Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 88 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƢỚC
------------***------------

BÙI THỊ NHƢ HẰNG
MSSV: 1653801014043

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
HÀNH VI CUNG CẤP, CHIA SẺ THƠNG TIN SAI SỰ THẬT
TRÊN MẠNG XÃ HỘI

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật
Niên khóa: 2016 – 2020

Giảng viên hƣớng dẫn:
Thạc sĩ Trƣơng Tƣ Phƣớc

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng em,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Trương Tư Phước. Khóa
luận đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả

Bùi Thị Như Hằng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Viết đầy đủ

STT

Viết tắt

1

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

Luật XLVPHC năm 2012

2

Mạng xã hội

MXH

3

Thơng tin sai sự thật

TTSST

4

Vi phạm hành chính

VPHC


5

Xử phạt vi phạm hành chính

XPVPHC


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI CUNG CẤP, CHIA SẺ THÔNG TIN
SAI SỰ THẬT TRÊN MẠNG XÃ HỘI................................................................... 5
1.1. Những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung
cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội ................................................... 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm “thông tin sai sự thật” và “mạng xã hội” ....................... 5
1.1.1.1. Thông tin sai sự thật ............................................................................... 5
1.1.1.2. Mạng xã hội............................................................................................ 8
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về cung cấp, chia sẻ thông tin sai
sự thật trên mạng xã hội ............................................................................................ 11
1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính về cung cấp, chia sẻ thơng tin sai sự
thật trên mạng xã hội ........................................................................................ 11
1.1.2.2. Đặc điểm vi phạm hành chính về cung cấp, chia sẻ thơng tin sai sự
thật trên mạng xã hội ........................................................................................ 13
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp,
chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội ........................................................... 16
1.1.3.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp,
chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội. ................................................. 16
1.1.3.2. Đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp,
chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội. ................................................. 16
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính đối với

hành vi cung cấp, chia sẻ thơng tin sai sự thật trên mạng xã hội .......................... 18
1.2.1. Nguyên tắc xử phạt .......................................................................................... 18
1.2.2. Hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả ....................................... 23
1.2.2.1. Hình thức xử phạt................................................................................. 23
1.2.2.2. Các biện pháp khắc phục hậu quả ....................................................... 28
1.2.3. Thẩm quyền xử phạt ......................................................................................... 29
1.2.4. Thời hiệu, thời hạn xử phạt.............................................................................. 32


1.2.4.1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính................................................. 32
1.2.4.2. Thời hạn xử phạt vi phạm hành chính ................................................. 32
1.2.5. Thủ tục xử phạt ................................................................................................ 33
1.2.5.1. Thủ tục không lập biên bản .................................................................. 34
1.2.5.2. Thủ tục có lập biên bản ........................................................................ 35
Kết luận Chƣơng 1 ................................................................................................... 37
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI CUNG CẤP,
CHIA SẺ THƠNG TIN SAI SỰ THẬT TRÊN MẠNG XÃ HỘI ....................... 38
2.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung
cấp, chia sẻ thơng tin sai sự thật trên mạng xã hội và một số kiến nghị ................ 38
2.1.1. Thực trạng pháp luật và điểm tích cực ............................................................ 38
2.1.2. Một số hạn chế, vướng mắc ............................................................................. 39
2.2. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ
thông tin sai sự thật trên mạng xã hội và một số kiến nghị .................................... 53
2.2.1. Thực trạng xử phạt và điểm tích cực ............................................................... 53
2.2.2. Một số hạn chế, vướng mắc ............................................................................. 55
2.3. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội ... 64
2.3.1. Nâng cao trình độ chuyên mơn, ý thức pháp luật của chủ thể có thẩm
quyền xử phạt ............................................................................................................. 64

2.3.2. Tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc áp dụng pháp luật ..... 65
2.3.3. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, các điều kiện bảo đảm công
tác xử phạt.................................................................................................................. 66
Kết luận Chƣơng 2 ................................................................................................... 67
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 70
PHỤ LỤC.................................................................................................................. 75


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự bùng nổ của Cách mạng công nghiệp 4.0, mạng xã hội đang dần
trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại, tác động đến đời sống
xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Song song với
những lợi ích khơng thể phủ nhận của mạng xã hội mang lại, mỗi cá nhân, tổ chức
hay thậm chí mỗi quốc gia đồng thời còn phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức
khác nhau.
Theo thống kê của Kepios – một doanh nghiệp Singapore chuyên tư vấn
quảng bá thương hiệu, số người sử dụng mạng xã hội trên thế giới đã chạm đến con
số hơn 3.8 tỷ người, chiếm khoảng 49% dân số thế giới và trung bình mỗi người
dành 2 tiếng 24 phút mỗi ngày cho việc sử dụng mạng xã hội (tính đến ngày
25/01/2020)1. Tại Việt Nam, các mạng xã hội bắt đầu du nhập từ những năm 2000
dưới hình thức các trang nhật ký điện tử (blog)2. Riêng Việt Nam cập nhật đến ngày
18/01/2020 có khoảng 65 triệu tài khoản mạng xã hội, tăng 9.6% so với thống kê
hồi tháng 4 năm 20193. Qua đó có thể thấy, mức độ “phủ sóng” của mạng xã hội là
vơ cùng rộng lớn; cùng với nhu cầu được kết nối cao của con người và sự phát triển
của Internet thì chỉ cần “một cú chạm chuột” thơng tin đã có thể tiếp cận đến hàng
trăm, hàng ngàn người sử dụng khác. Trong bối cảnh đó, nhiều người dùng đã lợi

dụng sự nhanh chóng này để cung cấp, chia sẻ những thông tin sai lệch, kích động,
bơi nhọ cá nhân, tổ chức... lên các trang mạng xã hội, gây tổn hại đến quyền, lợi ích
hợp pháp của những chủ thể bị đưa tin, gây ảnh hưởng tiêu cực đến những chủ thể
tiếp cận thông tin, đồng thời xâm phạm đến trật tự quản lý của nhà nước. Những
năm gần đây, nhiều thông tin bịa đặt đã lan truyền trên mạng xã hội, gây tác động
xấu đến trật tự quản lý của nhà nước, có thể kể đến như: tin đồn Việt Nam sắp đổi
tiền4, tin đồn đại dịch Ebola đã lan truyền vào Việt Nam5,...và gần đây nhất là

1

Datareportal, “Global social media overview”, truy cập ngày
02/03/2020.
2
Cổng thông tin điện tử Công an tỉnh Quảng Bình, “Mạng xã hội, mặt tích cực và tiêu cực, những vấn đề đặt
ra cho công tác đảm bảo an ninh trật tự”, truy cập ngày 02/03/2020.
3
Datareportal, “Digital 2020: Vietnam”, truy cập ngày 02/03/2020
4
Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam (VNEXPRESS), “Ngân hàng Nhà nước bác tin đồn đổi tiền”,
truy cập ngày
03/03/2020
5
Báo điện tử Thanh Niên, “Cơng bố danh tính 2 người tung tin đồn Việt Nam có người nhiễm Ebola”,
truy cập ngày 03/03/2020.


2
những thông tin không đúng sự thật về đại dịch COVID-19 ở Việt Nam. Tính đến
ngày 05/02/2020, theo thơng tin của Bộ Công an chỉ trong vài tháng diễn ra dịch
bệnh do chủng vi-rút Corona gây ra, đã triệu tập và xử lý hơn 170 đối tượng tung tin

sai sự thật về dịch bệnh này6. Trên thực tế, hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự
thật trên mạng xã hội đa số đã bị xử phạt vi phạm hành chính, nhắc nhở, số ít bị truy
cứu trách nhiệm hình sự tùy vào tính chất, mức độ của hành vi. Theo các chuyên gia
về pháp luật, những quy định đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật
đang cịn nhiều bất cập. Trong đó, có một số nội dung thiếu chặt chẽ, gây khó khăn
trong việc xác định mức độ thiệt hại về vật chất, tinh thần của đối tượng bị ảnh
hưởng; đồng thời, cũng khiến cơ quan thực thi gặp nhiều khó khăn7.
Bối cảnh trên đặt ra yêu cầu cần thiết có những nghiên cứu khoa học một
cách tổng quát, có hệ thống về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội để chỉ ra những ưu điểm và
cả bất cập trong những quy định của hệ thống pháp luật, cũng như thực trạng xử lý
vi phạm, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng xử
phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi này. Với lý do trên, tác giả lựa chọn
đề tài: “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin
sai sự thật trên mạng xã hội” làm Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thời gian qua, việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp,
chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội còn nhiều bất cập. Bởi lẽ tốc độ gia
tăng phức tạp cả về tính chất, mức độ, số lượng của các hành vi trên thực tế, trong
khi hệ thống pháp luật đã có những nỗ lực trong việc dự liệu nhưng chưa bắt kịp với
thực tiễn. Bên cạnh đó, đề tài về mạng xã hội khơng phải mới mẻ nhưng rất đa
dạng, nhiều khía cạnh, do vậy đối với nội dung mà đề tài đang nghiên cứu, trong
thời gian qua chỉ được đề cập sơ lược, khái quát trên các bài tạp chí như: Bài viết
“Mạng xã hội và những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước” của tác
giả Nguyễn Thị Quyên – Vũ Thị Thùy Dung trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 209
(6/2013); Bài viết “Những hạn chế trong việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
internet và thơng tin trên mạng” trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 24 (376) –
12/2018 của tác giả Cao Vũ Minh – Nguyễn Nhật Khanh; bài viết “Thông tin xấu
6


Báo điện tử Công an nhân dân, “Đã triệu tập, xử lý hơn 170 đối tượng tung tin sai sự thật về bệnh dịch”,
truy cập ngày 03/03/2020.
7
Báo điện tử ANTV, “Khó xử lý đối tượng tung tin bịa đặt trên mạng xã hội”, />truy
cập
ngày
03/03/2020.


3
độc trên môi trường mạng: nhận diện và giải pháp xử lý” của tác giả Tống Tuấn
Minh trên tạp chí Thông tin & Truyền thông kỳ 2 số 351 (10/2019); Luận văn Thạc
sĩ “Xử phạt vi phạm hành chính về nội dung thơng tin trong hoạt động báo chí” của
tác giả Bùi Thị Hồi.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khi thực hiện đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp,
chia sẻ thơng tin sai sự thật trên mạng xã hội”, tác giả hướng đến các mục đích
chính sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thơng tin sai sự thật trên mạng xã hội.
- Thứ hai, nghiên cứu các quy định pháp luật về vi phạm hành chính và xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên
mạng xã hội.
- Thứ ba, từ thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn xử phạt đề xuất một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, cũng như nâng cao hiệu quả xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thơng tin sai sự thật trên
mạng xã hội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của pháp luật về xử phạt vi

phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng
xã hội trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản khác có thể
kể đến như: Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, cơng nghệ thơng tin và tần số vô tuyến điện
(sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 49/2017/NĐ-CP); Nghị định số 15/2020/NĐ-CP
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, cơng
nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện (thay thế cho Nghị định số 174/2013/NĐ-CP,
hiệu lực kể từ ngày 15/04/2020) và một số Luật, Nghị định của Chính phủ quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực liên quan khác. Đồng thời, tác giả
cũng nghiên cứu thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp,
chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội thông qua nghiên cứu các vụ việc vi
phạm hành chính trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Với đối tượng nghiên cứu chính đã được đề cập, Khóa luận chủ yếu nghiên
cứu các quy định pháp luật về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên


4
mạng xã hội trong pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Khóa luận cịn mở
rộng nghiên cứu đến các quyết định xử phạt vi phạm đối với hành vi này trên thực
tế nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu của đề tài. Cạnh đó, để làm rõ một số nội
dung của đề tài, cũng như đảm bảo tính khách quan và giá trị áp dụng trên thực tiễn
của đề tài, Khóa luận ngồi phạm vi luật hành chính còn mở rộng nghiên cứu, dẫn
chiếu đến các quy định pháp luật khác có liên quan như pháp luật hình sự.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Để thực hiện đề tài Khóa luận, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp so sánh: So sánh sự khác nhau của quy định pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật giữa

những văn bản pháp luật khác nhau.
Phương pháp tổng hợp, thống kê: Tổng hợp các quy định pháp luật có liên
quan trong q trình nghiên cứu, quan điểm của các nhà khoa học, tác giả, nhóm tác
giả, các đề tài, cơng trình nghiên cứu liên quan. Phương pháp thống kê được sử
dụng để thống kê các số liệu, vụ việc thực tế để minh họa cho các nội dung của đề
tài.
Phương pháp phân tích: Thực hiện phân tích các luận điểm, các quy định
pháp luật, các con số thống kê nhằm đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan,
tìm ra những điểm tích cực hay vướng mắc trong các quy định hiện hành và đưa ra
kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật.
6. Bố cục của khóa luận
Bên cạnh phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Phần mở đầu, Danh mục
tài liệu tham khảo và Phụ lục, bố cục của Khóa luận được chia thành 2 Chương, cụ
thể:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi cung cấp, chia sẻ thơng tin sai sự thật trên mạng xã hội
Chƣơng 2: Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội.


5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI HÀNH VI CUNG CẤP, CHIA SẺ THÔNG TIN SAI SỰ THẬT
TRÊN MẠNG XÃ HỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung
cấp, chia sẻ thơng tin sai sự thật trên mạng xã hội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm “thông tin sai sự thật” và “mạng xã hội”
1.1.1.1. Thông tin sai sự thật
Khái niệm

Để hiểu được khái niệm “thông tin sai sự thật” (TTSST), khái niệm cần làm
rõ đầu tiên chính là “thơng tin”. Theo Từ điển tiếng Việt, “thơng tin” có thể là động
từ hoặc danh từ tùy vào hoàn cảnh sử dụng từ ngữ. Ở đây, khóa luận đang tìm hiểu
thơng tin ở góc độ danh từ. Theo đó, thơng tin có nghĩa là “điều được truyền đi cho
biết, tin truyền đi (nói khái quát)”, hay là “tin, về mặt là một khái niệm cơ bản của
điều khiển học”8.
Theo cách hiểu thứ nhất, thông tin mang nội hàm rất rộng, bao quát nhiều
lĩnh vực và nhiều đối tượng trong đời sống tự nhiên và xã hội. Thơng tin khi đó có
thể là biểu cảm của gương mặt (truyền đi thông tin về sự tán thành hay phản đối, vui
vẻ hay tức giận...); thơng tin có thể là âm thanh được phát ra dưới các tần số khác
nhau của những lồi động vật (sóng siêu âm do cá heo giao tiếp với nhau, tiếng ve
vào mùa hè,...); thơng tin cũng có thể là những mùi hương (khi gửi thức ăn có mùi
mốc cùng với kinh nghiệm của mình, con người nhận được tín hiệu về việc khơng
thể sử dụng được nữa,...).
Theo tác giả Đồn Phan Tân9:
“Theo nghĩa thông thường: thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý
tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thơng tin
hình thành trong q trình giao tiếp: một người có thể nhận thơng tin
trực tiếp từ người khác thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
từ các ngân hàng dữ liệu, hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được
trong môi trường xung quanh.

8

Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thơng, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh,
tr.876.
9
Đồn Phan Tân (2001), “Về khái niệm thơng tin và các thuộc tính làm nên giá trị của thơng tin”,
/>nGTriCuaTT_BaiBao_.pdf, truy cập ngày 09/03/2020.



6
Trên quan điểm triết học: thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã
hội (thế giới vật chất) bằng ngơn ngữ, ký hiệu, hình ảnh v.v...hay nói
rộng hơn bằng tất cả phương tiện tác động lên giác quan con người”.
Cũng theo tác giả này, thơng tin chỉ có giá trị và ý nghĩa khi được truyền đi,
phổ biến và sử dụng. Có thể nói bản chất của thơng tin nằm trong sự giao lưu của
nó. Nói cách khác, thuộc tính cơ bản của thơng tin là giao lưu. Thơng tin khi được
tạo ra sẽ có những mục đích nhất định và đồng thời phải hướng đến một đối tượng
tiếp nhận thông tin nhất định. Nếu thông tin không được tiếp nhận, nội dung thông
tin sẽ không thể trở thành thơng điệp; khơng thực hiện được mục đích tăng thêm tri
thức cho đối tượng của nó và khi đó thơng tin khơng cịn ý nghĩa, khơng có sự tác
động hay ảnh hưởng nào.
Ở khía cạnh pháp lý, thuật ngữ “thơng tin” lần đầu tiên được giải thích trong
Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Theo khoản 1 Điều 2 Luật Tiếp cận thông tin
năm 2016, “thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu
có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh ảnh, bản vẽ, băng, đĩa,
bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra”. Qua đó có
thể thấy, quy định trong Luật Tiếp cận thơng tin năm 2016 có nội hàm hẹp hơn so
với định nghĩa thơng thường vì thơng tin theo cách giải thích này phải được chứa
đựng trong “văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn” và được lưu trữ dưới hình thức đã được
liệt kê hoặc một hình thức lưu trữ thơng tin nào khác “do cơ quan nhà nước tạo ra”.
Với nội hàm hẹp như thế, việc sử dụng quy định này để giải thích từ ngữ “thơng
tin” sẽ dẫn đến tình trạng hành vi tạo ra, lan truyền thông tin bịa đặt, sai sự thật gây
ảnh hưởng đến trật tự xã hội của những cá nhân, pháp nhân, các tổ chức hay những
chủ thể khác trong xã hội không được điều chỉnh. Điều này cũng xuất phát từ khái
niệm quyền tiếp cận thông tin (right to access to information), là quyền của mọi
công dân được tiếp cận các thông tin được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ
chức công quyền10. Do đó, quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Tiếp cận thông tin năm
2016 sẽ không phù hợp để làm căn cứ giải thích cho khái niệm “thơng tin” trong

mọi trường hợp.
Kế đến, “sự thật” hay sự thực được hiểu là “cái có thật, cái có trong thực
tế”, một nghĩa khác nữa của sự thật là “điều phản ánh đúng hiện thực khách quan,
chân lý”11. Hay nói cách khác, sự thật là những gì phản ánh đúng đắn, chân thực về

10

Hồng Minh Sơn, “Bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin theo tinh thần của Hiến Pháp năm 2013”,
truy cập ngày 09/03/2020.
11
Viện Ngôn ngữ học (2002), tlđd (8), tr.876.


7
sự vật, sự việc, hiện tượng diễn ra trong thực tế. Ngược lại, “không đúng sự thật”
tức giả dối, không phản ánh đúng với sự vật, sự việc, hiện tượng diễn ra trong thực
tế. Đồng thời, với những điều bịa đặt, do ai đó tự dựng lên mà khơng phản ánh bất
kì sự vật, sự việc, hiện tượng nào trong cuộc sống cũng sẽ không là sự thật. Do vậy,
“sai sự thật” cần thiết có nội hàm rộng hơn, là không phản ánh hoặc phản ánh không
đúng với sự vật, sự việc, hiện tượng diễn ra trong thực tế.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về “thông tin sai sự thật”
như sau: “Thông tin sai sự thật là tin, những điều do con người tiếp nhận từ môi
trường xung quanh và phản ánh lại không đúng về những sự vật, sự việc, hiện
tượng nào đó diễn ra trên thực tế hoặc phản ánh những sự vật, sự việc, hiện tượng
không tồn tại trên thực tế”.
Đặc điểm của thông tin sai sự thật.
Thứ nhất, nội dung TTSST khơng có giá trị và khơng có tính chính xác.
Có quan điểm cho rằng, bốn yếu tố tác động đến chất lượng thơng tin và đem
lại giá trị cho nó là: tính chính xác, phạm vi bao quát rộng của nội dung, tính cập
nhật và tần số sử dụng. Trong đó quan trọng nhất là nội dung, thứ đến là tính chính

xác12. Nhưng rõ ràng, thơng tin có nội dung sẽ mang lại giá trị nhất định cho người
tiếp nhận mà khơng có tính chính xác thì có thể thơng tin đó khơng có giá trị sử
dụng, thậm chí có thể gây ra tác động tiêu cực. Chỉ những thông tin khơng chính
xác tuyệt đối nhưng lại được thu thập và tạo ra bởi những cách thức, phương pháp
được ghi nhận là có khoa học, có xác thực thì sự thiếu chính xác đó sẽ được thay
đổi cách gọi thành sự sai số, sự tương đối, sự dự đoán và thơng tin này vẫn có giá
trị. Vậy nên nhìn chung, TTSST khơng có giá trị và khơng có tính chính xác; đồng
thời, tính chính xác nên được đặt song hành cùng với nội dung.
Thứ hai, TTSST thường liên quan tới vấn đề đang được dư luận quan tâm
nên thường có khả năng lan truyền nhanh chóng và khó kiểm sốt hơn thơng
thường.
Theo đó, những sự kiện càng “nóng bỏng”, càng gây tranh cãi thì càng thu
hút được sự quan tâm lớn từ xã hội. Chính vì vậy, những TTSST xoay quanh những
vấn đề này sẽ càng trở nên thu hút. Chẳng hạn như những thơng tin về các sự kiện
chính trị quan trọng như bầu cử, họp Quốc hội; về thiên tai, dịch bệnh; về khủng
bố,... Trong cuộc tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 2016, những luồng ý kiến, thảo
luận về sự kiện này hiếm khi thiếu sôi nổi. Theo một phân tích của BuzzFeed News,
trong ba tháng cuối của chiến dịch tranh cử, “20 tin giả về bầu cử thu hút nhiều sự
12

Đoàn Phan Tân (2001), tlđd (9), truy cập ngày 10/03/2020.


8
quan tâm, tương tác xuất phát từ các trang tin giả và các trang blog ủng hộ đảng
phái quá khích, thu hút 8,711 triệu lượt chia sẻ, phản hồi và bình luận trên
Facebook”. Trong khi cùng thời gian đó, “20 tin tức hàng đầu từ 19 website tin tức
lớn thu hút được tổng cộng 7,367 triệu lượt chia sẻ, bày tỏ cảm xúc và bình luận
trên Facebook”13. Có thể thấy, người dân trong trạng thái khơng thể tự mình có
được thông tin về vấn đề đang quan tâm, cũng không thể dự đốn về nó khiến cho

họ dễ dàng tiếp nhận những điều được cường điệu hóa, bịa đặt hay xun tạc. Trong
mơi trường đó, TTSST phát triển nhanh chóng, có khi dẫn đến mất kiểm sốt bởi
những đối tượng lợi dụng sự quan tâm của cộng đồng và tâm lý nóng vội muốn chia
sẻ, cùng sự nhanh chóng và hầu như miễn phí của Internet để thu hút sự chú ý về
mình phục vụ cho mục đích nhất định. Và ở Việt Nam, với khả năng ngăn chặn và
xử lý của các cơ quan nhà nước còn nhiều hạn chế, cùng khả năng chọn lọc thông
tin của người sử dụng MXH chưa được đồng bộ thì sự phát tán của TTSST thường
rất nhanh chóng và mất thời gian để kiểm sốt.
Thứ ba, TTSST có thể được hạn chế nhưng khó có thể bị loại bỏ hồn tồn
khỏi q trình giao lưu.
Như đã đề cập, thơng tin có thuộc tính cơ bản là giao lưu. Do đó, tính giao
lưu cũng tồn tại ở TTSST. Với đặc điểm thứ nhất của mình, TTSST hồn tồn có
thể bị loại bỏ hay được đính chính. Chủ thể loại bỏ, đính chính TTSST khi đó có thể
là một cá nhân, tổ chức, cơ quan, hay một chính phủ nào đó. Nhưng điều này khơng
mang tính tuyệt đối. Với những TTSST khơng mang đặc trưng thứ hai vừa được
phân tích (tức khơng liên quan đến những vấn đề đang được quan tâm) hay phạm vi
phát tán nhỏ hẹp, chưa gây hậu quả cho cộng đồng thì thường bị phát hiện trễ nên
khơng cịn thời hiệu xử phạt hoặc bị bỏ lọt. Bên cạnh đó, thơng tin cịn được xem là
một nguồn tài ngun có khả năng mở rộng chỉ có thể bị hạn chế bởi thời gian và
khả năng nhận thức của con người, vì một số thuộc tính như sau: (1) lan truyền một
cách tự nhiên, (2) khi được sử dụng sẽ không bao giờ cạn đi mà trái lại trở nên
phong phú do được tái tạo và bổ sung thêm nguồn thông tin mới, (3) có thể chia sẻ
nhưng khơng mất đi trong giao dịch14. Qua đó có thể kết luận, TTSST có thể được
hạn chế nhưng khó có thể bị loại bỏ hồn tồn trong q trình giao lưu.
1.1.1.2. Mạng xã hội
Khái niệm

13

Báo điện tử Nhân Dân, “Tin tức giả, hệ quả thật –

truy cập ngày 10/03/2020.
14
Đoàn Phan Tân (2001), tlđd (9), truy cập ngày 10/03/2020.

Nhận

diện

tin

tức

giả”,


9
Mạng xã hội (MXH) được biết đến là sản phẩm của Internet. Năm 1994, trên
Internet xuất hiện MXH đầu tiên là Geocities. Tiếp nối là các trang MXH đáng chú
ý trong giai đoạn kế tiếp như Theblobe, Friendster, Yahoo, Myspace. Những trang
MXH này lần lượt “tụt dốc” và “khai tử” do công nghệ lạc hậu, thiếu linh hoạt trong
chiến lược phát triển. Sự chấm dứt đó nhường bước cho các trang MXH nổi tiếng
sau này như Facebook, Linkedin, Twitter, Flickr, Google Plus, WhatsApp, Skype,
Qzone, WeChat, Baidu Tieba, Instagram và nhiều MXH khác. Ở Việt Nam, cũng đã
từng tồn tại những MXH của người Việt. Trong đó có thể kể đến như Tamtay.vn,
Zing.me.vn, Yume.vn, Go.vn. Qua các số liệu thống kê tại Việt Nam tính đến thời
điểm hiện tại có khoảng 60 triệu tài khoản Facebook, 30 triệu tài khoản YouTube;
cạnh đó, dịch vụ Zalo do một cơng ty trong nước cung cấp cũng thu hút khá nhiều
tài khoản tham gia (khoảng 47 triệu tài khoản)15.
Theo kết quả nghiên cứu của một công ty chuyên về điều tra xã hội học trong
lĩnh vực Internet cho biết, hơn 95% số người truy cập Internet để đọc thông tin, mà

chủ yếu là thông qua các Website tổng hợp và các MXH16; với 57,0% lựa chọn
MXH là phương tiện cập nhật thông tin thường xun17. Theo đó, nhu cầu tìm kiếm
và sử dụng thơng tin là nhu cầu chủ đạo của người dùng Internet. Lúc này, TTSST
với đặc điểm liên quan tới vấn đề đang được dư luận quan tâm, trên môi trường
nhiều thuận lợi như MXH sẽ càng được lan truyền nhanh chóng và trở nên khó
kiểm sốt hơn rất nhiều. Trước sự phát triển không ngừng nghỉ của Internet và các
sản phẩm của nó, yêu cầu phải có pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này được đặt ra. Tại
Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2011 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch
vụ Internet, Chính phủ đã đưa ra các quy định điều chỉnh việc quản lý, cung cấp và
sử dụng dịch vụ Internet tại Việt Nam. Tuy nhiên trong Nghị định này chưa đề cập
đến MXH. Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8/2008 về quản lý, cung cấp, sử
dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet đã lần đầu đưa MXH vào
phạm vi điều chỉnh qua việc giải tích từ ngữ “Dịch vụ MXH trực tuyến”18 tại khoản
14 Điều 3 Nghị định này. Theo đó, dịch vụ MXH trực tuyến với tư cách là một
trang thông tin điện tử trên Internet sẽ chịu sự quản lý chuyên ngành, phối hợp giữa
15

Tống Tuấn Minh (2019), “Thông tin xấu độc trên môi trường mạng: nhận diện và giải pháp xử lý”, Tạp chí
Thơng tin & Truyền thơng, kỳ 2 số 351 (10/2019), tr. 32.
16
Nguyễn Quốc Sửu – Nguyễn Minh Thắng (2018), “Quản lý mạng xã hội cần tiếp cận theo xu hướng phát
triển”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 9 (318), tr. 10.
17
Lê Kim Anh – Vũ Thị Khánh Trình (2018), “Sự tham gia của thanh niên vào trang mạng xã hội
Facebook”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 4 (49/2018), tr. 41.
18
Khoản 14 Điều 3 Nghị định số 97/2008/NĐ-CP quy định “dịch vụ mạng xã hội trực tuyến là dịch vụ cung
cấp cho cộng đồng rộng rãi người sử dụng khả năng tương tác, chia sẻ, lưu trữ và trao đổi thông tin với
nhau trên môi trường internet, bao gồm dịch vụ tạo blog, diễn đàn (forum), trò chuyện trực tuyến (chat) và
các hình thức tương tự khác”.



10
các cơ quan nhà nước, gồm: Bộ Thông tin và truyền thông; Bộ Công an; Bộ Kế
hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính...19. Để bắt kịp thực tiễn biến đổi không ngừng, Nghị
định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, thay thế Nghị định số 97/2008/NĐ-CP, đã
quy định tại khoản 22 Điều 3 như sau:
“Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng
đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm
kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang
thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum) trực tuyến, trị chuyện (chat)
trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự
khác”.
Từ khi Nghị định số 72/2013/NĐ-CP có hiệu lực đến nay đã có nhiều thay
đổi, song khái niệm MXH được quy định trong Nghị định này vẫn có khả năng điều
chỉnh đối với MXH trên thực tế.
Đặc điểm của mạng xã hội
Với những tính năng nêu trên, MXH cho phép những người sử dụng MXH
dễ dàng tìm kiếm và kết nối với nhau dựa trên những đặc điểm chung của họ như:
những người trong gia đình, họ hàng; học cùng lớp, trường; cùng nơi làm việc; sống
cùng thành phố; có cùng sở thích,... Và các MXH thường có thêm tính năng quan
trọng để xúc tiến người dùng của họ ngày một mở rộng “mối quan hệ” trên MXH,
đó là đề xuất những tài khoản có “bạn chung” với người dùng để họ “kết bạn”. Khi
trở thành bạn bè trên MXH, những người dùng sẽ có thể theo dõi hoạt động, chia sẻ
của nhau, quan tâm, trò chuyện, làm việc hay mua bán mà khơng cần rời khỏi thiết
bị kết nối Internet của mình. Chính những sự tiện lợi này đã tạo nên một cộng đồng
xã hội ảo rộng khắp và không bị rào cản bởi biên giới địa lý quốc gia mà ngôn ngữ
báo chí hiện nay thường gọi là “cộng đồng mạng”; và lúc này, mỗi người dùng
MXH chính là một “cư dân mạng”. Từ đó, có thể đưa ra một số đặc điểm của MXH

như sau:
Thứ nhất, MXH là ứng dụng trên nền tảng Internet có sức hút lớn với cộng
đồng mạng.
Như đã đề cập ở trên, MXH là một sản phẩm của Internet. Nhờ Internet cùng
sự phát triển của các sản phẩm cơng nghệ cao mà những tính năng của MXH trở
nên thu hút và đôi khi thay thế những hoạt động bình thường của con người (học

19

Nguyễn Thị Quyên – Vũ Thị Thùy Dung (2013), “Mạng xã hội và những vấn đề đặt ra đối với công tác
quản lý nhà nước”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 209 (6/2013), tr.90.


11
trực tuyến, xem phim, du lịch, trò chuyện, gặp mặt trực tuyến,...). Những dịch vụ
mà MXH mang lại hầu như miễn phí, được thực hiện với tốc độ nhanh chóng và
ngày càng ra mắt thêm nhiều tính năng mới đáp ứng nhu cầu trong “cuộc sống ảo”
của cư dân mạng lại càng khiến người đã dùng MXH khó để từ bỏ thói quen. Theo
tác giả Nguyễn Hải Nguyên – Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh, có ba lý do để lý giải cho sức hút này: (1) tính mới của dịch vụ, (2) độ
tương tác, tính trị chuyện và kết nối cao hơn hẳn, và (3) đáp ứng được nhu cầu đa
dạng của con người một cách nhanh chóng. Tác giả Nguyễn Thị Lệ Uyên – Viện
nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2012) cũng giải thích thêm rằng
MXH sở dĩ thu hút được người dùng chính bởi tính năng duy trì mối quan hệ sẵn có
(gia đình, đối tác,...) và phát triển thêm các mối quan hệ mới một cách dễ dàng20.
Thứ hai, những nội dung trên MXH do chính người dùng sáng tạo ra.
Các nhà cung cấp MXH chỉ tạo ra môi trường và cung cấp các dịch vụ, tính
năng của MXH cho người dùng. Với khơng gian ảo, người dùng được tự mình chia
sẻ những thơng tin dưới dạng bài viết, hình ảnh hay âm thanh khiến cho nội dung
ngày càng trở nên phong phú, bởi mỗi người dùng MXH chính là một con người

thật, ở xã hội thật sẽ mang những câu chuyện của cuộc sống thật đến với thế giới ảo
trên MXH. Đồng thời, các trang báo chính thống, thậm chí các cơ quan nhà nước
hầu hết hiện nay có xu hướng tạo đường liên kết, cho phép chia sẻ những bài viết,
nội dung trên trang thông tin điện tử tổng hợp, cổng thông tin điện tử của mình lên
MXH nhiều người dùng, đặc biệt là MXH Facebook và Youtube. Trên Facebook,
nhiều tổ chức, cơ quan nhà nước cũng chủ động thành lập fanpage để thực hiện
quản lý xã hội thông qua việc định hướng dư luận, truyền thông trên môi trường
MXH.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về cung cấp, chia sẻ thơng tin sai sự
thật trên mạng xã hội
Trong đời sống xã hội, vi phạm hành chính (VPHC) là loại vi phạm xảy ra
khá phổ biến. Tuy mức độ nguy hiểm thấp hơn so với tội phạm nhưng VPHC là
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức, nhà nước;
là nguyên nhân cho những hành vi phạm tội nếu không được ngăn chặn kịp thời21.
1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính về cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật
trên mạng xã hội
20

Lê Kim Anh – Vũ Thị Khánh Trình (2018), tlđd (17), tr. 40.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Cơng An Nhân Dân, Hà
Nội, tr.335.
21


12
Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC
năm 2012) định nghĩa “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi, do cá nhân, tổ chức
thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là
tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Qua
đó, khái niệm VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH có thể được tìm hiểu

trên cơ sở định nghĩa VPHC được quy định trong Luật XLVPHC năm 2012.
Hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH là hành vi bị cấm theo quy định
của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 quy định về quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng22. Và việc xử phạt vi phạm hành
chính (XPVPHC) đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH được điều
chỉnh bởi Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định XPVPHC
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện.
Nghị định số 174/2013/NĐ-CP sẽ được thay thế bởi Nghị định số 15/2020/NĐ-CP
ngày 03/02/2020 quy định XPVPHC trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, tần số vơ
tuyến điện, cơng nghệ thơng tin và giao dịch điện tử. Trong Nghị định số
174/2013/NĐ-CP, khái niệm VPHC về hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH
không đưa ra. Điều này cũng dễ dàng hiểu được, bởi lẽ, Nghị định số 174/2013/NĐCP quy định việc XPVPHC trong nhiều lĩnh vực khác nhau (Nghị định số
15/2020/NĐ-CP quy định thêm về lĩnh vực giao dịch điện tử). Trong khi đó, mỗi
lĩnh vực lại điều chỉnh rất nhiều những VPHC khác nhau, do vậy việc đòi hỏi những
Nghị định chuyên ngành phải định nghĩa từng VPHC cụ thể là hoàn toàn bất hợp lý.
Về mặt khoa học, trước hết, VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH
phải đảm bảo những dấu hiệu cơ bản của VPHC, bao gồm: là hành vi trái pháp luật;
có lỗi; do chủ thể có năng lực trách nhiệm hành chính thực hiện; không phải là tội
phạm; và bị xử phạt theo quy định pháp luật. Kế đến, hành vi cung cấp, chia sẻ
TTSST trên MXH cần được làm rõ.
Bất kỳ người dùng MXH nào cũng dễ hình dung được như thế nào là hành vi
cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH. Cung cấp thông tin là khi người dùng MXH
khởi tạo ra thông tin, đường dẫn (link) đến thông tin hay nói cách khác là nơi phát
đi thơng tin (nguồn) bằng các tính năng (dịch vụ) của MXH như đăng bài/tin trên
trang điện tử cá nhân của mình, của người khác hay hội nhóm, gửi đi tin nhắn điện
tử,... Hành vi này tạo ra khả năng cho nhiều người dùng khác tiếp cận được thơng
tin23. Cịn chia sẻ thơng tin sẽ làm tăng khả năng tiếp cận thông tin đến nhiều người
22

Điểm d, e khoản 1 Điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP.

Khoản 3 Điều 2 Luật tiếp cận thông tin năm 2016 quy định “tiếp cận thông tin là việc đọc, xem nghe, ghi
chép, sao chép, chụp thông tin”.
23


13
dùng MXH khác hơn khi nội dung thông tin ban đầu tiếp tục được lan truyền (hình
thức thể hiện thơng tin có thể thay đổi) cho nhiều người dùng khác bằng các tính
năng của MXH, như chia sẻ (share) lên trang điện tử cá nhân của mình hoặc người
khác, hay đến hộp thư điện tử của một cá nhân hoặc nhóm, chuyển tiếp tin nhắn
điện tử mình nhận được đến một người dùng hay nhóm những người dùng khác,...
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau: “Hành vi cung cấp, chia
sẻ TTSST trên MXH là hành vi tạo ra khả năng tiếp cận TTSST; làm tăng khả năng
tiếp cận TTSST đến nhiều người dùng MXH khác thơng qua các tính năng của
MXH”.
Qua đó, có thể đưa ra khái niệm VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên
MXH như sau: “VPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH là hành
vi tạo ra khả năng tiếp cận TTSST; làm tăng khả năng tiếp cận TTSST đến nhiều
người dùng MXH khác thông qua các tính năng của MXH, được thực hiện bởi cá
nhân, tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm hành chính và thể hiện dưới hình thức
có lỗi, vi phạm quy định pháp luật quản lý nhà nước về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, mà không phải là tội phạm và theo quy
định phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
1.1.2.2. Đặc điểm vi phạm hành chính về cung cấp, chia sẻ thơng tin sai sự thật trên
mạng xã hội
VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, cũng là VPHC nên hành vi này được cấu thành bởi 4 yếu tố, bao
gồm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan.
(1) Khách thể: VPHC xâm phạm các quan hệ pháp luật được pháp luật hành
chính bảo vệ. Ở đây, hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH xâm phạm đến

trật tự quản lý nhà nước về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thơng tin
trên mạng. Theo đó, một số văn bản pháp luật điều chỉnh hành vi này có thể kể đến
như Nghị định số 72/2013/NĐ-CP; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP; Nghị định số
15/2020/NĐ-CP hay Luật an ninh mạng năm 2018.
(2) Mặt khách quan:
Một là, hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH được thể hiện dưới dạng
hành động. Hành vi có 2 loại: hành động và khơng hành động. Tuy nhiên đối với
hành vi cụ thể là cung cấp, chia sẻ thông tin lại luôn được thực hiện dưới dạng hành
động như: đăng bài/tin trên trang điện tử cá nhân của mình, của người khác hay hội
nhóm; gửi đi tin nhắn điện tử; chia sẻ (share) lên trang điện tử cá nhân của mình
hoặc người khác, hay đến hộp thư điện tử của một cá nhân hoặc nhóm, chuyển tiếp


14
tin nhắn điện tử đến một người dùng hay nhóm những người dùng,... Kết quả của
hành động đó là những TTSST được thể hiện dưới hình thức nhất định (hữu hình)
như chữ điện tử (trên bài đăng điện tử), hình ảnh, đoạn hội thoại hay video.
Hai là, mang tính trái pháp luật. Thể hiện ở chỗ, các hành vi cung cấp, chia
sẻ TTSST trên MXH là hành vi bị cấm, được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật như: hành vi “giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo,
TTSST xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” quy định tại
điểm e khoản 1 Điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP; hành vi “cung cấp nội dung
TTSST, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan tổ chức và danh dự, nhân
phẩm của cá nhân” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 64 Nghị định số
174/2013/NĐ-CP, hành vi “cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, TTSST, xuyên tạc,
vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP,...
Về thời gian, địa điểm, phương tiện thực hiện VPHC không phải lúc nào
cũng được quy định. Đối với VPHC cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH, những
dấu hiệu này không được quy định trong các văn bản pháp luật.

(3) Chủ thể: Điều 2 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP quy định chủ thể thực hiện
VPHC sẽ bị xử phạt là “tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngồi
trực tiếp tham gia hoặc có liên quan” đến việc sử dụng dịch vụ Internet, thông tin
trên mạng. Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể VPHC phải
là người có năng lực chịu trách nhiệm hành chính, tức khơng mắc các bệnh tâm
thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định. Cụ thể, người từ đủ 16 tuổi trở
lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi VPHC. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về VPHC được thực hiện với lỗi cố ý24.
(4) Mặt chủ quan: Trong mặt chủ quan, dấu hiệu lỗi của chủ thể là dấu hiệu
bắt buộc; ngồi ra cịn có các dấu hiệu động cơ, mục đích của chủ thể VPHC. Có
hai hình thức lỗi là lỗi vô ý và lỗi cố ý. Đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST
trên MXH đều có thể được thể hiện dưới cả hai hình thức này. Ví dụ: cố ý đăng
TTSST lên trang thơng tin điện tử cá nhân trên MXH để thu hút sự chú ý, tăng lượt
tương tác; vô ý mang một TTSST được tiếp nhận ngoài đời thực lên MXH và trở
thành người cung cấp TTSST đến cộng đồng mạng.

24

Điểm a khoản 1 Điều 5 và Điều 22 Luật XLVPHC năm 2012.


15
Thứ hai, VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH thường xuất hiện
nhiều hơn quanh những vấn đề đang thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội.
TTSST thường liên quan tới vấn đề đang được dư luận quan tâm nên thường
có khả năng lan truyền nhanh chóng và khó kiểm sốt hơn thơng thường. Bên cạnh
đó, MXH với sức hút lớn cùng đặc trưng nội dung do người dùng MXH tự tạo ra thì
nó đã trở thành mơi trường thuận lợi để người sử dụng thỏa mãn nhu cầu được cập
nhật thơng tin nhanh chóng, mới nhất cũng như nhu cầu được chia sẻ chính những

thơng tin của mình. Qua đó có thể thấy, MXH là mơi trường thuận lợi để TTSST
được lan truyền nhanh chóng mỗi khi xã hội xuất hiện những vấn đề mà dư luận
quan tâm. Từ đó, những VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH cũng xuất
hiện nhiều hơn quanh những vấn đề đang thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội.
Thứ ba, VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH khó có thể xác định
được hậu quả của nó và chứng minh mối quan hệ nhân quả.
Việc xác định hậu quả của hành vi là cần thiết cho việc xác định mức độ
nguy hiểm của hành vi và yêu cầu chủ thể vi phạm thực hiện trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm dân sự hay hình sự. Những TTSST này đa số được tạo ra với
mục đích nhất định: có thể nhắm đến việc làm hạ uy tín, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của một cá nhân hay tổ chức nào đó; khi đó, càng nhiều người biết đến thì tổn
hại càng tăng lên, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về tài chính cho đối tượng bị xâm
phạm. Hay VPHC có thể chỉ nhằm mục đích thu hút sự chú ý trên MXH nhưng hậu
quả khó lường hồn tồn có thể xảy ra, phần lớn phụ thuộc vào khả năng chọn lọc
thông tin, khả năng nhận thức hay tâm lý của người tiếp nhận thông tin (khu vực
miền núi, nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số, tâm lý tiêu cực của người tiếp nhận
thơng tin,...). Ví dụ như vụ việc TTSST về những vụ bắt cóc trẻ em thi thoảng lại
xuất hiện trên MXH, mặc dù đã được các cơ quan chức năng và các phương tiện
truyền thông chính thống xác nhận thơng tin là sai sự thật nhưng đâu đó sự ngờ vực,
thậm chí là phẫn nộ còn tồn tại trong nhận thức của những người tiếp nhận được
thơng tin. Nỗi “ám ảnh chuyện bắt cóc” từ MXH đã đi vào đời thực và gây ra nhiều
hệ lụy khi người dân nhìn đâu cũng thấy “kẻ bắt cóc”25. Có thể thấy, xác định mức
độ thiệt hại về tinh thần vốn dĩ đã khó thì những hậu quả kéo dài về mặt thời gian và
không gian lại càng khó hơn nữa, cho dù TTSST đã được cải chính, gỡ bỏ. Từ đó,
việc chứng minh mối quan hệ nhân quả cũng trở nên khó khăn.

25

Báo điện tử Thanh Niên, “Nghi bắt cóc trẻ em nhận 45 triệu: ám ảnh tin đồn bắt cóc”,
truy cập ngày 15/03/2020.



16
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp,
chia sẻ thơng tin sai sự thật trên mạng xã hội
Trước những VPHC, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng chế
tài pháp luật hành chính đối với chủ thể VPHC. Đó là sự phản ứng tiêu cực của Nhà
nước đối với người thực hiện VPHC, kết quả là người thực hiện VPHC phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất và tinh thần so với tình trạng ban
đầu của họ26. Để đấu tranh phòng ngừa và chống VPHC, góp phần giữ vững an
ninh, trật tự, an tồn xã hội, bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, nhà nước đã thực hiện
hoạt động XPVPHC.
1.1.3.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ
thơng tin sai sự thật trên mạng xã hội.
Luật XLVPHC năm 2012 quy định “XPVPHC là việc người có thẩm quyền
xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân,
tổ chức thực hiện hành vi VPHC theo quy định của pháp luật về XPVPHC”27.
Tương tự các Pháp lệnh trước đây, Luật XLVPHC năm 2012 cũng quy định 3 nhóm
biện pháp có thể được áp dụng đối với VPHC, đó là: các hình thức XPVPHC; các
biện pháp khắc phục hậu quả; và các biện pháp ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc
XPVPHC. Theo đó, áp dụng các hình thức XPVPHC và các biện pháp khắc phục
hậu quả chính là hai nhóm biện pháp trách nhiệm hành chính. Cịn nhóm biện pháp
cịn lại là các biện pháp ngăn chặn hành chính, được áp dụng trong các trường hợp
cần thiết phải ngăn chặn, dập tắt những VPHC, đảm bảo việc xử phạt hay ngăn chặn
những thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra.
Từ khái niệm chung về XPVPHC và kết hợp với khái niệm VPHC về cung
cấp, chia sẻ TTSST trên MXH ở mục trên, có thể đưa ra khái niệm: “XPVPHC đối
với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH là việc cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối

với chủ thể thực hiện VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH theo quy định
của pháp luật”.
1.1.3.2. Đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ
thông tin sai sự thật trên mạng xã hội.

26

Phạm Hồng Thái – Nguyễn Thị Minh Hà (2017), Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, tr. 473.
27
Khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012.


17
XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH mang những
đặc điểm chung của XPVPHC và XPVPHC trong pháp luật nhà nước về quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin mạng, như: hoạt động xử phạt được
thực hiện chủ yếu bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật; được áp dụng theo trình tự, thủ tục hành chính do các quy phạm thủ tục
hành chính quy định; kết quả của hoạt động XPVPHC là quyết định hành chính;...
Bên cạnh đó, XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH cịn có
những đặc điểm riêng sau.
Thứ nhất, cơ sở để áp dụng XPVPHC là có hành vi cung cấp, chia sẻ
TTSST trên MXH. Những hành vi được coi là vi phạm quy định tại điểm d và e
khoản 1 Điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và đồng thời được quy định cụ thể
trong Nghị định số 174/2013/NĐ-CP về XPVPHC đối với những hành vi này thì
trách nhiệm hành chính mới được đặt ra đối với chủ thể thực hiện VPHC. Đến ngày
15/4/2020, Nghị định số 174/2013/NĐ-CP đã được thay thế bởi Nghị định số
15/2020/NĐ-CP.
Thứ hai, có nhiều chủ thể có thẩm quyền XPVPHC đối với hành vi cung

cấp, chia sẻ TTSST trên MXH. Theo quy định tại Chương 7 Nghị định số
174/2013/NĐ-CP quy định về thẩm quyền lập biên bản và xử phạt vi phạm hành
chính, một số chủ thể có thẩm quyền xử phạt có thể kể đến một số chức danh như
Thanh tra chuyên ngành Thông tin và truyền thông, Chánh thanh tra Sở Thông tin
và truyền thông, Chánh thanh tra Bộ Thông tin và truyền thông, Cục trưởng Cục an
ninh thông tin; Ủy ban nhân dân các cấp. Khác với Nghị định số 174/2013/NĐ-CP,
Nghị định số 15/2020/NĐ-CP đã bổ sung thêm điều luật để phân định thẩm quyền
xử phạt. Các chủ thể có thẩm quyền xử phạt này sẽ được đề cập cụ thể hơn ở mục
1.2.3.
Thứ ba, hình thức XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên
MXH ngồi hình thức xử phạt chính là phạt tiền cịn áp dụng một số biện pháp khắc
phục hậu quả. VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH không phải là hành vi
ít nghiêm trọng, đơn giản. Tuy là VPHC diễn ra trên không gian mạng, cộng đồng
ảo nhưng hậu quả để lại là thật. Hơn nữa, VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên
MXH còn gây ra những ảnh hưởng xấu đến cộng đồng mà không dễ dàng định
lượng được. Chính vì vậy, khơng quy định hình thức xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền
với giá trị thấp để tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi, cũng như các quy
định về biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi này là phù hợp.


18
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội
Hiện nay, hành vi bị cấm về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH được quy
định trong Nghị định số 72/2013NĐ-CP và việc XPVPHC đối với hành vi này được
quy định tại Nghị định số 174/2013/NĐ-CP và Nghị định số 15/2020/NĐ-CP kể từ
ngày 15/4/2020.
1.2.1. Nguyên tắc xử phạt
Theo nghĩa chung nhất, “nguyên tắc” được hiểu là những điều cơ bản nhất
thiết phải tuân theo trong một loạt các công việc, hoạt động28. “Chế định trách

nhiệm hành chính nói chung có những nguyên tắc nhất định. Đó là những tư tưởng
chủ đạo làm cơ sở cho việc quy định và xử lý VPHC”29. Theo đó, nguyên tắc
XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH là những tư tưởng
chỉ đạo cho việc tiến hành XPVPHC được xuyên suốt, thống nhất, cũng như đảm
bảo được mục đích, yêu cầu của XPVPHC. Qua đó, mọi VPHC sẽ được phát hiện
kịp thời, xử lý hiệu quả, minh bạch và triệt để, đúng người, đúng vi phạm và đảm
bảo giữ vững an ninh, trật tự, an tồn xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước.
Tương tự với nhiều Nghị định chuyên ngành khác, cả Nghị định số
174/2013/NĐ-CP và Nghị định số 15/2020/NĐ-CP đều không đưa ra quy định cụ
thể về nguyên tắc XPVPHC đối với các VPHC trong lĩnh vực mà nó điều chỉnh,
trong đó có VPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH. Do vậy,
những nguyên tắc XPVPHC được quy định trong Luật XLVPHC năm 2012 sẽ là
nền tảng, cơ sở cho việc XPVPHC trong các lĩnh vực cụ thể. Theo đó, 6 nguyên tắc
XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH bao gồm:
Nguyên tắc thứ nhất: Mọi VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH
phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả
do VPHC về cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH phải được khắc phục theo đúng
quy định của pháp luật.
Như đã phân tích ở mục 1.1.1.1, TTSST có mức độ lan truyền nhanh chóng,
gây ra nhiều hậu quả đối với cá nhân, tổ chức, ảnh hưởng xấu cho trật tự quản lý
nhà nước và an toàn xã hội. Chính vì vậy mà việc phát hiện và ngăn chặn kịp thời
có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế rủi ro, thiệt hại cho các đối tượng bị xâm
phạm. Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện
28

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 (Tập 1), Nguyễn Cảnh Hợp, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr. 89.
29
Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 509.



19
và ngăn chặn kịp thời VPHC vừa phải có ý thức trách nhiệm cao, vừa phải có các
biện pháp chuyên môn nghiệp vụ để phát hiện kịp thời những TTSST được đăng tải,
chia sẻ; xác minh, thu thập chứng cứ làm sáng tỏ các tình tiết VPHC, để nhanh
chóng xác định được hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH có là VPHC hay
khơng và người vi phạm là ai, nhằm ngăn chặn kịp thời, không để VPHC tiếp tục
gây thêm thiệt hại cho các đối tượng, chủ thể khác trong xã hội.
Việc xử lý nghiêm minh đảm bảo cho mục đích, yêu cầu của XPVPHC được
thực hiện, cũng như đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục đối với chủ thể VPHC, các
chủ thể còn lại trong xã hội, và đồng thời lòng tin của nhân dân đối với hệ thống
quản lý nhà nước được giữ vững, hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch.
Đặc biệt là những TTSST xuất hiện vào những thời điểm nhạy cảm, người dân dễ bị
chi phối, hoang mang, kích động như: cả nước đang trong thời gian bầu cử Quốc
Hội, trong thời gian ban hành một đạo luật mới hay trong thời gian cả nước đấu
tranh phòng, chống bệnh dịch. Đồng thời, “mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được
khắc phục đúng theo quy định của pháp luật”. Qua đó đảm bảo những VPHC đối
với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH ngoài việc phải chấm dứt thì tùy
vào mức độ, tính chất của VPHC mà người VPHC phải khôi phục hoặc bù đắp
những thiệt hại do hành vi mà mình đã gây ra thơng qua việc bị buộc thực hiện các
biện pháp khắc phục hậu quả do người có thẩm quyền xử phạt áp dụng.
Nguyên tắc thứ hai: Việc XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST
trên MXH phải được tiến hành nhanh chóng, cơng khai, khách quan, đúng thẩm
quyền, bảo đảm cơng bằng, đúng quy định của pháp luật.
Cùng ý nghĩa với việc được phát hiện và được ngăn chặn kịp thời, XPVPHC
đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH phải được tiến hành nhanh
chóng để hạn chế, giảm thiểu những thiệt hại có thể xảy ra, đồng thời đảm bảo hiệu
quả của cơng tác XPVPHC, ý nghĩa phịng ngừa giáo dục được nâng cao. Đây là
trách nhiệm của riêng chủ thể có thẩm quyền xử phạt, địi hỏi trong việc xác minh,

thu thập chứng cứ và tiến hành thủ tục xử phạt phải với thời gian ngắn nhất trong
điều kiện cho phép30.
Đồng thời, việc XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên
MXH đòi hỏi phải được thực hiện một cách công khai, khách quan và đảm bảo cơng
bằng. Với áp lực “tiến hành nhanh chóng”, việc XPVPHC lại càng không được
phép kết luận chủ quan, thiếu căn cứ; phải căn cứ vào tính chất, mức độ của VPHC
cũng như cân nhắc những tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ để việc xử phạt được
30

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), tlđd (27), tr. 92.


20
đúng người, đúng hành vi. Đơn cử, hành vi đăng tải thơng tin bịa đặt lịch trình di
chuyển của một người bị dương tính với vi-rút Corona trên Facebook khi chưa có
kết luận và cơng bố của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khơng thể kết luận là hành
vi tiết lộ bí mật đời tư, bí mật khác khi chưa được sự đồng ý của cá nhân trên trang
thông tin điện tử (MXH) quy định tại điểm b khoản 2 Điều 64 Nghị định số
174/2013/NĐ-CP, mà đây phải là hành vi “cung cấp nội dung TTSST” lên trang
thông tin điện tử cá nhân (MXH) quy định tại điểm a khoản 3 Điều 64 cũng Nghị
định này. Việc XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH đảm
bảo nguyên tắc VPHC được xử lý nghiêm minh, không chỉ đồng thời đang đảm bảo
được nguyên tắc XPVPHC khách quan, mà bên cạnh đó ngun tắc xử phạt cơng
khai, công bằng cũng được đảm bảo. Xử phạt công khai sẽ là cơ sở để người thực
hiện VPHC giám sát quá trình tiến hành thủ tục xử phạt của chủ thể có thẩm quyền,
qua đó đảm bảo quyền, lợi ích của mình. Cịn cơng bằng khơng có nghĩa là xử phạt
như nhau, mà là việc xử phạt phải đảm bảo đúng người, đúng vi phạm, không tư
thù, không vụ lợi. Những nguyên tắc được nêu ra hầu hết đều có quan hệ mắc xích
với nhau.
Nguyên tắc thứ ba: Việc XPVPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST

trên MXH phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm
và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
Nguyên tắc này gắn liền với nguyên tắc khách quan, cơng bằng nêu trên. Đầu
tiên, tính chất vi phạm được hiểu là mức độ nguy hại mà VPHC tác động đến xã
hội, thể hiện ở lĩnh vực xảy ra vi phạm; động cơ, thủ đoạn của hành vi; hậu quả, tác
động tiêu cực của hành vi đến xã hội. Mức độ vi phạm tức quy mô của hành vi vi
phạm. Khi đó, nội dung TTSST ảnh hưởng đến càng nhiều chủ thể trong xã hội thì
quy mơ vi phạm càng lớn; chủ thể thực hiện VPHC thực hiện hành vi cung cấp, chia
sẻ TTSST trên MXH là cá nhân đơn lẻ sẽ mang mức độ vi phạm thấp hơn so với
việc chủ thể là những cá nhân thực hiện có tổ chức...
Về hậu quả của VPHC đối với hành vi cung cấp, chia sẻ TTSST trên MXH
là những thiệt hại thực tế gây ra cho cá nhân, tổ chức, lợi ích nhà nước mà có thể
nêu ra được bằng cách định tính hay định lượng. Ví dụ: ngày 27/6/2013, một nữ
sinh Trung học phổ thông ở huyện Thạch Thất (Hà Nội) đã bị bạn cùng lớp ghép
ảnh chân dung vào một cô gái mặc áo cổ rộng rồi đăng lên Facebook khiến các
thành viên trên MXH giễu cợt, miệt thị nữ sinh này, dẫn đến tự tử. Hậu quả trong


×