Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.44 KB, 31 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>DANH SƠN TAM ĐẢO</b>
Danh sơn Tam Đảo đứng giữa vùng Trung du, dài hơn 50km, chạy theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam, từ huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) kéo dài tới các
huyện Kim Anh, Đa Phúc cũ (nay là huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội), làm
ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Vĩnh Phúc. Tam Đảo có trên 10
đỉnh cao trên dưới 1.400m; riêng đỉnh núi Giữa, giữa ba tỉnh Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Vĩnh Phúc cao nhất 1.529m. Đến cuối dãy, núi hạ thấp khá đột ngột, ở
ngang Đèo Nhe chỉ có 600m và tới Kẽm Dõm có 300m, rồi lặn dần, hồ vào đồng
bằng Sóc Sơn.
Núi được gọi là Tam Đảo vì ở khoảng giữa dãy có 3 ngọn núi cao vút trơng
như 3 hịn đảo nổi bồng bềnh giữa biển mây bao phủ. Ba ngọn đó từ Tây Bắc
xuống Đơng Nam là Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị.
Đỉnh Phù Nghĩa có nghĩa là giúp việc nghĩa, cao 1400m. Tên này tương
truyền do Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương đặt.
Đỉnh Thạch Bàn cao 1388m, có nghĩa là bàn đá. Gọi như thế vì đỉnh núi có
một tảng đá lớn phẳng như mặt bàn.
Thiên Thị có nghĩa là Chợ Trời, cao 1.375m; trên đỉnh núi có một khoảng
bằng phẳng rải rác có những tảng đá thấp cao, trông như “người trời” xuống họp
chợ.
Bao trùm lên danh sơn Tam Đảo là bạt ngàn rừng nguyên sinh á nhiệt đới
đã được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định bảo vệ và xây dựng thành Vườn Quốc
gia Tam Đảo. Nằm trong Vườn Quốc gia Tam Đảo có nhiều danh lam thắng cảnh
và di tích lịch sử - văn hố có giá trị, giá trị bậc nhất là quần thể di tích danh thắng
Tây Thiên và khu nghỉ mát Tam Đảo.
Vườn Quốc gia Tam Đảo được thành lập theo Quyết định số 136/TTg ngày
6/3/1996 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 601/NN-TCCB/QĐ ngày
15/5/1996 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Phúc giao cho Vườn Quốc gia Tam Đảo là 15.428,55ha nằm trên địa bàn các
huyện: Lập Thạch 5.391,99ha, Tam Dương và Bình Xuyên 9.932,65ha, thị xã
Vĩnh Yên 103,91ha.
Rừng trong Vườn Quốc gia Tam Đảo có 4 hệ sinh thái:
<i>Hệ sinh thái dân cư, làng xã: Đặc trưng là rừng phân tán, cây trồng mới</i>
hoặc tái sinh, tỷ lệ che phủ rất thấp, từ 1-5% diện tích khu vực.
Đây là hệ sinh thái rừng nghèo, đa dạng sinh học bị mất nhiều. Một phần
đồi thấp được sử dụng trồng sắn, mía, cây ăn quả…
<i>Hệ sinh thái rừng kín, thường xanh, mưa mùa nhiệt đới:</i>
Đây là hệ sinh thái rừng đặc trưng ở Tam Đảo, phân bố từ độ cao 100 đến
700 - 800m. Rừng có 3 tầng cao: Tầng cây cao 15-20m chiếm ưu thế, tầng trung
bình từ 8-15m ít hơn và tầng thấp nhỏ hơn 6m. Hệ cây cao có các loại trám, gội,
bời lời, xoan nhù; trung bình có ngát, thị rừng; thấp có cà phê, trúc đào, đơn nem.
<i>Hệ sinh thái rừng kín, thường xanh, mưa mùa á nhiệt đới: Phân bố từ 800m</i>
trở lên đỉnh phân thuỷ. Hệ sinh thái này nằm trong khu nguyên sinh cần bảo vệ
nghiêm ngặt. Rừng có độ che phủ cao, đa dạng sinh học khá phong phú, cây xanh
quanh năm, có khí hậu á nhiệt đới rõ rệt, phát triển nhiều tầng cao khá phong phú
về chủng loại và số lượng thuộc loại rừng giàu và trung bình.
<i>Hệ sinh thái khu du lịch: Phân bố ở độ cao 1.000-1.200m, có tính chất</i>
Trữ lượng rừng ở Tam Đảo có 3 loại. Diện tích rừng nghèo chiếm 55%
tổng diện tích khu vực; trạng thái rừng giàu chiếm khoảng 5% phân bố ở sườn núi
cao từ 800m trở lên.
Về hệ thực vật có 130 họ, 344 chi và 490 loài phân bố ở 3 nhóm thực vật:
- Nhóm quyết thực vật có 21 họ, 32 chi và 53 lồi.
- Nhóm thực vật hạt kín có 102 họ, 305 chi và 426 lồi.
Về hệ động vật có 26 bộ, 86 họ, 281 lồi thuộc 4 lớp chủ yếu.
Lớp lưỡng cư có số bộ, họ và lồi ít nhất, có 19 lồi chiếm 6,7%. Trong lớp
này, có lồi cá cóc Tam Đảo có giá trị khoa học cao, đã được đưa vào Sách Đỏ
Việt Nam.
Lớp bị sát có số lồi trung bình, tổng số 46 loài, chiếm 25,8% tổng số. Một
số loài thường gặp như Tắc kè, thằn lằn, Kỳ đà…
Lớp chim có số lồi nhiều nhất, 158 lồi, chiếm 25,8% tổng số. Một số họ
có số lồi đơng như gà lơi, chim chích, chào mào, chích ch, khướu…
Lớp thú có số lồi trung bình là 58 lồi, chiếm 25,8% tổng số. Một số loài
thú lớn như: Gấu, báo, hổ, nai trước đây số lượng khá lớn nhưng đến nay cịn rất
ít; chủ yếu lồi nhỏ như chuột, cầy, sóc…
Một số động vật đặc hữu và quý hiếm ở Vườn Quốc gia Tam Đảo có giá trị
<b>KHU NGHỈ MÁT TAM ĐẢO</b>
Đối với Tam Đảo, các nhà chuyên môn, qua nghiên cứu khí hậu và mơi
trường đã nhận định: “Tất cả những điều kiện cần thiết cho một viện điều dưỡng
trên núi đều hội tụ đầy đủ ở khu suối Bạc. Trước hết là nước lành: Các cuộc thử
nghiệm y tế vệ sinh đều chứng minh ở đây khơng có bệnh sốt rét rừng. Tiếp đến là
khí hậu mát mẻ: Trong những ngày trời nóng, nhiệt độ thường thấp hơn ở Hà Nội
100<sub>C. Cuối cùng là phong cảnh rất ngoạn mục”.</sub>
sàn dân gian cách điệu hoá mà lại giống kiểu nhà miền núi Châu Âu, trang nhã,
hài hoà với núi rừng xung quanh.
Từ năm 1969 trở đi, mặc dù cuộc chống Mỹ cứu nước còn ác liệt, ta vẫn cố
gắng xây dựng những cơng trình như Nhà khách Chính phủ, Khách sạn du lịch 4
tầng, Nhà nghỉ Cơng đoàn 3 tầng…
Từ ngày đất nước thống nhất, nhất là trong gần hai chục năm đổi mới, khu
nghỉ mát Tam Đảo được xây dựng với tốc độ nhanh; nhiều công trình được kiến
thiết hiện đại, như Nhà khách Bộ Văn hố, khách sạn “Cây thơng”. Nhân dân cũng
xây nhiều khách sạn, nhà nghỉ cao tầng.
Khu nghỉ mát là một thung lũng tròn, điểm trung tâm nằm trên vĩ độ 210<sub>24',</sub>
kinh độ 1050<sub>38' đường kính khoảng 2km, tựa lưng vào núi Máng Chì; bên trái</sub>
Máng Chì (đứng cửa lũng nhìn lên) là núi Nhà Thờ; bên phải Máng Chì là núi Mỏ
Quạ. Cửa lũng nhìn về phía Nam, trơng xuống đồng bằng. Dòng suối Bạc từ trên
Trung lũng, các nhà nghỉ, khách sạn, biệt thự… nằm rải vòng tròn từ độ cao
930m đến 970m so với mặt nước biển. Từ đây nhìn xuống những ngày trời quang
mây tạnh, sẽ thấy cả một vùng nước non mỹ lệ hiện ra. Dạo chơi quanh khu nghỉ
mát, rất dễ bắt gặp những cây dương xỉ thân gỗ mọc la liệt, loại cây ra đời từ đại
Trung sinh trên thế giới gần như tuyệt giống, nay ở nơi nào cịn sót đều được xem
là "kỳ quan" của thiên nhiên; cũng có thể nhìn thấy sóc bay, hồng anh, vẹt… trên
cây hoặc rùa hộp, cá cóc… ở khe suối.
<b>DANH THẮNG TÂY THIÊN</b>
Theo thần phả đền Tây Thiên, khu danh thắng này có từ thời Hùng Triệu
Vuơng. Sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn (1723-1783) ghi: Núi Tam Đảo
ở địa phận hai xã Lan Đình và Sơn Đình huyện Tam Dương. Mạch núi này do khí
thế cao cả của các núi ở xã Kỳ Phú, Huân Chu và Cát Nê thuộc huyện Phú Lương
và Đại Từ, trấn Thái Nguyên kéo đến. Đến đây đột khởi 3 ngọn cao vót đến tận
mây xanh; phía sau núi, vách đá đứng sững; đỉnh núi thì đất đá lẫn lộn, cây cối
rậm rạp xanh tươi, nhiều cây hồi hương và cây quế; chân núi, ở đằng trước, về bên
tả có khe Giải Oan, tức là thượng lưu sông Sơn Tang huyện An Lạc, từ khe Giải
Oan này chảy xuống Sơn Tang, qua Hương Canh, chảy ra Nam Viêm rồi vào sông
Nguyệt Đức; ở giữa ngọn núi gọi là núi Kim Thiên, cao chót vót, ghềnh thác
khơng biết bao nhiêu mà kể. Bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không trông
thấy đáy; sườn núi có chùa Tây Thiên, tre xanh thơng tốt, cảnh sắc thanh nhã; trên
đỉnh núi cao có chùa Đồng Cổ, vừa lên vừa xuống phải mất 2 ngày.
“… Tam Đảo, thế núi liên miên, về phía Đơng là các núi Độc Tơn, Ngọc
Bội và Thanh Lanh, về phía Tây là núi Bông, núi Trữ Lai, núi Lịch và khe Nhân
Túc. Khe Nhân Túc, tục gọi là khe chân người, nước khe từ trong núi Che Tai
(Yểm Nhĩ) và núi Ngọc Bội từng đoạn từng đoạn chảy ra qua núi Thanh Lanh
gồm 99 khúc. Núi Cổ Cị ở phía núi Ngọc Bội và Bàn Long, chồng chất tầng tầng
lớp lớp, trong ấy lại có núi Hn Bơng, núi Phi, núi Thiên Thị và núi Đát Ma, đều
rất nguy nga, hiểm trở”.
các trai thanh gái lịch bao đời nay đã phải trèo non lội suối chống gậy Tây Thiên
ngưỡng cảnh bồng lai.
Mấy thế kỷ đã trôi qua, Vườn tiên, Hồ sen, Am gió, Thang mây… và bao di
tích khác khơng cịn nữa. Chùa Đồng Cổ, một ngơi chùa đúc toàn bằng đồng,
chiều rộng 0,6m, chiều dài 0,8m và cao 0,6m được đặt ở đây ít nhất cũng từ đời
nhà Trần (TK XIII - XIV); trong chùa có một pho tượng bằng đồng trong tư thế
đang nằm nghỉ đầu hướng về phía Bắc; lại có một quả chng và một cái chiêng
nhỏ cũng bằng đồng. Thứ gì cũng bằng đồng đúc, nắng mưa bão táp không thể
hủy hoại được thì đến đầu thế kỷ XX đã bị người Pháp lấy đem đi mất.
Những ngôi chùa cổ như chùa Tây Thiên, chùa Phù Nghì, chùa Đồng Cổ…
chỉ cịn lại những hệ thống kè đá để tạo mặt bằng xây dựng, có nhiều đường dài
200-300m, cao 11,5m hoặc đống gạch ngói cao trên một mét do chùa đổ sập
xuống vẫn còn nguyên như cũ, hoa văn gạch ngói có niên đại Lý - Trần.
Chùa Thượng Tây Thiên còn 10 pho tượng cổ, trong đó có cả tượng đồng, 1
khánh đồng dài 1,3m, cao 1,1m đúc năm Cảnh Thịnh (1794), 2 bia đá, 1 chng
đồng cổ của chùa Phù Nghì.
Chùa Tây Thiên và chùa Phù Nghì cịn nhiều cây thơng già trên 1000 năm
Trong đền Thượng cịn có 2 bức nghi mơn bằng gỗ chạm nổi cảnh “Nhạc
công - Thiên thần”. Đây là 2 bức phù điêu cổ có kích thuớc lớn nhất và nội dung
độc đáo nhất trong sưu tập điêu khắc gỗ dân gian ở Vĩnh Phúc. Hai bức nghi môn
được làm bằng nhiều mảnh ván nhỏ ghép lại thành hình chữ U để ngược, chắn ở
điện thờ; mỗi bức rộng 2,5m2<sub>, trên chạm nổi 11 người đang cử nhạc và múa hát</sub>
Bức phù điêu phản ánh những ước vọng về một cuộc sống thanh bình hạnh phúc
của nhân dân. Đây là một di sản độc đáo còn lại ở Vĩnh Phúc, hiếm thấy ở các đền
chùa khác trong tỉnh.
Cảnh quan thiên nhiên ở Tây Thiên từ cổ đến kim đều được ca ngợi là “kỳ
tuyệt”.
Cái xuyên suốt của những phong cảnh kỳ tuyệt ấy là tính hoang sơ của núi
rừng. Có những danh thắng như am Vân Tiêu, am Lưỡng Phong, cầu Đái Tuyết…
chỉ thấy mô tả trong sách xưa. Nổi bật hơn cả hiện nay là Thác Bạc, từ dòng suối
Bát Nhã chảy xuống, cao 40m. “Xuống Thác Bạc, trước cảnh hoang sơ của Thiên
nhiên cùng với khí trời mát rượi và ánh sáng mông lung của chân thác, ta có cảm
giác như đến một “thế giới khác”, rất huyền ảo khác với “trần gian”.
Khu danh thắng Tây Thiên đã được Bộ Văn hố - Thơng tin cấp bằng di
tích lịch sử văn hố 1991.
<b>NÚI SÁNG</b>
Núi sáng ở địa phận 2 xã Đồng Quế, Lãng Công (Lập Thạch) cao 633m so
với mực nước biển.
mỗi sào ruộng cấy 15-20 đon, trăm bung là 4000 đon gieo khoảng 5 sào. Tương
truyền chỗ ấy Đế Thuấn cấy lúa, nhân dân mới gọi là Bách Bung).
Trên núi Sáng có cảnh đẹp vừa hùng vĩ vừa ngoạn mục, dân trong vùng
thường gọi là Thác Bay. Từ đỉnh núi có một dịng suối chảy xuống tạo ra nhiều
thác ghềnh, có đến 4 cái liên tiếp nhau. Thác Bay là tên của ngọn cao nhất được
lấy làm tên gọi chung.
Cảnh quan thiên nhiên Vĩnh Phúc thật là giàu danh thắng. Mỗi danh thắng
thường gắn bó hữu cơ với một di tích lịch sử văn hố, khiến du khách vừa có thể
thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa tham quan di tích, vừa có dịp để suy ngẫm về những
triết lý của người xưa.
*
* *
Hơn 30 dân tộc sinh sống từ xa xưa ở Vĩnh Phúc đã làm nên một vùng văn
hoá đa dạng, phong phú. Các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian khi nói đến Vĩnh
Phú trước đây, thường chia thành 3 khu vực Văn hố dân gian.
<b>Khu vực Hùng Vương:</b>
Thanh Hồ, Phú Thọ, Phong Châu, Việt Trì, Lập Thạch, một phần Tam
Dương khu vực đền Tây Thiên, thờ Quốc Mẫu (Lăng Thị Tiêu).
<b>Khu vực Thánh Tản:</b>
Tam Thanh, Thanh Sơn, Sông Thao.
<b>Khu vực Hai Bà Trưng:</b>
Một phần Lập Thạch, Tam Dương, Mê Linh, Vĩnh Yên, Vĩnh Tường, Bình
Xuyên, Yên Lạc.
- Ở làng Nhật Chiểu (Liên Châu, Yên Lạc) thờ Khâu Ni cơng chúa, nữ
tướng của Hai Bà, có tục nửa đêm 17 tháng giêng "Hoan Thanh" ba lần, mọi người
tập trung ở đình làng, theo tiếng trống cái và hiệu lệnh cờ múa, người khua
chuông, người đánh trống, thổi tù và, rung nhạc ngựa, đàn sáo, hị reo (người
khơng có nhạc cụ thì gõ mâm, bát, chậu…) tượng trưng cho khí thế xuất qn diệt
giặc Tơ Định.
- Ở làng Hạ Lơi (Mê Linh) có đền thờ Hai Bà - Hàng năm mở hội vào tháng
giêng âm lịch - làng tổ chức một đám rước gồm 150 thanh niên và 150 thiếu nữ
được kén chọn rất kỹ, tượng trưng cho quân của Hai Bà.
- Hai làng Lũng Ngoại và Hoà Loan (xã Lũng Hoà, Vĩnh Tường) thờ nữ
tướng của hai bà là Lê Thị Ngọc Trinh, có tục kéo co và hú đáo - trò chơi gợi lại
một sự kiện trong chiến đấu…
- Riêng làng Thượng Lạp (Tân Tiến, Vĩnh Tường) lại thờ một nam tướng
của Hai Bà, đó là danh tướng Cao Nguyên, đóng quân ở Mê Linh. Khi Hai Bà bị
Mã Viện đánh ở Hát Môn (thuộc Phúc Thọ - Sơn Tây cũ), Cao Nguyên tử trận,
xác trôi về Vĩnh Tường, được dân làng Thượng Lạp vớt lên lập đền thờ. Hàng năm
vào mùa xuân dân làng mở hội tế lễ để tưởng nhớ ngài. Đặc biệt có trị đánh phết,
rất vui, rất ồn ào náo nhiệt gợi lại khơng khí diễn trận năm xưa.
Tóm lại, nhìn vào diện mạo chung của các sinh hoạt văn hoá dân gian Vĩnh
Phúc, ta có cảm giác và ấn tượng thật đẹp: Tất cả văn hoá dân gian ở đây đều khúc
xạ lịch sử của một vùng đất cổ.
Trong sự phong phú ấy, văn hoá dân gian ở Vĩnh Phúc được thể hiện khá
đặc sắc trong một số thể loại như: Tục ngữ và Thơ ca dân gian, truyện kể dân gian,
cổ tích thế sự và truyện làng. Thể loại nào cũng mang đậ m chất truyền thống,
phản ánh sâu sắc đời sống thực của con người qua bao thế hệ cùng với lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đặc biệt, trong đời sống của người dân Vĩnh Phúc, từ bao đời nay đã lưu
truyền nhiều TRUYỆN KỂ DÂN GIAN VÀ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ rất
hay và luôn gắn liền với cội nguồn dân tộc.Xin điểm qua một số truyền thuyết tiêu
biểu:
<b>Truyền thuyết về người con gái núi Tam Đảo.</b>
Chuyện kể rằng trên núi Tam Đảo có một người con gái khoẻ mạnh che
thân bằng vỏ cây, làm lều ở trên cây, đi lại truyền nhảy nhanh như con sóc, nhẹ
như vượn, nhặt đá ném thú rừng và chim muông sống.
Giặc Ân sang cướp nước ta, thế giặc rất mạnh. Vua Hùng cho sứ đi các
trang động trong nước cầu người ra dẹp giặc. Người con gái xuống núi về chầu
vua, xin được đi đánh giặc. Ra trận chỉ lấy đá mà ném, giết được nhiều giặc, đánh
với giặc nhiều trận ở ngay cửa ngõ thành Phong Châu, ngã ba Bạch Hạc (nay
thuộc là địa phận huyện Vĩnh Tường).
Khi tan giặc, người con gái lại trở về núi.
Vua Hùng thứ 6 truyền ngôi cho Lang Liêu. Lang Liêu lên ngôi, nghe dân
gian đồn rằng núi Tam Đảo có tiên nữ rất xinh đẹp, Lang Liêu lên núi cầu mong
gặp tiên.
Ngày hôm sau, vua thấy thần báo mộng sáng mai sẽ được gặp tiên và vua
Đêm ngủ ở núi, vua thấy bồn chồn chờ đợi tới mặt trời đứng bóng, chợt
thấy một người con gái từ xa đi đến, mình mặc vỏ cây, vai vác một con thú rừng
máu rỏ đỏ tươi. Người con gái đặt con thú xuống chân vua và cất lời chúc mừng
nhà vua. Vua nhìn ngắm thấy người con gái ấy đúng là cô gái trước đã theo cha
đánh giặc Ân. Người con gái đứng trước mặt vua, mắt sáng long lanh, gương mặt
tươi tắn đỏ hồng, vóc dáng xinh đẹp, khoẻ mạnh. Vua rất đẹp lịng, đón về cưới
làm vợ.
Ở Bích Đại và Đồng Vệ vào thời vua Hùng có một con trai tên là Đinh
Thiên Tích, có sức khoẻ khác thường, nắm tay lại đấm vỡ tan được hịn đá lớn.
Trong nước có giặc, chàng rủ những trai tráng cùng đi đánh giặc. Đánh chưa được,
chàng lại về làng rủ thêm người. Nửa đêm về tới làng đói bụng, mới tìm đến nhà
một bà cụ già ở cuối làng xin ăn. Ăn xong, chàng tìm dân làng rủ đi đánh giặc tiếp.
Khi đuổi xong giặc, Đinh Thiên Tích cùng dân binh trở về làng, đâm trâu
ăn mừng. Nhân cuộc vui, dân làng nói với Tích tìm cách cho làng mỗi ngày một
thêm đơng người nhiều của.
Đinh Thiên Tích bày ra một phép rước cầu. Mọi người mặc quần áo xanh
đỏ vác cày bừa và trâu bện bằng rơm rước đi. Lại làm một cái chòi, một cụ già
nhất trong làng cầm một cái túi đựng thóc ngơ, đỗ, kê trèo lên chịi khấn trời đất
phù hộ rồi tung các thứ hạt đó ra cho mọi người nhặt. Tiếp theo cụ già lại tung các
cái dùi và mo đẽo bằng gỗ vông cho mọi người cướp, gọi làm như thế là cướp con.
Ai cướp được thì năm đó sẽ sinh con.
Dân đều tin, dâng lễ tế trời đất và làm theo.
<b>Truyền thuyết về các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng.</b>
Tỉnh Vĩnh Phúc có gần 40 làng thờ các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng, phần
lớn là nữ tướng. Nhân dân địa phương thường kể lại nhiều truyền thuyết về các vị.
Xin dẫn một truyện kể về Vĩnh Hoa công chúa, xưa là Nội Thị tướng quân
của Hai Bà Trưng, hiện được thờ ở đình thơn Nghinh Tiên, xã Nguyệt Đức, huyện
Yên Lạc.
Thời nước ta bị Đông Hán đô hộ, ở đạo Hồng Châu (Hải Dương bây giờ)
trang Mao Điền có người con gái họ Phùng tên là Vĩnh Hoa, từ nhỏ được học tập
võ nghệ lại đọc sách ngâm thơ, người người biết tiếng. Vĩnh Hoa thường nói:
"Lưỡi kiếm trong tay phải tắm máu giặc, có ngày quét sạch giặc Hán ra khỏi bờ
cõi, chí lớn của ta là như thế !".
Đến trang Tiên Nha thấy địa thế rất đẹp, như con rùa lớn nổi lên trên dịng
sơng Nguyệt Đức, phong cảnh thật hữu tình, có bến có chợ, làng xóm đơng vui,
Vĩnh Hoa cho rằng nơi đây có thể lập được chí mình, mới nghĩ lại, bỏ tiền ra làm
nhà, mua ruộng… Lại nghĩ nơi đây các thuyền buôn qua lại, chợ búa sầm uất, có
thể liên kết được các hào kiệt bốn phương, mới mở ngơi hàng nước tự mình bán
hàng để tìm kiếm những người cùng chí hướng.
Nhiều trai đinh đến gặp Vĩnh Hoa, xin quy phục làm thần tử, tơn Vĩnh Hoa
làm trưởng trang… Vĩnh Hoa vui lịng nhận lời.
Từ đó, Vĩnh Hoa chiêu dân lưu tán các nơi, đón những kẻ bị ức hiếp mà
phải rời quê hương bản quán và mở rộng trang ấp, ngầm nèn đúc khí giới, chứa cất
lương thực để đợi thời cơ. Thanh thế Vĩnh Hoa ngày càng lừng lẫy. Vĩnh Hoa
chọn mười cơ gái võ nghệ có mưu trí làm thủ túc, ngày đêm gần gũi bên mình.
Lúc ấy nam binh nữ tốt đã có tới ngàn người, Vĩnh Hoa mới cắt cử các đầu mục,
chia thành đội ngũ, cày ruộng lấy lương ăn, tự rèn lấy gươm sắc giáo dài, tự chế
lấy nỏ bền tên cứng. Các phụ lão đều nói: "Chúng ta may ra cịn thấy được cảnh
Không thể chần chừ được nữa, Vĩnh Hoa bèn cho giết lợn mổ trâu, cáo tế
các thần sông núi, khao thưởng quân sĩ, thổi sáo đánh trống, múa hát làm vui, rồi
đào hào đắp luỹ địch với quân Hán.
vài ngày nhờ giúp việc chỉnh đốn quân ngũ. Nguyễn Tiến Cơ từ chối, nói rằng:
"Chỉ nội ngày mai, sớm tối thế nào Quách Gia Nương cũng kéo quân qua đây về
Mê Linh họp mặt với hào kiệt các nơi dưới cờ đại nghĩa của Hai Bà. Nàng cũng
nên nhanh chóng đem quân đến không nên chậm trễ".
Quả nhiên sáng hôm sau, mặt trời vừa tới ngọn sào nứa, giữa dòng sơng có
một đồn thuyền lừng lững trơi, sáu chiếc thuyền lớn dong buồm đi một hàng
thẳng tắp, xung quanh có hàng chục chiếc thuyền nhỏ cùng xuôi. Trên thuyền đi
đầu có một chiếc trống cực lớn, các lực sĩ đứng quanh, đầu chỉ chấm tang trống.
Chiếc thuyền đi giữa có dựng một ngọn cờ đại sắc vàng viền đỏ, giáo dựng ở mạn
thuyền sáng quắc, hàng chục mái chèo khua sóng, bọt nước tung toé như hoa.
Vĩnh Hoa cùng các đầu mục ngắm mãi không chán. Vĩnh Hoa than rằng: "Hàng
ngũ chỉnh tề, quân uy hùng tráng ! Ta thật còn thua kém ! Những người như thế
mà cùng đứng dậy, giặc Hán tất phải ôm đầu cuốn cờ mà chạy khỏi đất nước
Nam".
Lệnh khởi nghĩa truyền đi cả nước, khắp các châu, các huyện, các làng, các
động gươm giáo dựng lên, cờ bay phấp phới. Các thành trì của giặc Hán lần lượt
rơi vào tay nghĩa quân. Thủ phủ Luy Lâu của Tô Định tan vỡ trước sức tấn công
mãnh liệt của đại quân Hai Bà. Chưa đầy một năm, Hai Bà đã thu hồi được 65
thành trì cõi Lĩnh Nam, lên ngơi vua, đóng đơ ở đất Mê Linh, không chịu thần
phục nhà Hán.
Trưng nữ Vương mở tiệc khánh hạ, khao thưởng ba quân, phong cho các
tướng có công, Vĩnh Hoa được phong công chúa, cho phép lấy trang Tiên Nha làm
thực ấp, cho xây dựng đồn trại bên sông.
Về sau Mã Viện xin vua Hán cử gấp viện binh sang rồi mở trận đánh quyết
liệt ở Lãng Bạc. Hai Bà túng thế rút về Mê Linh. Mã Viện là một tên tướng quỷ
quyệt có tài thao lược, mưu kế xảo trá, quân ta cự không lại tan vỡ dần.
Hai Bà Trưng thế cùng lực tận, tuẫn tiết ở Cẩm Khê.
<b>Về truyện kể dân gian, cũng có rất nhiều, chỉ xin được lược một số truyện</b>
tiêu biểu:
<b>Tục kết nghĩa Yên Bài - Yên Lỗ</b>
"Làng Yên Bài và làng Yên Mạc xưa thuộc tổng Xa Mạc huyện Yên Lãng
(nay thuộc huyện Mê Linh…). Yên Bài và Yên Mạc tranh nhau địa giới, không xã
nào chịu xã nào. Dân n Mạc tranh lấy được chỗ có hịn đá lớn thuộc địa phận
của Yên Bài về cho mình và nói: "Từ nay, hịn đá này ở đâu là địa phận Yên Mạc
tới đó". Yên Bài lên kiện quan, quan cũng bênh Yên Mạc và quyết định cứ lấy hịn
đá làm mốc.
Hịn đá rất lớn, muốn di chuyển nó phải có trâu kéo mới nổi. Bọn kỳ hào
Yên Mạc lại đặt ln một chiếc điếm canh bên cạnh hịn đá. Dân Yên Bài rất bực
tức bèn sang Yên Lỗ (thuộc tổng Hương Canh, huyện Bình Xuyên, nay thuộc xã
Đạo Đức) nhờ giúp sức để làm cách nào lấy lại được phần đất mới mất. Ở Yên Lỗ
có một đơ vật có tiếng là khoẻ, vật đâu là giật giải đấy, đến nỗi cứ thấy ông tới hội
là các đơ vật đều phải có nhời xin ơng đừng vật giải để "Các đàn em" được nhờ.
Ơng đơ n Lỗ biết chuyện Yên Bài bị chức dịch ăn hiếp mà mất đất liền
Ơng đơ tới chỗ có hịn đá ngồi rình hai đêm liền. Theo dõi sự động tĩnh,
ông thấy lúc canh tư là lúc tuần điếm Yên Mạc ngủ say nhất. Tới đêm thứ ba ơng
đến bên hịn đá chờ lúc n ắng nhất, liền lựa thế nhấc bổng hòn đá lên vác thẳng
sang đất n Mạc. Đi một thơi thì ơng mệt liền đặt hòn đá xuống ngồi nghỉ. Một
lức sau nghe gà gáy lần thứ hai, biết trời sắp sáng, ông bỏ hòn đá đấy ra về. Thế là
Yên Bài khơng những lấy lại được phần đất cũ mà cịn mở rộng được thêm đất.
Vì sự tích trên, n Bài và Yên Lỗ kết nghĩa với nhau và nơi ông đơ đặt
hịn đá được xây một ngơi chùa gọi là chùa Phúc Thịnh trong đó đắp tượng "ơng
nhấc đá". Tượng này ngoảnh mặt nhìn riêng một hướng, khơng cùng hướng với
các tượng phật khác.
Vực xanh ở thôn Cát, xã Yên Nhiên, huyện Bạch Hạc nay ở thị trấn Vĩnh
Tường, rộng 12 mẫu, sâu không biết đáy, ở dưới có cây xanh nên gọi là Vực Xanh.
Tương truyền ở phía Tây Nam thơn ấy, xưa có miếu thờ Lý Nam Đế và thần
Dương Đường, bên vực có nhiều cây cỏ lạ, thành rừng nhỏ, phía tây rừng có chợ,
phía đơng chợ có chùa, gần chùa có nhà người con gái dệt cửi. Một hôm đất ở
dưới con quạ khung cửi bỗng sụt xuống, chốc lát thành cái riêng. Người con gái sợ
kêu lên và chạy về mép rừng, quay lại nhìn chỗ nhà mình cũng đã thành vực sâu.
Ngày sau nổi lên một pho tượng đá có khắc chữ là "Linh uyên thuỷ tộc bát hải
long vương".
Có một câu chuyện khác kể rằng: "Một hôm, các nàng tiên nữ xinh đẹp,
xiêm y lộng lẫy trên trời xuống vùng này chơi xuân. Một nàng tiên mải vui, vô ý
đánh rơi cành kim thoa. Cây kim thoa ấy biến thành một vũng nước nhỏ rồi thành
vực sâu ngày nay. Vực Xanh rộng 18 mẫu, sâu 12 chạc cày. Từ đáy nổi lên 3 ông
tượng. Dân ba làng Bồ Điền, Hồn Ngạc và Yên Cát đều muốn Vực Xanh về quê
<b>Một số truyện về Trần Nguyên Hãn</b>
Một hôm Trần Nguyên Hãn đi vỡ đất làm ruộng ở rừng Rạch, nhặt được
một thanh gươm khơng có chi. Ngày ngày ông đem lưỡi gươm ra mài ở một hòn
đá trắng ở cánh đồng Cổ Ngựa. Sau, Hãn tìm thấy một chi gươm ở một cái bè
vó mà người chủ bè thả lưới vớt được, nơi đó là cửa sơng Phó Đáy.
Đông đến nhà. Trong bữa rượu, nhân thấy ở đầu bè có con trai lớn, bố cậu xin hai
người làm thơ vịnh trai. Sau đây là bài thơ của Trần Ngun Hãn.
<i>Trên sơng nổi một vật gì</i>
<i>Khơng ốc khơng hến ắt thì đúng trai</i>
<i>Hạt châu ngậm, áo giáp ngồi</i>
<i>Miệng phun sóng dữ nào ai sánh bì ?</i>
<i>Quản gì mưa gió thị uy</i>
<i>Hướng đơng lịng vẫn kiên trì hơm mai</i>
<i>Bốn phương nổi tiếng anh tài</i>
<i>Cị kía cơ thế dám hồi đứng trơng.</i>
Sau đó, ơng hàng chài đem cả hai bài thơ lên trình quan huyện Bạch Hạc
nhờ bình cho nghe, ý muốn ai làm thơ hay hơn thì cho học người ấy. Quan huyện
bảo: "Anh cứ để thầy đồ Bạch Hạc dạy con anh, còn người bán dầu này anh khơng
có phúc để giữ được chân người ta đâu, cứ xem ý bài thơ thì sự nghiệp người này
không biết đâu mà lường được".
Một hôm trên đường đi bán dầu, Hãn có nghỉ ở đền Bạch Hạc và được nghe
thần Bạch Hạc nói chuyện với vị thần ở làng bên, Hãn nghe có câu nói: "Thượng
đế nghĩ nước Nam vơ chủ nên có sai Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tơi". Từ đó
Hãn mới có ý thức tìm về Lam Sơn tụ nghĩa.
TỤC NGỮ - CA DAO - DÂN CA là những thể loại rất được phổ biến trong
đời sống các cộng đồng dân tộc ở Vĩnh Phúc.
<b>Về tục ngữ, ca dao</b>
Vĩnh Phúc có một kho tàng tục ngữ, ca dao phong phú. Bên cạnh nội dung
phản ánh và giá trị nghệ thuật giống tục ngữ, ca dao nói chung của cả nước, có
nhiều câu tục ngữ ca dao mang sắc thái địa phương rõ nét.
"Yên Lạc tứ Cẩm, ngũ Yên"
Huyện Yên Lạc xưa có 4 làng Cẩm và 5 làng Yên. 4 làng Cẩm là: Cẩm
Khê, Cẩm La, Cẩm Trạch, Cẩm Viên; nay phân tán về 2 xã Hồng Châu và Đại Tự.
5 làng Yên là: Yên Tâm, Yên Nghiệp (nay thuộc xã Yên Đồng), Yên Quán (xã
Bình Định), Yên Lạc (xã Đồng Văn), Yên Thư (xã Yên Phương).
Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc
Thời nguyễn, có 4 huyện được coi là trù phú nhất: Tỉnh Nam Định, có
huyện Chân Định, tỉnh Bắc Ninh có huyện Yên Dũng, tỉnh Hải Dương có huyện
Tứ Kỳ, tỉnh Sơn Tây có huyện Yên Lạc.
<i>Nhất cao là núi Ba Vì</i>
<i>Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tơn</i>
Núi Ba Vì là núi Tản Viên huyện Ba Vì (Hà Tây). Tam Đảo là dãy núi lớn
đứng giữa vùng trung du có khu du lịch và nghỉ mát thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
Độc Tôn là một ngọn núi hiểm trở đứng riêng ra ở phía đơng Tam Đảo sau
núi Thiên Thị; thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa thời Lê Mạt và Nguyễn Danh Phương
tức Quận Hẻo đã lập căn cứ ở đây…
- Ca dao - tục ngữ về con người chủ yếu phản ánh những cá nhân, dòng
họ… đã có cơng với dân, với nước về nhiều mặt, được dân thừa nhận. Ví như:
"Họ Dương lập làng, họ Hồng đào giếng"
Nói về việc lập làng Gẩu (thị xã Vĩnh Yên). Họ Dương về đây cư trú đầu
tiên, lập ra làng, họ Hoàng về sau vận động nhân dân đào giếng lấy nước ăn. Hai
họ đều có cơng với làng.
<i>Bảy làng kẻ Đám, tám làng kẻ He</i>
<i>Không đánh nổi giặc què ở núi Thanh Tước.</i>
Nguyễn Danh Phương đóng tại đồn ở núi Độc Tơn và thung lũng Thanh Lanh,
Ngọc Bội; tiền đồn đặt ở núi Thanh Tước (nay thuộc Mê Linh). Quân triều đình
<i>Tuần Giang, Nho Hứa bán chúa lập công.</i>
Vào năm Canh Ngọ (1780), Đoan Nam Vương Trịnh Khải bị Nguyễn Hữu
Chỉnh theo Tây Sơn đánh bại, chạy khỏi thành Thăng Long, qua huyện Yên Lãng
(nay là Mê Linh) gặp tiến sĩ Lý Trần Quán. Quán đón Khải về nhà ở Hạ Lơi giao
cho học trị là Tuần Giang đưa đi trốn. Giang mưu cùng Nho Hứa đem Trịnh Khải
nộp cho quân Tây Sơn. Lý Trần Quán tự vẫn để tỏ lòng trung thành với chúa
Trịnh.
Một số mặt khác của đời sống lao động cũng được phản ánh trong ca dao
tục ngữ.
+ Sản xuất nơng nghiệp
. Về thời tiết có câu:
<i>Tam Đảo đội mũ nước lũ sẽ về.</i>
Về mùa mưa, nhìn lên các đỉnh Tam Đảo, thấy mây đen phủ dày đặc, sẽ có
mưa to kéo dài, sẽ có lũ tràn về ngập các đồng trũng bắc Yên Lạc - nam Bình
Xuyên.
<i>. Sản vật nổi tiếng:</i>
<i>Lúa đồng Oai, khoai đồng Bầu</i>
Các cánh đồng của thị xã Vĩnh Yên: Đồng Oai ở xóm Đậu, ruộng cao hơn
mặt ngịi, có nước tát không sợ cạn; khoai sọ đồng Bầu phường Liên Bảo có tiếng
<i>Nhất Sậu quả, nhì Gả Gối.</i>
Sậu là xã Hoàng Thượng, Quả là Hạ Chuế thuộc xã Kim Xá. Gả và Gối nay
là xã An Hoà (Tam Dương), các làng trên là những nơi có nhiều thóc gạo.
Đầm Vạc thuộc thị xã Vĩnh Yên có cá tép dầu được xếp vào hàng đặc sản.
<i>Tép đầm Vạc, lạc chợ Cói.</i>
Chợ Cói thuộc phường Hội Hợp (thị xã Vĩnh Yên).
<i>Dứa Hướng Đạo, gạo Long Trì.</i>
Long Trì thuộc xã Đạo Tú, xã Hướng Đạo đều thuộc huyện Tam Dương.
<i>Dứa Hướng Đạo, gạo Làng Chùa.</i>
Làng Chùa là một thôn của xã Hướng Đạo.
. Lễ hội đình chùa:
<i>Bơi Me, vật Triệu, hát làng Dần</i>
Làng Me hay Diệm Xuân thuộc xã Yên Lập (Vĩnh Tường) có hội đua chải
vào tháng năm. Xã Triệu Đề (Lập Thạch) có lị vật nổi tiếng và làng Dần tức Dữu
Lân (Việt Trì) nổi tiếng về ví giao duyên.
<i>Rau gác Hạc bơi, Hạc gác Me bơi, Me gác Đức Bác bơi.</i>
<i>Đức Bác gác Dạng bơi.</i>
Các làng trên đều có đua chải trong hội làng, lần lượt làng này gác chèo thì
làng khác lại hạ chèo. Rau là thôn Cựu Ấp, xã Liên Châu (Yên Lạc), Hạc là Bạch
<i>Đơng Cao có lệ bó mo</i>
<i>Tráng Việt có tiệc đi mị ăn đêm.</i>
Đơng Cao thuộc xã Tráng Việt (Mê Linh) thờ bà Hồ Đề, tướng của Hai Bà
Trưng, hội làng mồng 6 tháng Giêng có tiệc bánh dầy, khi giã bánh dầy, khi giã
bánh lấy mo cau bó đầu chày. Tráng Việt (Mê Linh) cũng thờ tướng của Hai Bà là
bà Ả Lã, ngày tiệc nửa đêm mới cúng lễ và ăn cỗ với ý nghĩa quân bà Ả Lã quyết
chiến, tới nửa đêm đánh tan giặc mới ngồi nghỉ ăn.
<b>Về dân ca</b>
<i>Trống quân Đức Bác</i>
Trống quân Đức Bác nói ở đây là hình thức hát trống quân giữa hai làng
Đức Bác và các cô đào phường Xoan diễn ra ở bến đị Đức Bác.
Các cơ đào Xoan 12 người chia làm ba tốp, mỗi tốp 4 cơ có một kép Xoan
mang đàn theo. Bến đị chỉ cách đình làng hơn cây số. Trai làng Đức Bác cầm
trống con có quai đeo bằng vải ra bến đị đón phường Xoan, cứ ba bốn anh đón
một cơ đào Xoan. Các chàng trai cất tiếng hát trước và cuộc hát diễn ra từ bến đị
về tới đình, qng đường ngắn vậy mà họ vừa hát vừa đi có tới hai tiếng đồng hồ !
Nam nữ hát trống quân là hát đối đáp giao duyên.
Sau mỗi câu hát người nam lại lùi một bước, nữ tiến một bước nhính dần về
đình. Trống qn Đức Bác có làn điệu riêng. Nhưng thể thơ vẫn là lục bát. Hết
một câu thì có thêm một câu đệm "Ta hỡi trống quân".
Thông thường hát trống quân ở đồng bằng Bắc Bộ có ba phần:
- Phần mở đầu: Thăm hỏi dò xét quê quán, tên tuổi.
- Phần hai: Xe xết trao đổi tâm tình, ví von.
- Phần ba: Chia tay.
Nhưng ở trống quân Đức Bác khơng có phần chia tay vì sau khi hát trống
qn thì về đình cho phường Xoan vào đình để hát thờ theo thể thức hát Xoan Phú
Thọ.
<i>Hát ví giao duyên</i>
bằng một sợi chỉ tơ căng thẳng; người hát vào ống bên này, tiếng hát theo sợi tơ
truyền sang ống bên kia nghe rất rõ.
Ví giao duyên cũng cịn có hình thức "Hát trống qn" với một chiếc thùng
tre hay thùng sắt tây úp xuống lỗ đất. Một sợi dây thừng hay dây mây chăng qua
thùng và giữa đáy thùng có một cái que đỡ lấy sợi dây, hai đầu dây căng ra, buộc
vào hai cái cọc chôn đươi đất. Người hát gõ vào dây làm nhịp mà hát. Độc đáo
nhất là hình thức hát trống quân ở Đức Bác.
Hát ví thường là hát ứng khẩu rất tài tình, thơng minh dí dỏm, đơi khi chanh
chua, nhưng đại bộ phận đều đằm thắm, mặn mà tình cảm, khao khát yêu đương.
Lời hát ví thường là những câu lục bát giống như hát xa mạc, hát trống quân.
<i>Soọng cô:</i>
Soọng cô là dân ca của đồng bào dân tộc Sán Dìu.
Hát Soọng cơ chủ yếu là phần hát đối đáp giao duyên. Sau đó là phần hát
trong đám cưới. Soọng cơ được hát theo sách, có bài bản sẵn; người đi hát phải
thuộc sách hát, họ dẫn câu hát trong sách ra để hát đố, người đáp cũng nhờ thuộc
sách mà trích ra những câu hợp cảnh hợp tình để hát đáp câu đối phương hát hỏi…
Tốp trai hoặc tốp gái đến hát đều chưa vợ chưa chồng, nếu anh nào có vợ
trà trộn vào họ cũng sẽ dị ra và hát đuổi cho xấu hổ mà phải về. Khi đến hát, họ
phải têm đĩa trầu mời chủ nhà, có lời xin hát. Họ thường tổ chức hát ở nhà ngang
nhà bếp, kiêng hát ở gian chính có bàn thờ.
Có khi họ hát đến bảy tám đêm liền, nếu đôi bên tài hát thuộc nhiều, đối
đáp không thua nhau thì cịn kéo dài hơn mười đêm. Nếu bên nào hát nhắc lại câu
đã hát thì bị coi là thua cuộc, nếu đã thua cuộc thì họ tự chán mà giải tán.
Mỗi đêm hát đều có các bước: Chập tối hát gọi, mời ngồi xuống chiếu, mời
nước, mời trầu. Nửa đêm là hát hỏi: Hỏi về quê quán, gia sự, hát thăm dị tìm hiểu
nghề nghiệp, ý nguyện của nhau… Canh ba nhà chủ mời ăn lót dạ xơi hoặc chè
cháo… Sau đó là hát chào, hát xin về, hát núi giữ nhau. Sáng ra thì họ vừa tiễn
nhau ra cổng vừa hát hẹn hò cuộc hát tới.
Hát đám cưới thường là hát ru.
Soọng cô trong đám cưới thường do các cặp nam giới đối đáp nhau, nhà trai
cử hai anh hát, nhà gái cũng cử hai anh. Hát giọng ru thì song ca, hát cộc thì đơn
ca.
<b>Về trò chơi trò diễn hội làng</b>
<i>Chọi trâu</i>
Vĩnh Phúc chỉ có một điểm chọi trâu trong hội là ở thôn Bạch Lưu xã Hải
Lựu (Lập Thạch). Bạch Lưu mở hội chọi trâu vào ngày 17 tháng Giêng và 18
Trước khi cho trâu chọi, người ta tắm rửa sạch sẽ cho trâu, cho uống nửa lít
rượu, ăn cỏ non trộn muối, cháo và chuối thật no. Các con trâu chọi, mỗi con được
một người dắt vào. Có hiệu trống nổi, người này tháo dây buộc mũi trâu rồi lui ra.
<i>Kéo co</i>
Hội kéo co xã Tích Sơn (nay là phường Tích Sơn thuộc thị xã Vĩnh Yên) đã
được Nhất Thống Chí triều Nguyễn chép:
Mỗi bên cử 25 tráng đinh vào kéo. Họ khoẻ mạnh, đầu chít khăn đỏ, lưng
thắt bao đỏ. Bên nào cũng có một người cầm cờ đi nheo chỉ huy. Người cầm
chịch ấy gọi là "ông lấy mực".
Phần sợi song của mỗi bên tính từ giữa cọc ra 1m có buộc vải màu đánh
dấu. Nếu bị đối phương lơi mạnh chỗ đánh dấu chui vào lỗ cọc thì bị thua. Bên
thắng được làng thưởng hậu hĩnh bằng gạo lợn, bị đủ cho trai đinh giáp mình sửa
cỗ bàn ăn uống mừng thắng trận.
Vùng Ngã Ba Hạc mênh mông sông nước Lô, Thao, Đà giang hội tụ, nhân
dân cịn truyền tụng câu phương ngơn: "Rau gác Hạc bơi, Hạc gác Me bơi, Me
<i>gác Đức Bác bơi, Đức Bác gác Dạng bơi". Đó là nói về trình tự các cuộc đua chải</i>
ở các xã quanh Ngã Ba Hạc.
Rau là thôn Cựu Ấp, xã Liên Châu (Yên Lạc) có tiệc bơi chải từ ngày 10,12
âm lịch với 4 chải của 4 giáp, thân chải, dầm chèo đều sơn đỏ, các tay chèo mặc
quần áo xanh đỏ, thắt lưng đai màu. Chải xuất phát từ bến đình bơi sang địa phận
xã Xuân Vân thuộc đất Hà Tây, mọi người nhảy ùa lên bờ cướp lấy các né tắm ở
bãi đem về.
Sau Rau là Hạc. Chải Bạch Hạc bơi đua vào ngày 15-5, có 4 giáp thi đua
mỗi giáp một chải, mỗi chải một màu sơn, xanh, vàng, trắng, đỏ khác nhau. Các
chải của Bạch Hạc là thuyền độc mộc, không phải là thuyền ván ghép.
Me là xã Yên Lập (Vĩnh Tường) bơi trong 3 ngày từ 25-27 tháng 5 âm lịch.
Ngày 25 bơi trình thuyền trên sơng Phó Đáy trước cửa đình rồi thi bơi; ngày 26
rước kiệu trên 3 cái chải ghép vào nhau, trên lát ván; ngày 26 bơi thi có chấm giải,
chiều gác chải. Chải làng Me tạo dáng "đầu rồng đuôi tôm", sơn son thiếp vàng.
Vào cuộc đua là 3 chải của 3 xóm mỗi chải 38 tay chèo, đường đua dài khoảng 2
km, đến điểm đích cướp cờ cắm ở thân chuối đem về. Giải nhất là cờ đỏ rồi thứ tự
là cờ vàng, cờ xanh.
Dạng là xã Tứ Yên (Lập Thạch) bên sông Lơ có hội đua chải vào các ngày
25-26 tháng 6. Tứ n có 4 thơn: n Lương, n Phú, n Mỹ, n Lập, mỗi
thơn một chải, mỗi chải có 46 tay chèo, bơi từ bến Yên Lương tới bến Yên Lập lại
bơi về…
<b>Về trò đua tài thi khéo.</b>
<i>Thi nấu cơm</i>
Xã Sơn Đông (Lập Thạch) nấu cơm thi vào ngày 8 tháng Giêng. Ở đây thi
bắt đầu từ hạt thóc cho vào cối giã cho tới khi được nồi cơm, vì nhiều cơng đoạn
nên mỗi giáp cử 8 người.
Xã Thượng Trung (Vĩnh Tường) vào ngày 9/1 âm lịch thi nấu cơm. Mỗi
người dự thi có chiếc cần tre buộc sau lưng, đầu cần buông trước mặt một chiếc
niêu con. Để lấy lửa ngườ ta cọ hai thanh tre già vào nhau, một người kéo lửa, một
người châm đóm và bùi nhùi. người dự thi do các giáp cử, khơng phân biệt nam
nữ. Nhóm nấu cơm thì phải đi vịng quanh sân đình vừa đi vừa nấu. Khi chủ tế nổi
trống dức hồi là chấm hết cuộc thi.
Xã Tích Sơn (nay là phường Tích Sơn, Vĩnh Yên), hội thổi cơm thi nổi
tiếng khắp tỉnh Vĩnh Yên cũ. Muốn dự thi nấu cơm phải vào làng. Hàng năm hội
thi nấu cơm tổ chức vào mồng 3 tết, tiêu chuẩn là nấu khơng có cháy và róc nồi,
mịn như cơm nắm có thể xắt ra từng miếng được, nồi cơm cũng giữ khơng cho có
vết khói vết lửa. Cũng có người không dùng bếp than mà nấu bằng nước sôi, bỏ
gạo vào niêu đất đổ nước sôi vào lại chắt ra, cứ lặp đi lặp lại động tác này cho tới
khi cơm chín. Ngày trước, các chức dịch hào lý cũng được thi, nếu hai nồi cơm
ngang giải thì nồi cơm lý dịch sẽ được giải trên còn nồi bạch đinh bị đánh tụt
xuống một cấp.
<b>Về trò diễn cầu mùa cầu đinh</b>
<i>Hội trình nghề và tung con ở hai làng Bích Đại và Đồng Vệ.</i>
- Trình nghề:
Mỗi hộ nơng dân có trâu cày và năm ấy không bận tang được bện một con
trâu bằng rơm, trâu lớn như thật nhưng không chân. Một người trong hội đội con
trâu rơm, kéo một cái cày thật, đã tháo mũi cày và do một người khác điều khiển.
Một người đàn bà trong gia đình cắp một cái thúng đầy trấu. Họ cùng diễn lại trên
sân đền các công vệc cày ruộng và gieo hạt như thường ngày vẫn làm. Thiếu niên
và thanh niên 20 tuổi hoặc lớn hơn nữa, cải trang thành con gái, đóng vai con trâu
và người cày ruộng; ngược lại thiết nữ 16,17 tuổi sắm vai người gieo hạt nhưng lại
cải trang thành con trai. Họ "cùng nhập hội canh tác" trên sân đình.
Mỗi làng đem ra đình hai túi vải, mỗi túi đựng 20 đoạn gỗ vông dài khoảng
15cm, 6 đoạn còn để mậm (búp là mới nhú) tượng trưng cho con trai và 6 đoạn
khác không mậm tượng trưng con gái. 4 túi đều đặt lên bàn thờ, mỗi ngày hội sẽ
dỡ ra một túi.
Trong sân đình, dựng hai cái chịi cao.
Một số người được chọn sẵn trong số tộc biểu có đơng con cả trai lẫn gái và
khơng có tang; họ mặc quần áo đỏ và đến bàn thờ thần làm lễ. Có hai người thắt
lưng xanh vác cái túi (gỗ vông) trèo lên theo. Ông tộc biêu mặc quần áo đỏ cởi túi,
lấy các đoạn gỗ vơng tung ra bốn phía. Dân xem hội ào vào cướp lấy bằng được:
Người nào cướp được đoạn gỗ vơng mậm thì năm ấy thánh sẽ cho con trai; người
nào cướp được đoạn gỗ nhẵn thì sinh con gái; ai cũng tin rằng cướp gỗ sẽ gặp
được nhiều may mắn.
<i>Trình nghề ở Văn Lơi.</i>
Đình Văn Lơi, xã Tam Đồng (Mê Linh) thờ Lũ Luỹ đại vương (tướng của
Hai Bà Trưng). Trong tiệc làng mồng 5 tháng giêng cũng có trị trình nghề với các
vai người đi cày, 3 thợ cấy (nữ), một người cuộc góc đeo giỏ, trong giỏ để vỏ ốc
nhồi. Một ông đồ mang bát to làm bằng gỗ xoan, một người bán sách chữ nho,
giấy bút mực, (nghiên mực là hịn lóc chẹn bếp). Vai Thiên lôi đeo cờ đuôi nheo.
Mọi người trước khi diễn trị đều phải vào đình lễ Thánh.
Trị bắt đầu. Tất cả các vai diễn đều diễn động tác mô phỏng sự lao động
của nghề mình làm. Vừa diễn vừa bông đùa khôi hài để gây cười cho công chúng
đám hội. Ơng Thiên lơi chạy quanh đình làng 3 vịng rồi cầm gáo múc nước ở một
cái chum vừa hò hét vừa giội nước vào các vai diễn.
Diễn trò xong có 4 người rước bơng lúa thần ra cửa đình làm lễ. Lúa thần
là những bơng lúa buộc vào đoạn cây cắm trên khúc chuối đặt trên cái chõng tre
làm kiệu khiêng. Chủ tế khấn thần linh phù hộ cho dân làng "Thóc lúa đẻ ra, của
nhà làm ra, của đồng làm nên". Sau đó lúa thần được chia cho đàn anh và các
trưởng họ đem về cắm vào bình hương trên bàn thờ.
Làng Văn Trưng (xã Tứ Trưng, Vĩnh Tường) vào đám ngày mồng 6 tháng
giêng. Ngồi tế lễ rước sách hội cịn có trị bắt chạch trong chum.
Trước cửa đình bày một hàng chum, ít nhất cũng 5 cái, mỗi chum đều đựng
đến 2/3 nước, trong đó có thả một con chạch.
Cuộc thi có giải thưởng là khăn lụa hồng, trà sao, trầu cau và có khi có tiền.
Khơng phải ai muốn vào dự thi cũng được, tuy cuộc thi mở cho khắp mọi người.
Muốn dự thi phải có hai người, một nam một nữ (phần lớn là người hiếm con,
muộn con) để hỗ trợ nhau trong cuộc bắt chạch. Trong lúc bắt chạch, đơi nam nữ
này khơng phải chỉ có việc khoắng tay vào trong chum mà bắt chạch, họ phải tuân
theo lệ làng, thực hiện đúng hèm của thần linh. Đôi trai gái phải vừa ôm nhau vừa
bắt chạch: Gái, tay phải ôm ngang lưng trai còn tay trái khoắng vào trong chum
nước; Trai, tay phải khoắng trong chum nước còn tay trái ôm qua lưng người con
gái, đưa bàn tay nắm lấy "nhũ hoa" của cô gái. Hai người ôm nhau vừa bóp "nhũ
hoa" vừa bắt chạch, bắt cho kỳ được con chạch thì mới thơi.
Số cặp nam nữ dự thi bắt chạch nhiều hay ít là tuỳ số chum đặt ở trước
đình. Ban giám khảo gồm các bơ lão, các quan viên trong xã ngồi trên thềm đình
để ngắm những cặp trai gái bắt chạch và bắt bẻ họ nếu vì mải bắt chạch mà bỏ lơi
tay ơm nhau. Cặp nào bắt được chạch trước tiên là được giải.
Nói đến Văn hố dân gian Vĩnh Phúc khơng thể thiếu VĂN HỐ ẨM
Khơng chỉ phong phú, đa dạng mà cịn rất gần với đời sống hàng ngày của
nhân dân. Tất cả đều bắt nguồn từ cuộc sống lao động mà ra. Nhưng, nếu thưởng
thức sẽ cảm nhận đầy đủ sự ngon, thơm và hấp dẫn của các món ăn dân dã mà
không tầm thường này.
<b>MẮM TÉP ĐỨC BÁC</b>
Người ta xóc thật kỹ rổ tép, chao trong nước cho sạch vảy. Để róc nước thật
khơ rồi bốc muối trộn vào với tỷ lệ hai muối rưỡi (10 bát tép trộn 2,5 bát muối).
Cho vào lọ ướp, bịt kín rồi dùng mầu mo cau đổ gio vào cho rì bọ khỏi đẻ ở
ngồi rồi bị vào trong lọ. Sau 3 tháng lấy ra pha ít bột giềng, gừng, ớt để ăn cùng.
- Loại khô cũng ướp như trên nhưng sau 1 tháng vớt ra vắt lấy nước nấu
nước mắm còn giữ lại cái, trộn với thính ngơ và cho vào lọ nút rơm. Úp miệng lọ
vào lon nước lã rồi cách làm cũng như làm cá chua đã nói trên. Phải thay rơm khi
rơm ướt và thay nước ở lon bằng nước sạch khác.
<b>CÁ GỎI THỜ</b>
Làng Xa Mạc xưa có tục làm gỏi cá để tế thần. Làng có ao đình thả cá
cơng. Ngày 10-3 vào tiệc. Ngày mồng 9, cho cả làng xuống bắt cá. Mỗi người
đánh cá xong phải nộp cho làng một con cá chép to nhất để làm gỏi cá tế thần, gọi
là gỏi thờ. Mỗi năm phải làm đầy 4 mâm gỏi cá để cúng.
Cá mổ lọc lấy thịt, lấy giấy bản thấm nhiều lần cho sạch, khơ các miếng cá.
Làm thính gạo nếp, đổ nhỏ rang khơ, xay bột bóp lẫn với cá. Rồi rũ bỏ thính ướp
thay bằng bột thính khơ mới cho thơm cá.
Khi làm ăn gỏi, người ta ăn lẫn các thứ gia vị, gắp thêm một ít mật và nước
chấm lòng cá ăn cùng.
<b>BÁNH NẲNG, BÁNH GẠO RANG</b>
Vùng Lập Thạch có câu: "Bánh nẳng chợ Tràng, bánh gạo rang Tiên Lữ".
Vùng chợ Tràng (Đạo Nội, Đôn Nhân, Đôn Mục) xưa có bánh nẳng ngon
nổi tiếng.
qua đêm, vớt gạo ra để róc nước cho khơ rồi gói bằng lá chít đã luộc và rửa sạch.
Luộc bánh trong dăm sáu tiếng đồng hồ vớt ra bóc lấy các hạt gạo nhừ, trong suốt,
dính vào nhau vàng như mật ong là được.
Bánh gạo rang cũng làm bằng gạo nếp hoa vàng. Gạo ngâm trong nước quả
dành dành cùng ruột cỏ bấc đèn, cây dáy và tro cây vừng đốt ra. Ngâm trong ba
ngày, vớt gạo để khô cho vào chõ xơi. Xơi chín đem trộn với mỡ lợn, rải ra nia rồi
dùng vồ nhẵn bôi mỡ đập đi đập lại trong vài giờ cho hạt xơi bẹt ra. Sau đó lại
phơi khô.
Đem vào trong râm để nguội mát tay lại trộn mỡ lợn đổ vào chảo rang cho
nổ bung ra. Đun sôi mật, nhúng đũa kéo lên thấy mật nhỏ giọt mới đổ gạo rang
vào đun, quấy đều rồi đổ ra, giàn mỏng trong mâm hoặc thớt, ván nhẵn. Dùng
đoạn cây tròn nhẵn lăn đi lăn lại cho bánh lèn chặt. Dùng thước và dao sắc cắt
thành từng cái bánh to nhỏ theo ý muốn rồi đem gói trong giấy bóng kính.
<b>CHÁO SE, BÁNH HỊN HƯƠNG CANH</b>
Cháo se, bánh hịn là món ăn phổ biến ở nhiều xã trong huyện Bình Xuyên,
nhưng ngon hơn cả, ngon đến mức trở thành "đặc sản" thỉ chỉ có ở Hương Canh và
Chọn loại gạo ngon, vo nước cho sạch rồi xay bột và lọc ngay, không ngâm
nước lâu hoặc pha thêm hàn the. Bột được chia thành 3 phần: 2 phần đem sơi chín,
1 phần để sống, nhào với nhau rồi cho vào cối đá lèn cật lực, đến lúc khơng dính
tay mới đem se cháo hoặc nặn bánh. Nước nhào bột là nước mưa hứng giữa trời,
đựng trong chum lưu niên, có nặp đậy, trong vắt. Có thể cầm sợi bột se trong bát
cháo thả vào tận cuống họng, nuốt vào rồi rút ra mà không đứt. Hạt thịt băm
nấu trong cháo se phải chọn loại thịt sao cho khi ăn phải vừa ngon, vừa béo mà
không ngấy.
được mặn, có dấm mà khơng được gắt, có đường mà khơng được nhợ, có tỏi mà
khơng được hơi, nhiều ớt mà khơng cay sè. Ăn thứ bánh có bột nhuyễn mà không
nhão, dẻo mà lại dai, không cứng, không thô ráp, mềm vỡ ra dưới hai hàm răng,
lưỡi thấm thứ chấm này, người thưởng thức nhớ đời.
<b>NEM CHUA VĨNH YÊN</b>
Thị xã Vĩnh Yên xưa có nhiều món ăn như: Tương nếp của cụ cả Dư xóm
Đình và bà ba Nhạn xóm Chiền, nộm đu đủ thịt bị khơ của chị Nhỡ, thịt quay của
cụ bếp Kiến xóm Dinh, phở của ông Tư Cá, gần Nhà dây thép (Bưu điện bây giờ).
Nhưng thứ đặc sản hàng đầu không ai khơng hết lời ca ngợi, đó là "nem chua bà
Cai Cam" với tên hiệu cửa hàng là Phú Đức.
Nem chua Phú Đức vẫn làm bằng giò lợn sống trộn với thính gạo và bì lợn
thái mỏng, cuộn trong chiếc lá ổi bánh tẻ, bọc trong lá chuối khô rồi buộc lại thành
quả. Vẫn thế thôi. Nhưng sao mà ngon đặc biệt; nó hơi lật sật, lại dẻo và đậm đà,
thơm, chua roi rói. Ăn vã đã ngon, nhắm với rượu lại càng ngon.
<b>GỎI CÁ CỦA NGƯỜI CAO LAN</b>
Loại cá mè to rửa sạch, đánh vảy sạch, lọc lấy hai lườn thịt dọc thân từ mép
xương vây xuống bụng. Dùng giấy bản thấm sạch máu rồi thái thành những miếng
mỏng. Lại dùng giấy bản thấm khô các miếng thịt. Số thịt cá chia làm hai phần,
một phần dùng ăn sống bọc trong các loại gia vị: Lá lốt, tía tơ, xương xông, rau
mùi, rau bao (bồ công anh), rau rấp. Chấm trong bát nước chấm đun sơi, nấu bằng
lịng cá rửa sạch băm nhỏ với nước mẻ, tương, gừng, mỡ, dấm dọc, tai chua, hành,
cà chua, nước chấm nấu đặc sột sệt, khơng lỗng q.
Một phần thịt được bóp lẫn với thính bột ngơ rang, ăn cùng lá gia vị và món
nước chấm trên.
Đầu đi và xương cá được ướp vừa với tương gừng mắm muói rồi kho
mục làm món ăn đậm...
Cịn rất nhiều các món ăn khác đậm đà chất văn hố dân gian khó kể hết
được.
Đây là món ăn đặc sản của dân Cao Phong và Đức Bác ven sơng Lơ.
Cá Thính (cịn gọi là cá muối chua) làm bằng các loại cá có vẩy lớn. Người
ta mổ cá bỏ lịng gan để khơ ướp trong 3 ngày. Sau đó bóp cho sạch nước rồi dùng
thính bột ngô, đậu rang trộn vào. Sau một tuần, lại bỏ ra rũ sạch bột thính đã ướp.
Bóp thay vào là bột thính khơ mới rang. Sau 3 lần thay bột thính, mới cho cá vào
lọ để làm chua. Người ta xếp ngửa miếng cá lên trên để khi úp lọ xuống bung cá sẽ
ở phái dưới khiến cho nước cá dễ chảy ra.
Dùng rơm sạch, vò nhàu nhét kỹ vào trong lọ, dùng que tre ghim chặt rơm,
úp miệng lọ cá xuống một lon nước lã sao cho nước không làm ướt ghim trong lọ.
Thỉnh thoảng phải đổ bỏ nước ở lon thay bằng nước sạch khác; vì nước cá trong
Sau 3 tháng, lấy miếng cá ra nướng, thấy đỏ, có vị chua là được. Người ta
thường dùng cá chua ăn sống với gia vị gồm các loại rau thơm khi uống rượu hoặc
nướng chín ăn với cơm.
<b>TÉP DẦU ĐẦM VẠC</b>
<i>Cỗ chín bị mười trâu, </i>
<i>Không bằng tép dầu đầm Vạc</i>
Thuở trước ở Vĩnh Yên nhà nào cũng có mấy cái nồi đất, cái nấu cơm gạo tám
thơm ngát mũi, cái luộc rau cải ngồng, cái lót lá gừng đáy nồi kho tép dầu Đầm Vạc gia
thêm tương, ớt, và đường "thắng" làm nước hàng. Niêu tép dầu kho cứng, đậm đà vị
tương, thơm cay hương gừng... bùi bùi ngầy ngậy. Có những người Vĩnh Yên xa nước,
nhớ quê nhớ niêu tép dầu kho... đến ứa nước mắt ! Ngày cịn chiến tranh, có bà mẹ
Vĩnh Yên lặn lội cả trăm cây số khư khư gói quà đến quân y viện thăm con để ngắm
con ăn cơm với tép dầu kho.
các mẹ ta ăn trầu thế nào thì con tép này hao hao như thế; và sự “mời trầu” mà Vĩnh
Yên ta nói là “mời giầu”, cho nên mới có tên gọi giống tép này là: tép dầu !
“Tôm ăn chạng vạng, cá ăn rạng đông”, sáng tinh mơ người làm nghề tép đội rổ
hớt ra đầm. Dăm con cá không vẩy làm mồi, cái rổ hớt tép to tướng cỡ 3-4 thước
(1m20-1m60) cặp kè bên mạn thuyền; 2 vợ chồng: Nàng chèo thuyền, chàng băm “cốc
cốc” nát cá mồi khoả xuống nước. Tép đến bu đen mặt nước, cứ việc hớt rổ, tép nhảy
Chẳng biết nước đầm Vạc chứa đựng những tố chất gì, những loại phù sa du
sinh vật gì mà con tép dầu ở đây lại đậm đà thơm ngon đến thế ? Người ta có thể dùng
những bữa tiệc thịnh soạn với rượu tây, bia ngoại; với các món ăn Tây, Tàu bằng đủ
cách thui, nướng, hầm, rán… nhưng chắc rằng một đĩa rau luộc, cơm ăn với tép dầu
kho cứng, hẳn còn nhớ mãi. Và câu ca: