữu Thị </i>
<i>Lan (Marie Thérèse) sinh năm 1914 tại Gị Cơng </i>
<i>Nam Phần, con của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào </i>
<i>và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức Huyện </i>
<i>Sỹ, một trong những người giàu có nhất miền Nam. </i>
<i>Năm 1926, Nguyễn Hữu Thị Lan, 12 tuổi, được gia </i>
<i>đình cho sang Pháp tịng học tại trường Couvent </i>
<i>des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng thuộc loại </i>

<i>nhà giàu ở Paris do các nữ tu điều hành. Sau khi </i>
<i>thi đậu Tú Tài vào năm 1932, bà theo chuyến tàu </i>
<i>của hãng Messagerie Maritime trở về nước cùng </i>
<i>lượt với Bảo Đại. </i>


<i>Mãi đến gần một năm sau, nhân dịp vua Bảo Đại </i>
<i>nghỉ mát tại Đà Lạt và do sự sắp đặt của Toàn </i>
<i>Quyền Đông Dương, bà gặp vua Bảo Đại tại khách </i>
<i>sạn Palace (còn gọi là khách sạn Langbian) ở Đà </i>
<i>Lạt. </i>


<i>Ðám cưới của vua Bảo Đại và bà diễn ra tại Huế </i>
<i>ngày 20-3-1934. Ngay ngày hơm đó Nguyễn Hữu </i>
<i>Thị Lan được tấn phong làm Hoàng hậu với danh </i>
<i>hiệu Nam Phương. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

<i>Lúc vua Bảo Đại đã từ chức, bà Nam Phương đang ở tại An </i>


<i>Định Cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh </i>


<i>đồng bào miền Nam và quê hương của bà đang trực tiếp </i>


<i>gánh chịu, cựu Hồng Hậu Nam Phương đã gởi một thơng </i>


<i>điệp cho bạn bè ở Á Châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành </i>


<i>động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:</i>



<i>"Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thốt khỏi sự đơ </i>


<i>hộ của người Pháp nhưng vì lịng tham của một thiểu số thực </i>


<i>dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng Gia Anh nên </i>


<i>hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên </i>


<i>mãnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động nầy của </i>


<i>thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước </i>


<i>Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai </i>



<i>đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành </i>


<i>động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm </i>


<i>tàn phá đất nước tôi.</i>



<i>Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu </i>


<i>tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh </i>


<i>vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can </i>


<i>thiệp để kiến tạo một nền hòa bình cơng minh và chân chính </i>


<i>và xin q vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng </i>


<i>bào của chúng tôi".</i>



<i>Ký tên:</i>



<i>Bà Vĩnh Thụy</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

<i>Mộ của Nam Phương Hoàng Hậu tại nghĩa trang Chabrignac. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68></div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

<i>Vua Bảo Đại và </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

<i>Bà Từ Cung, vua Bảo </i>


<i>Đại, Nam Phương Hoàng </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

<i>Hoàng Thái Tử</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

<i>Hoàng Đế Bảo Đại</i>



<i>Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn</i>



<i>Nam Phương Hoàng Hậu</i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

<i><b>CHÚC AN LẠC</b></i>



<i><b>Xin xem tiếp phần 6 – “Từ Dân Lên Quan” </b></i>



<i>Tiền thưởng đời Khải Định</i>



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×