Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ theo luật phá sản hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
----    ----

LỮ THỊ NGỌC DIỆP

ĐIỀU HỊA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ
VÀ DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ MẮC NỢ
THEO LUẬT PHÁ SẢN HIỆN HÀNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM - 2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

ĐIỀU HỊA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ
DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ MẮC NỢ THEO
LUẬT PHÁ SẢN HIỆN HÀNH

SINH VIÊN THỰC HIỆN : LỮ THỊ NGỌC DIỆP
KHÓA: 32
MSSV: 3250026
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : ThS. BÙI THỊ THANH


THẢO

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết luận
trong luận văn đều được rút ra từ quá trình tìm hiểu, nghiên cứu của bản
thân. Các số liệu, ý kiến của tác giả khác đều được trích dẫn nguồn đầy đủ.
Sinh viên thực hiện

Lữ Thị Ngọc Diệp


MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu ...................................................................................................................... 1
Chương 1. Khái quát về điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã
mắc nợ theo pháp luật phá sản Việt Nam ...................................................................... 5
1.1.

Khái quát về pháp luật phá sản Việt Nam ..................................................... 5

1.1.1.

Khái niệm phá sản ............................................................................................ 5

1.1.2.

Vai trò của pháp luật phá sản .......................................................................... 10


1.1.3.

Tổng quan về các chủ thể tham gia thủ tục phá sản theo Luật phá sản 2004 . 13
Khái qt về điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc

1.2.

nợ trong thủ tục giải quyết phá sản ............................................................................. 17
1.2.1.

Khát niệm điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã

mắc nợ ............................................................................................................................ 17
1.2.2.

Những đòi hỏi khách quan phải điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp,

hợp tác xã mắc nợ bằng pháp luật phá sản ...................................................................... 20
1.2.2.1. Q trình phát triển quan điểm điều hịa lợi ích giữa chủ nợ
và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ ........................................................................ 20
1.2.2.2. Sự cần thiết phải điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp,
hợp tác xã mắc nợ .................................................................................................... 23
1.1.3.

Các nguyên tắc đảm bảo điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp,

hợp tác xã mắc nợ theo pháp luật Việt Nam.................................................................... 27
Chương 2. Các quy định điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã
mắc nợ theo Luật phá sản 2004 – Thực trạng và kiến nghị ......................................... 30

2.1.

Các quy định điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã

mắc nợ ............................................................................................................................ 30
2.1.1. Điều hòa lợi ích trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ ........................................................................ 30
2.1.1.1. Căn cứ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ............................................. 31
2.1.1.2. Chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ......... 34


2.1.2.

Điều hịa lợi ích trong vấn đề thanh tốn nợ..................................................... 39

2.1.2.1. Quyền được thanh toán nợ của các chủ nợ ............................................... 40
2.1.2.2. Nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ .............................. 45
2.1.2.3.
2.1.3.

Các quy định nhằm đảm bảo việc thanh tốn nợ ..................................... 51

Điều hịa lợi ích trong việc thực hiện thủ tục giải quyết yêu cầu

tuyên bố phá sản .............................................................................................................. 59
2.1.3.1.

Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản ....................................... 59

2.1.3.2.


Hội nghị chủ nợ......................................................................................... 62

2.1.3.3.

Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.... 66

Một số kiến nghị hoàn thiện Luật phá sản 2004 nhằm đảm bảo điều hịa lợi

2.2.

ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ .................................................................... 72
2.2.1.

Dẫn đề .............................................................................................................. 72

2.2.2.

Một số kiến nghị cụ thể .................................................................................... 73

2.2.2.1. Quy định thêm trường hợp chuyển hóa tư cách chủ nợ ............................. 73
2.2.2.2. Quy định hợp lý hơn về chủ nợ mới ......................................................... 74
2.2.2.3. Quy định quyền biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ cho chủ nợ có bảo đảm
một phần .................................................................................................................... 75
2.2.2.4. Quy định hợp lý hơn về thời điểm thành lập tổ quản lý, thanh lý tài sản .. 75
2.2.2.5. Quy định về tài sản dùng để trả nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã ........... 77
2.2.2.6. Quy định hợp lý hơn về việc giải phóng nghĩa vụ trả nợ cho chủ doanh
nghiệp tư nhân và các thành viên hợp danh của công ty hợp danh .......................... 78
2.2.2.7. Cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được
lựa chọn thủ tục thanh lý tài sản ............................................................................... 79

Kết luận ........................................................................................................................... 81


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh phải chịu sự chi phối bởi
các quy luật kinh tế vốn có của nó như quy luật cung cầu, giá trị, cạnh tranh... Với
những quy luật khắc nghiệt này, việc một doanh nghiệp bị thất bại trong kinh doanh
dẫn đến thua lỗ, vỡ nợ, mất khả năng thanh tốn và bị Tịa án tuyên bố phá sản là
không thể tránh khỏi. Phá sản là hiện tượng tự nhiên và bình thường, là thuộc tính
của kinh tế thị trường. Đó là q trình chọn lọc, đào thải tự nhiên nhằm tạo ra
những nhân tố mới phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, bên cạnh những văn bản
pháp luật quy định về cạnh tranh, về hoạt động mua bán hàng hóa, xuất nhập khẩu...
thì việc Nhà nước ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh và giải quyết
vấn đề phá sản sao cho phù hợp với tình hình kinh tế ngày càng diễn biến phức tạp
như hiện nay là rất cần thiết. Cho đến thời điểm này, Luật phá sản 2004 là đạo luật
về phá sản đang có hiệu lực thi hành, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Việt
Nam Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.
Luật phá sản 2004 ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế - xã hội, nó góp
phần cơ cấu lại nền kinh tế, ổn định trật tự xã hội. Tuy nhiên, phá sản là hiện tượng
gây ảnh hưởng đến nhiều quan hệ kinh tế - xã hội và nhiều chủ thể khác nhau. Phá
sản dẫn đến tình trạng thất nghiệp, người lao động mất thu nhập, xã hội mất ổn
định. Đặc biệt, phá sản luôn tiềm ẩn tranh chấp tài sản giữa chủ nợ và doanh nghiệp,
hợp tác xã, giữa các loại chủ nợ với nhau, xảy ra xung đột quyền lợi giữa các chủ
thể có địa vị pháp lý khác nhau trong quá trình tiến hành thủ tục giải quyết phá
sản... Các chủ thể này khi tham gia vào thủ tục phá sản đều hướng đến những lợi ích
chủ quan nhất định, và khi ban hành luật phá sản, nhà nước cũng hướng đến một lợi
ích chung lớn nhất là đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện phát triển mạnh
mẽ nền kinh tế đất nước. Xuất phát từ thực tiễn đó, nhiệm vụ của pháp luật phá sản
là phải có những quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều hịa lợi ích giữa các chủ thể này một cách hợp lý, có hiệu quả sẽ là tiền đề để
luật phá sản hồn thành mục đích lớn nhất của mình.
Qua hơn 6 năm thực hiện, Luật phá sản 2004 đã có những ưu điểm và cũng dần
bộc lộ những hạn chế nhất định trong việc điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (sau đây có thể gọi tắt là doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ hoặc con nợ). Những ưu điểm và hạn chế đó có tác động
khơng nhỏ đến sự lựa chọn của các chủ thể khi họ tìm kiếm cách giải quyết nhằm
thỏa mãn lợi ích của mình khi tình trạng phá sản doanh nghiệp xảy ra, và rộng hơn
1


nữa, nó cịn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nắm bắt và
hiểu rõ những ưu khuyết điểm này để từ đó hồn thiện pháp luật phá sản Việt Nam,
để luật phá sản thực sự trở thành cơng cụ pháp lý hữu ích trong giải quyết phá sản
cũng như giữ vai trò quan trọng trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế đất nước đang
là vấn đề cần thiết. Đó là lý do tại sao tác giả chọn đề tài: Điều hòa lợi ích giữa
chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ theo Luật phá sản Việt Nam hiện
hành để thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài “Điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ theo
Luật phá sản hiện hành” là một đề tài mới, do vậy các cơng trình nghiên cứu về vấn
đề này cịn rất ít. Qua q trình khảo sát tài liệu, tác giả nhận thấy các đề tài nghiên
cứu liên quan đến vấn đề quyền lợi, địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục
phá sản chủ yếu là nghiên cứu trên phương diện quyền lợi riêng biệt của từng chủ
thể theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn như ở cấp độ Luận văn cử nhân có cơng
trình nghiên cứu của tác giả Châu Quốc An (2002) về đề tài “Thực trạng đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ theo quy định của pháp luật phá sản doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay và phương hướng hoàn thiện”; ở cấp độ Luận văn thạc sĩ
có cơng trình nghiên cứu của tác giả Lê Thị Đào về “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ”, hay đề tài “Bảo vệ doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình

trạng phá sản” của tác giả Đinh Thị Thanh Nga. So với những đề tài này, điểm mới
trong đề tài mà tác giả đã chọn là phân tích sự điều hịa lợi ích giữa hai chủ thể: chủ
nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, tức là thay vì phân tích quyền lợi của từng
chủ thể trong từng vấn đề, tác giả xem xét, đánh giá và phân tích các quy định của
pháp luật để chỉ ra rằng trong từng vấn đề cụ thể, lợi ích hai chủ thể này đều được
pháp luật quan tâm và bảo vệ.
Gần đây, có Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hữu Khoa là cơng trình
nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề điều hịa lợi ích với tên đề tài là “Điều hịa lợi ích
chủ nợ và con nợ theo Luật phá sản 2004”. Tuy nhiên, công trình này chưa làm rõ
được sự điều hịa lợi ích trong từng vấn đề cụ thể mà chỉ là phân tích các quy định
thể hiện quyền và nghĩa vụ các bên, đồng thời, cơng trình cũng chưa nêu được một
số hạn chế của pháp luật còn tồn tại trong vấn đề này.
Trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các đề tài trước đây, tác giả đã thực hiện luận
văn này theo hướng đi riêng của mình phù hợp với các quy định của pháp luật và
thực tiễn thi hành pháp luật nhằm đạt được mục đích nghiên cứu ban đầu đã đặt ra.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận


Mục đích của khóa luận

Mục đích đầu tiên của đề tài là nắm vững các quy định của Luật phá sản hiện
hành, đặc biệt trong vấn đề điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã
mắc nợ; trên cơ sở đó vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các vấn đề
thực tiễn, đề xuất những phương hướng nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của các chủ
thể và lợi ích xã hội, góp phần hồn thiện pháp luật phá sản Việt Nam nói riêng và
hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.



Nhiệm vụ của khóa luận
Đề tài phân tích các quy định của pháp luật phá sản hiện hành về điều hịa lợi

ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, trên cơ sở đó đánh giá ưu điểm
và hạn chế của Luật phá sản hiện hành trong việc điều hòa lợi ích giữa hai chủ thể
này. Từ những hạn chế, thực tiễn áp dụng và kinh nghiệm pháp luật các nước trên
thế giới, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm giải quyết bất cập và góp phần hồn
thiện pháp luật phá sản.
4. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doang
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ trên cơ sở phân tích những lý luận cơ bản về điều hịa lợi
ích và những vấn đề chủ yếu thể hiện sự điều hòa của pháp luật phá sản hiện hành
nhằm bảo vệ lợi ích các chủ thể, có sự so sánh với luật phá sản thời kỳ trước, luật
phá sản của một vài quốc gia cụ thể và bình luận.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận này được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam và Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nội dung của luận văn được phân tích dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước
và thực tiễn áp dụng pháp luật. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân
tích, so sánh, tổng hợp trong quá trình lý giải các vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Khóa luận là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo trong q trình thực
hiện công tác pháp luật. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo cho sinh viên
Luật và các chủ thể khác quan tâm đến vấn đề này.

3



7. Bố cục của khóa luận
Lời nói đầu
Chương 1: Khái qt về điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác
xã mắc nợ trong Luật phá sản 2004.
Chương 2: Các quy định điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác
xã mắc nợ theo Luật phá sản 2004 - Thực trạng và kiến nghị hồn thiện.
Kết luận
------------------

Do kiến thức cịn hạn chế, cộng thêm những trở ngại khách quan trong quá
trình nghiên cứu nên khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận
được sự đóng góp chân tình của các thầy cơ giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của cơ Bùi Thị
Thanh Thảo, Thạc sĩ, Giảng viên khoa Luật thương mại, trường Đại học Luật
TP.Hồ Chí Minh. Cảm ơn cơ Đinh Thị Thu Hương, thẩm phán Tịa án nhân dân
quận 3 TP.HCM, cô Ủ Thị Bạch Yến, thẩm phán Tòa kinh tế TP.HCM, anh Tuân,
cán bộ Tòa án nhân dân TP.HCM, chị Lữ Thị Hằng, cán bộ Tịa án nhân dân huyện
Dakmil... đã giúp đỡ tơi thu thập tài liệu để hồn thành tốt khóa luận này.

4


CHƢƠNG 1. KHÁT QT VỀ ĐIỀU HỊA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ
DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ MẮC NỢ THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM
----------------Luật phá sản là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống pháp luật của một
quốc gia có nền kinh tế thị trường. Với tư cách là công cụ điều chỉnh quan hệ giải
quyết phá sản, luật phá sản trước hết cần phải thể hiện vai trị của mình trong việc
dàn xếp ổn thỏa và hợp lý nhất lợi ích giữa các chủ thể tham gia. Tác giả viết

chương này chủ yếu nhằm mục đích nhận diện hiện tượng phá sản ở góc độ kinh tế
- xã hội - pháp lý; làm rõ vai trò của luật phá sản đối với những lợi ích mà các chủ
thể tham gia thủ tục giải quyết phá sản hướng đến; từ đó nhận thức một cách khách
quan sự cần thiết phải điều hịa lợi ích giữa các chủ thể và các nguyên tắc pháp luật
để đảm bảo thực hiện vấn đề điều hịa lợi ích đó.
1.1. Khái qt về pháp luật phá sản Việt Nam
1.1.1.

Khái niệm phá sản

Phá sản dưới góc độ kinh tế - xã hội
Trải qua quá trình dài của lịch sử phát triển kinh tế, bên cạnh những yếu tố tích
cực là thúc đẩy khoa học - kỹ thuật phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân thì nền kinh tế cũng xảy ra nhiều biến động, thăng trầm và khủng hoảng.
Hậu quả của khủng hoảng kinh tế thường kéo theo sự phá sản hàng loạt của các
thương nhân. Phá sản đã xuất hiện từ rất lâu đời nhưng với tư cách là một hiện
tượng phổ biến thì nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế
này, cùng với các quyền cơ bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh được
nhà nước quan tâm, đề cao và bảo vệ. Khi đó phá sản sẽ là hệ quả tất yếu của quá
trình cạnh tranh, kinh doanh trên thương trường.
Phá sản được xem như sự thoái trào của một doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh dưới tác động của các quy luật kinh tế. Hiện tượng này sẽ càng phổ biến và
rõ nét hơn ở nơi có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ. Nhìn chung, pháp
luật phá sản trên thế giới đều sử dụng thuật ngữ “phá sản” như một khái niệm
chung chỉ sự đổ vỡ trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Nếu giải thể
là trường hợp doanh nghiệp có quyền tự quyết định giải quyết công việc nội bộ,
phân chia tài sản…, sự can thiệp của các cơ quan hữu quan khơng mang tính chủ
đạo, giải thể có thể do ngun nhân khách quan hoặc chủ quan cơ bản thuộc quyền
tự do của chủ doanh nghiệp, một doanh nghiệp chỉ được cho phép giải thể khi
5



doanh nghiệp đó đảm bảo thanh tốn hết các khoản nợ và thanh lý hết mọi hợp đồng
đã ký kết thì phá sản là tình trạng chủ thể kinh doanh bị lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh tốn nợ đến hạn và buộc phải tiến hành thủ tục phá sản như một lựa
chọn cuối cùng.
Như vậy, ở tầm vĩ mô, trong một chừng mực nhất định, phá sản là hiện tượng
khách quan, hình thành, phát triển theo quy luật và diễn biến phức tạp của nền kinh
tế thị trường, nó là thuộc tính của nền kinh tế và tồn tại khơng phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của người kinh doanh. Phá sản phát sinh từ sự suy kiệt nghiêm trọng khả
năng kinh doanh đến mức phải phát tán tài sản để trả nợ cho các chủ nợ và nó ảnh
hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở phạm vi hẹp hơn, phá sản là tình
trạng chủ thể mắc nợ bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, còn gọi là “vỡ nợ”.
Dấu hiệu này được pháp luật phá sản thừa nhận và phản ánh thành các căn cứ pháp
lý để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết phá sản1.
Khái niệm phá sản dưới góc độ pháp lý
Phá sản là hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan trong nền kinh tế thị trường
mà hậu quả trực tiếp của nó là làm phát sinh xung đột lợi ích giữa các bên tham gia
quan hệ kinh doanh2. Để giải quyết hậu quả của kinh doanh thua lỗ, chủ nợ và
người mắc nợ đã sử dụng những phương thức khác nhau. Họ có thể tự giải quyết
hoặc thông qua sự giúp đỡ của một bên thứ ba nào đó. Tuy nhiên, khơng phải lúc
nào quá trình bàn bạc chủ động giữa các bên hay sự tham gia của bên thứ ba với tư
cách người hòa giải đều mang lại hiệu quả. Tranh chấp đơi khi khơng được giải
quyết mà cịn phát triển gay gắt hơn. Chính vì vậy, phá sản cần có sự can thiệp của
pháp luật, trước tiên là để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên
quan: chủ nợ, người mắc nợ và người lao động.
Cho đến nay, luật phá sản các nước vẫn chưa định nghĩa một cách trực tiếp thế
nào là phá sản mà chỉ đưa ra những điều kiện, hoàn cảnh để cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Nhìn chung, lý do để
các cơ quan ra quyết định này là doanh nghiệp bị mất khả năng thanh tốn các món

nợ đến hạn. Tùy vào tình hình kinh tế xã hội và quan điểm pháp luật của mỗi quốc
gia cũng như của một quốc gia trong từng thời kỳ xã hội mà họ đưa ra các căn cứ
khác nhau để xác định tình trạng phá sản, từ đó, khái niệm “lâm vào tình trạng phá
sản” được hiểu theo những cách khác nhau.
1

Châu Quốc An (2002), Tài sản phá sản và vấn đề phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá
sản theo Luật phá sản doanh nghiệp 1993, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, tr 6.
2
TS Nguyễn Thái Phúc, Luật phá sản 2004 – Những tiến bộ và hạn chế, “Tạp chí khoa học pháp lý”, số
3/2004

6


Thứ nhất là xác định tình trạng phá sản dựa trên tiêu chí định lượng. Theo tiêu
chí này, một doanh nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi khơng thanh tốn
được một món nợ đến hạn có giá trị tối thiểu được ấn định trong luật phá sản. Như
vậy, không phải bất kỳ một khoản nợ quá hạn nào cũng được coi là lý do để xúc
tiến thủ tục phá sản đối với con nợ. Theo phương pháp này, Luật Phá sản của Liên
bang Nga quy định số nợ không thấp hơn 100.000 rúp với chủ nợ là pháp nhân và
10.000 rúp với chủ nợ là cá nhân3. Còn Luật phá sản Singapo đến lần sửa đổi năm
1999 đã nâng mức nợ lên 5.000 đô-la Singapore4. Thứ hai là xác định theo tiêu chí
kế tốn. Theo tiêu chí này, nếu sổ sách kế tốn của doanh nghiệp cho thấy tổng giá
trị tài sản nợ lớn hơn tổng giá trị tài sản có thì doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng
phá sản. So với tiêu chí định lượng, tiêu chí này đã phản ánh chính xác hơn tình
trạng tài chính của doanh nghiệp mắc nợ và do đó nó cho phép thu hẹp hơn phạm vi
những doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản. Thứ ba là xác định theo tiêu chí định
tính. Các quốc gia dựa trên tiêu chí này để xác định doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản chỉ quan tâm trực tiếp đến khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn

của doanh nghiệp mắc nợ mà không định lượng cụ thể số nợ và thời gian khơng
thanh tốn được nợ. Chẳng hạn như Luật phá sản của Nhật Bản có quy định lý do
tuyên bố phá sản là việc công ty không thể trả được các khoản nợ và các nghĩa vụ
vượt quá giá trị tài sản; cịn theo Luật phá sản xí nghiệp Trung Quốc 1986 thì “Xí
nghiệp thua lỗ nghiêm trọng vì quản lý kinh doanh khơng giỏi, khơng thể thanh tốn
món nợ đến hạn, tuy bố phá sản theo Luật này quy định” 5. Như vậy, với cách xác
định này, dấu hiệu cơ bản nhất mà các quốc gia lấy làm lý do để ra quyết định giải
quyết phá sản đơn giản chỉ là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Trên cơ sở tham khảo những tiêu chí xác định tình trạng phá sản trên thế giới
và phân tích đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam, các nhà lập pháp nước ta đã sử
dụng tiêu chí định tính để xác định thế nào là “doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản” trong Luật phá sản 2004. Khái niệm “lâm vào tình trạng phá
sản” được quy định tại Điều 3 Luật phá sản 2004, theo đó “doanh nghiệp, hợp tác
xã khơng có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có u cầu
thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Căn cứ Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP,
một doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi có đầy đủ các
điều kiện:

3

TS. Nguyễn Thái Phúc, tlđd.
/>5
Trích theo TS. Bùi Xn Hải (2000), Hồn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp. Luận văn thạc sĩ luật
học, tr 8.
4

7


(i)


Có các khoản nợ đến hạn. Đây là các khoản nợ đã đến kỳ hạn thanh

toán theo giao kết làm ăn giữa các bên. Thêm vào đó, các khoản nợ này phải là
khoản nợ khơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đã rõ ràng được các bên
xác nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu chứng minh và khơng có tranh chấp.
(ii)

Chủ nợ đã có u cầu thanh tốn, nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã

khơng có khả năng thanh toán. Điều này khác với việc doanh nghiệp “chây lỳ”
không chịu trả nợ. Công việc cần thiết của Thẩm phán khi đánh giá tình trạng phá
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã là phải chứng minh được thực lực tài chính hiện
tại của doanh nghiệp này khơng thể thanh tốn được khoản nợ khơng có bảo bảm
khi chủ nợ đã có yêu cầu. Mặt khác, yêu cầu thanh toán nợ đến hạn của chủ nợ phải
được chứng minh bằng văn bản đòi nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp.
Theo cách hiểu về “lâm vào tình trạng phá sản” thì đó như một “điềm báo” cho
“cái chết” sắp tới của một doanh nghiệp, hợp tác xã. Dĩ nhiên, một “điềm báo” bao
giờ cũng chỉ mang tính dự báo và xác suất đúng nhất định, và việc một doanh
nghiệp khơng có khả năng thanh tốn nợ khơng có bảo đảm khi đến hạn khơng có
nghĩa là doanh nghiệp đó tất yếu sẽ phá sản. Đứng trên lập trường pháp lý, con nợ
chỉ bị xem là phá sản khi có quyết định tuyên bố phá sản của cơ quan có thẩm
quyền. Tình trạng mất khả năng thanh tốn chỉ là báo động rằng con nợ đang đứng
trước nguy cơ bị tuyên bố phá sản, đó là điều kiện cần và quyết định tuyên bố phá
sản là điều kiện đủ để đi đến kết luận doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Khi chưa
có quyết định tuyên bố phá sản thì dù con nợ có lâm vào tình trạng phá sản trong
bao lâu, dù có chấm dứt hoạt động kinh doanh thì cũng chỉ là “một cái xác chết
chưa được chôn”. Luật phá sản Australia cũng thừa nhận rằng: “Bản thân việc
yêu cầu tuyên bố phá sản của chủ nợ chưa thể biến người mắc nợ thành người bị
phá sản, mà chỉ khi nào có lệnh quản thác tài sản của Tịa án thì mới có thể gây nên

điều này”6. Hoặc tại Điều 2 Luật vỡ nợ Liên Bang Nga định nghĩa “Vỡ nợ được
hiểu là sự công nhận của Tòa án trọng tài hoặc tuyên bố của con nợ về việc khơng
có khả năng thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu của chủ nợ đối với nghĩa vụ phải thanh
toán của con nợ”7. Luật phá sản Việt Nam 2004 dù không quy định rõ thế nào là
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nhưng qua thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn xem
phá sản là hiện tượng chủ thể mắc nợ thực sự lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
tốn nợ đến hạn và bị Tịa án có thẩm quyền ra quyết định tuyên bố phá sản.

6

Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Trí Hoa (1994), Tìm hiểu quy định – Hỏi đáp luật phá sản doanh nghiệp,
NXB TPHCM, tr 78.
7
TS. Nguyễn Thành Đức, Luật vỡ nợ Liên Bang Nga, Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2004),
tr139.

8


“Bản chất phá sản không phải là một vụ án hình sự hay kinh tế mà là một thủ
tục giải quyết quan hệ kinh tế - dân sự”8. Thủ tục phá sản cũng khơng phải là trình
tự tố tụng giống như tố tụng dân sự hay tố tụng hình sự, thủ tục phá sản thực chất là
quá trình áp dụng pháp luật để trả nợ và nhận nợ dưới sự bảo đảm của Tịa án, là thủ
tục thanh tốn nợ đặc biệt đối với một doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn nợ
đến hạn. Tính đặc biệt của thủ tục thanh tốn nợ này thể hiện ở chỗ thay vì đòi nợ
riêng lẽ, các chủ nợ sẽ cùng nhau thực hiện quyền địi nợ của mình, tức là địi nợ tập
thể. Đối với doanh nghiệp, họ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi trách
nhiệm tài sản của mình, điều này khác với việc nợ bao nhiêu trả bấy nhiêu trong
quan hệ vay trả thông thường. Mặt khác, quyền đòi nợ và nghĩa vụ trả nợ theo luật
phá sản được áp dụng cả với những khoản nợ chưa đến hạn, trong khi đó với thủ tục

thanh tốn nợ thơng thường, chỉ khi nào nợ đến hạn thì chủ nợ mới có quyền địi và
con nợ mới có nghĩa vụ trả.
Theo quy định của pháp luật phá sản hiện hành, doanh nghiệp, hợp tác xã mắc
nợ và chủ nợ là chủ thể có vai trị chủ yếu trong thủ tục giải quyết phá sản, họ có
quyền và nghĩa vụ xuyên suốt quá trình tham gia giải quyết phá sản tại Tịa, ví dụ
như quyền và nghĩa vụ đệ đơn ra Tòa án yêu cầu mở thủ tục phá sản; tham gia Hội
nghị chủ nợ; lập phương án phục hồi hoạt động kinh doanh...; còn Tòa án là chủ thể
đóng vai trị hướng dẫn các bên thực hiện đúng thủ tục. Với thủ tục phá sản, vấn đề
thanh toán nợ giữa các bên được tiến hành theo trình tự luật định và có sự can thiệp
từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước. Phá sản xảy ra khi doanh nghiệp khơng có
khả năng thanh tốn nợ đến hạn, lúc này lợi ích chủ nợ đang bị xâm phạm, cịn con
nợ thì đang đứng trên bờ vực sụp đổ. Do vậy, tham gia giải quyết nợ nần thông qua
thủ tục thanh tốn nợ của Luật phá sản sẽ góp phần đảm bảo và điều hịa tốt hơn lợi
ích chủ nợ và con nợ, đồng thời hạn chế ảnh hưởng của phá sản đối với xã hội.
Như vậy, phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh tế thị trường,
còn Luật phá sản là sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng này nhằm hạn chế
tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Thơng qua
pháp luật phá sản, Nhà nước có thể can thiệp vào q trình hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp với một cách hết sức mềm dẻo. Nếu mục tiêu hàng đầu của
Đảng, Nhà nước và pháp luật là bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân, ổn định
trật tự xã hội và phát triển đất nước thì Luật phá sản Việt Nam đóng vai trị quan
trọng trong việc đảm bảo thực hiện mục tiêu đó, đặc biệt là trong thời đại kinh tế
thị trường tồn cầu hóa hiện nay.
8

Viện kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2001), Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về thực hiện Luật phá sản doanh
nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, tr 11.

9



1.1.2.

Vai trị của pháp luật phá sản

Như đã phân tích, sự tồn tại của phá sản với tư cách là một hiện tượng kinh tế xã hội có tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực của đời sống xã hội tất yếu sẽ dẫn đến
việc hình thành và phát triển pháp luật phá sản. Luật phá sản Việt Nam thể hiện vai
trị của mình trong việc điều chỉnh quan hệ này ở những nội dung chủ yếu sau:
Pháp luật phá sản là công cụ bảo vệ một cách hiệu quả nhất quyền lợi hợp
pháp của chủ nợ và người lao động.
Trong hoạt động kinh doanh, tình trạng một doanh nghiệp thiếu vốn và phát
sinh các khoản nợ là thường xun xảy ra. Khoản nợ nhiều hay ít, tình trạng nợ kéo
dài hay ngắn phụ thuộc phần lớn vào khả năng tổ chức kinh doanh, cạnh tranh trên
thương trường của doanh nghiệp. Uy tín và tiềm lực kinh tế ổn định của doanh
nghiệp là thứ tạo nên niềm tin cho các chủ nợ, để từ đó họ sẵn sàng xuất ra một số
tài sản lớn cho vay mà có những trường hợp không cần nhận thế chấp hay cầm cố...
Khi đó, nếu doanh nghiệp lâm vào tình trạng khơng có khả năng thanh tốn nợ đến
hạn thì chủ thể phải chịu bất lợi nhất chính là các chủ nợ, đặc biệt là chủ nợ khơng
có bảo đảm. Do vậy, pháp luật phá sản ra đời với mục tiêu đầu tiên là bảo vệ lợi ích
của chủ nợ khi doanh nghiệp mắc nợ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
khi đến hạn.
Với tư cách là chủ nợ trong quan hệ với doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, khi
đến hạn mà không được trả nợ, các chủ nợ đương nhiên có quyền địi nợ thơng qua
nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp gửi đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đến Tòa án có thẩm quyền. Mặc dù chủ nợ có thể lựa chọn khởi kiện
địi tài sản thơng qua thủ tục tố tụng dân sự, nhưng với đặc điểm của mình là bảo vệ
quyền đòi nợ của chủ nợ bằng cách đưa doanh nghiệp mắc nợ vào thủ tục thanh
toán nợ đặc biệt, buộc doanh nghiệp phải thanh lý tài sản để thanh toán cho con nợ,
thủ tục giải quyết phá sản theo Luật phá sản nên được các chủ nợ lựa chọn để bảo
vệ lợi ích của mình. Chỉ khi nào được tin tưởng áp dụng thì đạo luật này mới thể

hiện được vai trị của mình trong việc bảo vệ lợi ích của chủ nợ.
Sự quan tâm của Nhà nước đối với quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ được
thể hiện rất rõ trong pháp luật phá sản Việt Nam. Đó là sự bảo vệ chính đáng cho
những lợi ích chính đáng chứ khơng mang tính cực đoan như pháp luật phá sản thế
giới thời kỳ trước, điều này thể hiện thông qua các quyền của chủ nợ được quy định
tại Luật phá sản hiện hành và nghĩa vụ của các chủ thể khác đối với chủ nợ. Thêm
vào đó, quy trình thanh lý tài sản của con nợ hay phục hồi hoạt động kinh doanh của
10


doanh nghiệp mắc nợ đều là những cơ chế nhằm đảm bảo thanh toán nợ cho các chủ
nợ, kể cả các chủ nợ với khoản nợ chưa đến hạn.
Phá sản gây hậu quả xấu không chỉ cho chủ nợ mà còn cho cả người lao động.
Phá sản doanh nghiệp là một nguyên nhân đưa đến tình trạng thất nghiệp, người lao
động sau khi mất việc làm cũng khó có khả năng tìm kiếm cơng việc mới. Luật phá
sản bảo vệ lợi ích chính đáng cho người lao động thơng qua các quy định để họ thực
hiện một số quyền như quyền nộp đơn, đại diện chủ người lao động được tham gia
Hội nghị chủ nợ. Đặc biệt, trong Luật phá sản hiện hành, người lao động được ưu
tiên thanh toán lương trước những chủ nợ khác9.
Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, tạo cơ
hội để những chủ thể này rút khỏi thương trường một cách trật tự
Nền kinh tế thị trường là một môi trường kinh doanh năng động và mang tính
cạnh tranh khốc liệt, doanh nghiệp nào có chiến lược kinh doanh hợp lý và sở hữu
loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thì doanh nghiệp đó có cơ
hội tồn tại và phát triển. Ngược lại, tình trạng các doanh nghiệp thất bại trong kinh
doanh cũng là phổ biến. Sự thất bại trong hoạt động kinh doanh do nhiều yếu tố tạo
ra, có thể do trình độ quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp cịn yếu kém, do sự
biến động khó lường của thị trường hoặc do các yếu tố khách quan khác. Kết quả
của những thất bại đó là doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ dẫn đến phá sản. Mặt
khác, phá sản một doanh nghiệp luôn kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà

trước hết là đối với người lao động và các chủ nợ. Chính vì sự phổ biến, tính tất yếu
và những hậu quả mà hiện tượng phá sản gây ra, xã hội, Nhà nước và pháp luật cần
phải có một cái nhìn và cách ứng xử thiện chí, tích cực hơn với các doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản. Nếu trước đây luật phá sản trên thế giới không đặt ra
vấn đề bảo vệ con nợ mà chỉ cho rằng phá sản là một tội phạm và người gây ra vụ
phá sản là một phạm nhân10 thì ngày nay, xuất phát từ quan niệm khác về kinh
doanh mà các nhà lập pháp hiện đại nói chung và luật phá sản Việt Nam nói riêng
đều đặt tiêu chí bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con nợ ở vị trí quan trọng khi
xây dựng pháp luật phá sản. Luật phá sản hiện đại của các quốc gia trên thế giới hầu
như được thiết kế với hướng tích cực hơn nhằm đảm bảo bảo vệ những quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản11.
9

Xem Điều 37 Luật phá sản 2004.
Xem thêm Trung tâm tư vấn pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ (2008), Thực trạng pháp luật về phá sản và
việc hồn thiện mơi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam, tr 13.
11
TS. Phạm Duy Nghĩa (2003), Đi tìm triết lý luật phá sản. Bài tham luận tại hội thảo lấy ý kiến về Luật phá
10

sản sửa đổi.

11


Đối với Luật phá sản hiện hành của nước ta, vấn đề chủ đạo thể hiện vai trò bảo
vệ quyền lợi của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là pháp luật
đã có những quy định nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp mắc nợ có cơ hội thốt
khỏi tình trạng mất khả năng thanh tốn chứ không phải chỉ chú trọng vào các quy
định nhằm xử lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ để thanh tốn cho các chủ nợ.

Bên cạnh đó pháp luật còn quy định nhiều quyền cho doanh nghiệp mắc nợ trong
quá trình giải quyết phá sản. Với những quyền luật định đó, chủ thể mắc nợ khơng
bị rơi vào địa vị pháp lý bất lợi hoàn toàn khi tham gia thủ tục giải quyết phá sản,
đồng thời họ được hưởng những lợi ích nhất định từ việc thực hiện những quyền
năng của mình.
Pháp luật phá sản góp phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt
động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn
Phá sản một mặt có tác động tiêu cực đến trật tự xã hội, ảnh hưởng đến các chủ
thể liên quan, tuy nhiên, nếu xét trên phạm vi toàn cục của nền kinh tế, phá sản và
giải quyết phá sản có ý nghĩa tích cực. Điều này thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, phá sản và pháp luật phá sản là công cụ răn đe các nhà kinh doanh,
buộc họ phải năng động, sáng tạo nhưng cũng phải thận trọng trong khi hành nghề.
Một thái độ hành nghề, trong đó có sự kết hợp giữa tính năng động, sáng tạo và tính
cẩn trọng là hết sức cần thiết vì nó giúp các nhà kinh doanh đưa ra được những
quyết định hợp lý - tiền đề cho sự làm ăn có hiệu quả của từng doanh nghiệp. Sự
làm ăn có hiệu quả của các doanh nghiệp riêng lẻ đương nhiên sẽ kéo theo sự làm
ăn có hiệu quả của cả nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, pháp luật phá sản không chỉ là công cụ răn đe, buộc các doanh nghiệp
phải ln tự hồn thiện mình để tồn tại và phát triển mà cịn là cơ sở pháp lý để xoá
bỏ các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, tạo ra môi trường kinh doanh lành
mạnh cho các nhà đầu tư. Thông qua thủ tục phá sản, những doanh nghiệp thua lỗ
triền miên, nợ nần chồng chất đều phải được xử lý, đưa ra khỏi thương trường. Như
vậy, thủ tục phá sản đã góp phần tạo ra mơi trường pháp lý an tồn, lành mạnh một yếu tố không thể thiếu được cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế12.
Pháp luật phá sản góp phần bảo đảm trật tự an tồn xã hội
Với tư cách là một hiện tượng kinh tế - xã hội, phá sản có ảnh hưởng sâu sắc và
rộng lớn đến nhiều đối tượng, trong đó chủ yếu là chủ nợ, người lao động và con
nợ, đồng thời, phá sản làm xáo trộn trật tự an toàn xã hội. Khi doanh nghiệp lâm
12

PGS. TS. Dương Đăng Huệ, “Pháp luật phá sản Việt Nam”, NXB Tư pháp, tr 23-24


12


vào tình trạng phá sản, các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con nợ bằng đủ mọi
cách; người lao động mất cơng ăn việc làm, rơi vào tình trạng thất nghiệp, từ đó nảy
sinh những tệ nạn xã hội khôn lường; con nợ bị vỡ nợ, hàng ngày đối mặt với cảnh
xiết nợ và trốn nợ… xã hội từ đó mà rối ren, bất ổn.
Thủ tục phá sản ra đời với một phương thức thanh tốn nợ cơng bằng giữa các
chủ nợ, một giải pháp tối ưu cho trường hợp người lao động khơng được thanh tốn
đủ số lương, một thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh cho những doanh nghiệp,
hợp tác xã cịn có khả năng vực dậy. Giải quyết được những vấn đề này một cách có
trình tự, nghiêm minh và cơng bằng tức là pháp luật phá sản đã góp phần đảm bảo
trật tự an tồn xã hội, thúc đẩy phát triển mơi trường kinh doanh lành mạnh.
1.1.3. Tổng quan về các chủ thể tham gia thủ tục phá sản theo Luật phá
sản 2004
Thủ tục phá sản theo Luật phá sản 2004 có sự tham gia của nhiều chủ thể khác
nhau. Các chủ thể này được phân loại thành hai nhóm: nhóm chủ thể tiến hành thủ
tục phá sản, bao gồm Tòa án, Tổ quản lý, thanh lý tài sản và nhóm chủ thể tham gia
thủ tục phá sản bao gồm chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, người lao động
và chủ thể có liên quan. Trong số các chủ thể này, doanh nghiệp mắc nợ và chủ nợ
là hai chủ thể trung tâm tham gia vào thủ tục phá sản, còn Tịa án và Tổ quản lý,
thanh lý tài sản đóng vai trò là chủ thể trung gian tiến hành thủ tục nhằm đảm bảo
các chủ thể tham gia thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cũng như được bảo vệ quyền của
mình.
1.1.3.1. Tịa án
Tịa án là cơ quan có thẩm quyền tuyên bố phá sản con nợ ở nhiều nước trên thế
giới. Tuy nhiên, điều kiện kinh - xã hội, truyền thống lập pháp cũng như nguyên tắc
xây dựng bộ máy nhà nước của mỗi nước có sự khác nhau nên việc giải quyết phá
sản có thể được phân cơng tại các Tòa án khác nhau13, chẳng hạn như ở Mỹ, Thụy

Điển, Nam Tư… là Tòa án phá sản; ở Châu Âu lục địa thường là Tòa án thương
mại; ở Nga là Tịa án trọng tài; ở Inđơnêsia, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc là Tòa
án cấp quận nơi cá nhân có địa chỉ hoặc trụ sở của con nợ là cơng ty. Ở Việt Nam,
Tịa án là cơ quan có vị trí trung tâm và giữ vai trị quyết định trong quá trình tiến
hành giải quyết phá sản. Theo quy định tại Điều 7 Luật phá sản 2004, thẩm quyền
giải quyết phá sản được phân chia theo cấp và lãnh thổ, trong đó, Tịa án nhân dân
cấp huyện có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã đã đăng ký
13

PGS. TS Dương Đăng Huệ, tlđd, tr 40.

13


kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện đó; Tịa án nhân dân cấp tỉnh
có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng
ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó; và trong trường hợp cần
thiết Tịa án nhân dân cấp tỉnh có quyền lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với
hợp tác xã thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Tòa án là chủ thể tham gia xuyên suốt quá trình giải quyết phá sản, từ xem xét,
thụ lý đơn đến thủ tục phục hồi, thanh lý tài sản và ra quyết định tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã. Xuất phát từ việc giải quyết phá sản là một q trình hết
sức phức tạp khơng chỉ xét về quy mô các vấn đề cần xử lý mà cịn cả về tính chất
nghiêm trọng của các hệ quả kinh tế - xã hội mà phá sản có thể gây ra cho các bên
liên quan nên giải quyết phá sản được xem là một trọng trách của Tòa án. Với tư
cách là chủ thể trực tiếp tiến hành các trình tự thủ tục luật định trong quá trình giải
quyết phá sản, Tòa án tham gia vào thủ tục phá sản nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp
cho các chủ nợ, các doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, cho người lao động, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội.
1.1.3.2. Tổ quản lý, thanh lý tài sản

Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo Luật phá sản 2004 là chủ thể có vai trị hỗ trợ
Tịa án trong q trình tiến hành thủ tục giải quyết phá sản. Tổ quản lý, thanh lý tài
sản được thành lập ngay từ khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Hoạt động chính
của Tổ này đúng như tên gọi của nó là bảo quản tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã mắc nợ và tiến hành phương án phân chia tài sản khi có quyết định mở thủ tục
thanh lý tài sản của Tòa án14.
Về thành phần, Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm những thành viên sau: một
chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng; một cán bộ của
Toà án; một đại diện chủ nợ; đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở
thủ tục phá sản; trong trường hợp cần thiết có thể có đại diện cơng đồn, đại diện
người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn tham gia (Điều 9). Như vậy, cả
chủ nợ và con nợ đều có quyền cử đại diện của mình tham gia tổ quản lý, thanh lý
tài sản, trong đó, chủ nợ tham gia với tư cách là người đi đòi nợ, họ có quyền tiếp
xúc hợp pháp với khối tài sản của con nợ, tránh tình trạng con nợ và các thành viên
khác của tổ cấu kết tẩu tán tài sản; còn con nợ tham gia với tư cách là chủ sở hữu
khối tài sản, là chủ thể hiểu rõ nhất tình hình tài sản của mình, do đó, sự tham gia
của đại diện con nợ trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản là hoàn toàn hợp lý.

14

Xem Điều 9, 10 Luật phá sản 2004.

14


Tổ quản lý, thanh lý tài sản có những nhiệm vụ chủ yếu là: lập bảng kê toàn bộ
tài sản hiện có của doanh nghiệp, hợp tác xã; giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản
của doanh nghiệp; thu hồi và quản lý tài sản, tài liệu, số liệu, sổ kế toán và con dấu
của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý; thực hiện phương án phân
chia tài sản theo quyết định của Thẩm phán…(Điều 10). Với những nhiệm vụ và

quyền hạn của mình, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản góp phần quan
trọng trong thủ tục giải quyết phá sản, đặc biệt là trong vấn đề đảm bảo thanh toán
nợ cho chủ nợ và phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản.
1.1.3.3. Chủ nợ
Chủ nợ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ tất cả các cá nhân và tổ chức mà con
nợ có nghĩa vụ trả tiền15. Căn cứ tính chất khoản nợ, Luật phá sản 2004 quy định
chủ nợ được chia làm ba loại, bao gồm chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một
phần và chủ nợ khơng có bảo đảm, trong đó chủ nợ có bảo đảm là những chủ nợ có
khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hay người thứ
ba; chủ nợ khơng có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được đảm bảo bằng tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có
khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mà giá trị bảo đảm ít hơn
khoản nợ đó16.
Mỗi loại chủ nợ có những quyền và nghĩa vụ khác nhau xuất phát từ tính chất
khoản nợ là có bảo đảm hay khơng có bảo đảm. Chủ nợ có bảo đảm là những chủ
nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hay người
thứ ba, so với các chủ nợ khơng có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần thì
loại chủ nợ này đã phần nào giữ được lợi thế hơn trong việc thu hồi nợ, do đó pháp
luật phá sản hiện hành có những quy định về quyền chỉ dành riêng cho chủ nợ
không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần, ví dụ như quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản (Điều 13); quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều
44); quyền biểu quyết thông qua Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ (Điều 64)... Ngoài
ba loại chủ nợ đã nêu, Luật phá sản hiện hành cho rằng người lao động là một loại
chủ nợ đặc biệt. Vì tính chất quan hệ với doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ cũng như
địa vị pháp lý đặc biệt của chủ thể này nên trong phạm vi giới hạn đề tài, dựa trên
kiến thức lý luận và bản chất chung của chủ nợ, tác giả chỉ phân tích về chủ nợ nói
chung để thấy rõ sự điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ.
15
16


TS Nguyễn Thành Đức, tlđd, tr 147.
Xem Điều 6 Luật phá sản 2004.

15


Trong quan hệ pháp luật phá sản, chủ nợ tham gia với tư cách là chủ thể đã
hoặc sẽ phải chịu tổn thất do tình trạng mất khả năng thanh tốn của doanh nghiệp
mắc nợ mang lại. Chính vì có mối quan hệ này với doanh nghiệp mắc nợ cũng như
những tổn thất phải gánh chịu, chủ nợ được đặt ở vị trí là chủ thể có vai trị quyết
định đối với tiến trình giải quyết phá sản. Điều đó thể hiện trước hết ở việc chủ nợ
có quyền quyết định khởi động q trình thanh tốn nợ thơng qua thủ tục phá sản
bằng cách nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, đồng thời họ cũng là chủ thể có khả
năng quyết định số phận pháp lý của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, cho doanh
nghiệp có cơ hội phục hồi hoặc buộc doanh nghiệp phải thanh lý tài sản để thanh
toán nợ. Về lý luận, pháp luật xây dựng trên cơ sở bảo vệ lợi ích chủ nợ hay con nợ
đều dựa trên tình hình kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, từ đó phát triển thành quan
điểm lập pháp khác nhau, thế nhưng chỉ khi nào luật phá sản đảm bảo được quyền
và lợi ích chính đáng cho chủ nợ trong hoàn cảnh khắc nghiệt này, họ mới mạnh
dạn tham gia vào các quan hệ kinh tế, chủ động hợp tác và tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp, hợp tác xã phát triển trong sản xuất kinh doanh.
1.1.3.4. Doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ
Trong thủ tục giải quyết phá sản, nếu đánh giá chủ nợ là chủ thể có vị trí trung
tâm và vai trị quyết định thì cũng cần thiết phải xét đến tầm quan trọng của doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, bởi chủ thể này chính là nguyên nhân làm phát sinh thủ
tục phá sản. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản tham gia thủ tục
phá sản với tư cách là chủ thể phải thanh toán các khoản nợ thuộc về nghĩa vụ tài
sản của mình. Để đảm bảo tối đa khả năng trả nợ, tùy vào từng hồn cảnh cụ thể,
Tịa án sẽ áp dụng các thủ tục khác nhau. Mặc dù ở vị thế là người phải trả nợ, là

người đã gây ảnh hưởng đến các chủ nợ của mình và các chủ thể liên quan nhưng
chủ thể này không bị quy kết và đối xử thiệt thòi, ngược lại, Luật phá sản 2004 đã
có những tiến bộ trong quy định về địa vị pháp lý của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản. Điều này thể hiện rõ nét trong việc luật có những quy định
tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp, hợp tác xã khắc phục khó khăn về tài chính,
thốt khỏi tình trạng phá sản để trở lại hoạt động kinh doanh thông thường.
Đối với hiện tượng phá sản, chúng ta cần cảm thông với doanh nghiệp, hợp tác
xã mắc nợ khi nhìn nhận rằng phá sản là hiện tượng tất yếu và khách quan của nền
kinh tế thị trường, đồng thời, bản thân doanh nghiệp cũng phải chịu rất nhiều ảnh
hưởng từ phá sản. Luật phá sản 2004 bảo vệ lợi ích của những con nợ này bằng
cách quy định cho họ những quyền và ràng buộc họ bằng những nghĩa vụ nhất định
bởi họ cần phải chịu trách nhiệm đối với các khoản vay trước chủ nợ của mình.
16


Ngoài quy định chủ doanh nghiệp, người đại diện hợp pháp phải chủ động nộp đơn
khi thấy doanh nghiệp, hợp tác xã mình lâm vào tình trạng phá sản, Luật phá sản
2004 còn quy định cho doanh nghiệp, hợp tác xã những quyền và nghĩa vụ như
nghĩa vụ xuất trình cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu theo yêu cầu (Điều 23); quyền
được tiếp tục hoạt động, sản xuất kinh doanh sau khi co quyết định mở thủ tục phá
sản dưới sự giám sát của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản (Điều 30); xây
dựng phương án phục hồi kinh doanh (Điều 68); quyền khiếu nại… Thơng qua
những quy định về quyền và nghĩa vụ đó, pháp luật phá sản đã thể hiện vai trị của
mình trong việc bảo vệ lợi ích chủ nợ và đảm bảo bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính
đáng của con nợ.
Mục đích chính thúc đẩy doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ tham gia thủ tục giải
quyết phá sản theo pháp luật phá sản là được tiến hành trả nợ một cách có trật tự,
hợp pháp dưới sự bảo vệ của pháp luật phá sản và có cơ hội mới để gây dựng lại
hoạt động kinh doanh. Với những gì chủ thể này hướng đến và với những gì được
quy định cụ thể trong văn bản, pháp luật phá sản hiện hành đang thể hiện rằng mình

là cơng cụ phù hợp nhất để giúp doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản có được những lợi ích nhất định. Thêm vào đó, chú trọng quyền lợi của doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ cũng là một yếu tố thể hiện rõ vai trò của luật phá sản
hiện đại trong việc cơ cấu lại nền kinh tế quốc gia, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh
và rèn luyện khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường của các chủ thể kinh
doanh trong nước.
Như vậy, một cơ chế giải quyết phá sản vận hành tốt là điều rất cần thiết đối
với nền kinh tế thị trường. Để được xem là vận hành tốt, cơ chế đó trước hết phải
giải quyết được mâu thuẫn quyền lợi giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc
nợ, tức là điều hòa lợi ích hai chủ thể này. Trong q trình giải quyết phá sản, điều
hịa lợi ích có vai trị lớn nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng cho các bên, đồng thời
hạn chế hậu quả của phá sản đối với xã hội.
1.2.
Khái qt về điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp
tác xã mắc nợ trong thủ tục giải quyết phá sản
1.2.1. Khái niệm điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã
mắc nợ
Các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào một quan hệ pháp luật đều nhằm thỏa
mãn những nhu cầu về vật chất, chính trị, văn hóa, tinh thần. Các nhu cầu này là hết
sức đa dạng và phức tạp. Nhu cầu và lợi ích là hai phạm trù có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó nhu cầu là đòi hỏi mà cá nhân thấy cần được thỏa mãn
17


trong những điều kiện nhất định để có thể tồn tại và phát triển, cịn lợi ích có thể
hiểu một cách nơm na là những điều gì tốt cho các chủ thể trong xã hội. Lợi ích vật
chất, tinh thần và những lợi ích xã hội khác là điều làm thỏa mãn nhu cầu, đòi hỏi
của các tổ chức hoặc cá nhân, vì lợi ích mà các chủ thể này tham gia vào quan hệ
pháp luật, nghĩa là vì chúng mà họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình17. Lợi
ích là cái thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật. Lợi ích có

nhiều loại, rất đa dạng và phong phú. Tùy vào lợi ích bị xâm phạm cũng như lợi ích
đang hướng tới mà các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật khác nhau với
những quy phạm pháp luật điều chỉnh khác nhau, từ đó bảo vệ quyền lợi của chính
mình.
Trong bất kỳ một quan hệ pháp luật nào, pháp luật khơng thể tập trung bảo vệ
lợi ích của chủ thể này và tước đoạt lợi ích của chủ thể kia, pháp luật phải có những
quy định sao cho lợi ích của các bên đều được bảo đảm một cách tương đối. Điều
hịa lợi ích sẽ là động lực thúc đẩy các bên tham gia quan hệ pháp luật một cách
nghiêm chỉnh. Pháp luật phá sản với tư cách là phương thức giải quyết vỡ nợ một
cách tối ưu trong nền kinh tế thị trường cũng cần phải lấy điều hịa lợi ích giữa chủ
nợ và con nợ làm mục tiêu xây dựng và áp dụng pháp luật.
Điều hòa lợi ích trong pháp luật phá sản là cách đối xử cơng bằng, bình
đẳng đối với chủ nợ, con nợ và xã hội. Tất nhiên cơng bằng, bình đẳng ở đây
khơng có nghĩa là cân bằng tuyệt đối, khơng phải là đồng đều mà là quy định quyền
và nghĩa vụ phù hợp với địa vị pháp lý của từng chủ thể. Luật phá sản Việt Nam
không đặt chủ nợ hay con nợ vào vị trí q có lợi hoặc q thiệt thòi trong cùng một
vấn đề, ngược lại, pháp luật phá sản có sự điều chỉnh sao cho lợi ích của các bên
đều được đảm bảo, tùy từng vấn đề mà mức độ lợi ích được đảm bảo là khác nhau.
Pháp luật nói chung điều hịa lợi ích giữa các chủ thể bằng cách quy định hợp lý
quyền và nghĩa vụ cho họ, trong đó quy định quyền để họ chủ động bảo vệ lợi ích
của mình và quy định nghĩa vụ của các chủ thể để lợi ích của chủ thể này được bảo
đảm thực hiện thông qua việc thực hiện nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Luật
phá sản cũng có cách làm tương tự như vậy. Điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
trong Luật phá sản được đảm bảo thực hiện bằng việc các nhà lập pháp xây dựng
các điều luật theo hướng (i) một mặt quy định quyền phù hợp với địa vị pháp lý của
chủ nợ và con nợ để họ chủ động bảo vệ lợi ích của mình, mặt khác, (ii) lợi ích của
chủ nợ sẽ được bảo đảm bằng các quy định về nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ của

17


Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, tr 435.

18


con nợ và ngược lại. Khi con nợ hoặc chủ nợ hồn thành nghĩa vụ của mình cũng là
khi lợi ích của bên có quyền được đảm bảo.
(i)

Trong quan hệ pháp luật, lợi ích hợp pháp là những điều có lợi đối

với các chủ thể mà pháp luật cho phép họ được hưởng. Trước hết, để các bên thỏa
mãn lợi ích, pháp luật quy định cho họ những quyền nhất định, mà khi chủ động
thực hiện những quyền này, các chủ thể sẽ đạt được phần nào lợi ích mình mong
muốn. Quyền chủ thể cho phép các chủ thể, về mặt pháp lý, tự hoạt động, lựa chọn,
sử dụng để thỏa mãn lợi ích về vật chất, tinh thần khi tham gia vào các quan hệ xã
hội. Các chủ thể muốn có lợi ích thì phải chủ động thực hiện quyền đã được pháp
luật quy định18.
(ii)
Quyền và nghĩa vụ là hai mặt không thể tách rời. Công dân muốn
được hưởng quyền thì phải gánh vác nghĩa vụ, gánh vác và thực hiện nghĩa vụ là
điều kiện đảm bảo cho các quyền của công dân được thực hiện. Trong xã hội chúng
ta khơng thể có một số người nào đó chỉ có quyền mà khơng gánh vác nghĩa vụ và
ngược lại19. Quyền lợi và nghĩa vụ luôn phải đi đôi với nhau, trong đó, quyền của
chủ thể này sẽ được bảo đảm bằng việc chủ thể kia thực hiện nghĩa vụ, và ngược lại,
quyền của chủ thể kia sẽ được bảo vệ thông qua việc chủ thể này thực hiện nghĩa vụ
của mình.
Về địa vị pháp lý, khơng phải vì con nợ là chủ thể có nhiều nghĩa vụ hơn mà lợi
ích của họ khơng được quan tâm đến, ngược lại, khơng phải vì chủ nợ là bên chịu
thiệt thịi mà quy định cho họ những quyền lợi quá mức. Phá sản là hiện tượng

khách quan của nền kinh tế thị trường, phá sản do nhiều nguyên nhân gây ra và bởi
vậy, phá sản cần phải được nhìn nhận và đối xử một cách “khoan dung” hơn. Đối
với hậu quả của phá sản, con nợ đúng là kẻ có lỗi khi đưa chủ nợ vào tình trạng có
nguy cơ mất trắng khoản vốn của mình, tuy nhiên, để cho chủ thể này có được
những lợi ích nhất định là điều cần thiết, nó có ý nghĩa với chính họ, với chính chủ
nợ và với toàn xã hội. Mặt khác, dù chủ nợ với tư cách là người đi đòi nợ sẽ là bên
có ưu thế hơn về các quyền luật định, con nợ với tư cách là người phải trả nợ sẽ là
bên có nhiều nghĩa vụ pháp lý hơn, nhưng điều đó là khơng tuyệt đối. Bên cạnh việc
quy định quyền cho các chủ thể, pháp luật đồng thời đòi hỏi họ phải thực hiện
những nghĩa vụ tương ứng để bảo vệ lợi ích của những chủ thể khác có liên quan.
Như vậy, Luật phá sản vừa bảo vệ lợi ích chủ nợ, vừa phải bảo vệ lợi ích của
con nợ, và tùy từng vấn đề cụ thể mà pháp luật có sự điều chỉnh lợi ích sao cho phù
18
19

Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, tlđd, tr 454.
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, NXB Tư pháp, tr 256.

19


hợp. Điều hịa lợi ích khơng có nghĩa là tước đoạt một phần lợi ích của bên này để
chuyển sang cho bên kia, điều hịa lợi ích là giúp các bên đều có lợi, là chia sẻ lợi
ích và rủi ro cho nhau. Luật phá sản Việt Nam phải thực hiện điều hịa lợi ích để các
bên khi tham gia thủ tục giải quyết phá sản đều nhận thấy lợi ích của mình được bảo
vệ, đó mới chính là thành cơng của đạo luật này.
1.2.2. Những địi hỏi khách quan phải điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và
doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ bằng pháp luật phá sản
1.2.2.1. Q trình phát triển quan điểm điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và
doanh nghiệp mắc nợ

Hiện tượng phá sản hay còn gọi là vỡ nợ đã xuất hiện từ rất lâu đời, ảnh hưởng
đến quyền lợi của nhiều chủ thể khác nhau. Với tư cách là đạo luật điều chỉnh q
trình thanh tốn nợ, luật phá sản có nhiệm vụ đầu tiên là điều hịa lợi ích các chủ
thể, đặc biệt là chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào mỗi thời
đại, mỗi điều kiện kinh tế - xã hội, mỗi quan niệm lập pháp mà mức độ và hiệu quả
điều hòa là khác nhau. Thời gian, thời đại và sự đi lên không ngừng của nền kinh tế
thị trường, thêm vào đó là sự lĩnh hội quan điểm giữa các thế hệ và giữa các quốc
gia với nhau đã quyết định đến việc hình thành, phát triển quan điểm cần thiết phải
điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ trong giải quyết phá sản.
Điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ thể hiện rõ nhất ở việc
nếu như trước đây mục đích của pháp luật phá sản chủ yếu là trừng phạt doanh
nghiệp mắc nợ và xử lý tài sản để thanh tốn nợ, chỉ có lợi ích của chủ nợ được bảo
đảm, thì ngày nay, luật phá sản quan tâm nhiều hơn đến việc tạo cơ hội và điều kiện
cho doanh nghiệp mắc nợ thoát khỏi nguy cơ phá sản và phục hồi hoạt động kinh
doanh, lợi ích của con nợ cũng được chú ý quan tâm hơn. Quan điểm điều hịa lợi
ích phát triển qua hai giai đoạn chính, đó là (i) thay thế những quy định chỉ nhằm
bảo vệ các chủ nợ và xem con nợ là loại tội đồ cần phải ngay tức khắc dìm xuống
tận cùng xã hội bằng những quy định về phân chia tài sản cho chủ nợ theo trật tự
nhất định và xóa nợ cho con nợ; (ii) từ xu hướng chỉ tập trung phân chia tài sản, luật
phá sản đã có những quy định nhằm tạo cơ hội và điều kiện tái cơ cấu tổ chức
doanh nghiệp.
(i)

Xóa bỏ các quy định trừng phạt nghiêm khắc con nợ; xây dựng các quy

định về phân chia tài sản và xóa nợ cho con nợ.
Trước đây, người ta nhìn nhận phá sản như một điều tồi tệ, xấu xa, đáng lên án
và đáng bị trừng phạt. Người bị phá sản bị xem là tội đồ của xã hội, họ phải chịu
20



×