Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Chế độ pháp lý về lãi suất trong hợp đồng tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.63 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--- --- --

ĐẶNG THỊ NGA

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ LÃI SUẤT TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM – 2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--- --- --

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ LÃI SUẤT
TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐẶNG THỊ NGA
Khóa: 32 MSSV 3240116
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: TRƢƠNG THỊ TUYẾT MINH

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật
- Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.
- Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
15/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999, được sử đổi bổ sung vào
ngày 19 tháng 6 năm 2009.
- Luật NHNN số 01/1997/QH10 và Luật NHNN số 10/2003/QH11 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN số 01/1997/QH10.
- Luật các TCTD số 02/1997/QH10 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều
Luật các TCTD số 20/2004/QH11.
- Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 được thông qua
ngày 16/06/2010, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc Hội XII.
- Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được thông qua ngày
16/06/2010, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc Hội XII.
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 được
thông qua vào ngày 3 tháng 6 năm 2008 tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa
XII và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- Luật Thương mại số 36/2005/QH11.
- Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 về chính sách tín
dụng phục vụ phát triển nơng nghiệp, nơng thơn.
- Thông tư số 01/2009/TT-NHNN ngày 23 tháng 1 năm 2009 hướng dẫn
về LS thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay phục vụ đời sống,
cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Thông tư 07/2010/TT-NHNN ngày 26 tháng 2 năm 2010 quy định về
cho vay bằng đồng việt nam theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng.
- Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 hướng dẫn tổ
chức tín dụng cho vay bằng đồng việt nam đối với khách hàng theo lãi
suất thỏa thuận.

- Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29 tháng 4 năm 2011 quy định về
việc chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng.
- Quyết định 39/1998/QĐ-NHNN ngày 17 tháng 1 năm 1998 quy định lãi
suất cho vay bằng đồng Việt nam của tổ chức tín dụng đối với tổ chức
kinh tế, dân cư và mức lãi suất bằng đôla Mỹ của tổ chức kinh tế.
- Quyết định số 189/1999/QĐ-NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ngày 29 tháng 5 năm 1999 quy định trần lãi suất cho vay bằng
đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng


- Quyết định số 383/1999/QĐ-NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ngày 22 tháng 10 năm 1999 về việc điều chỉnh trần lãi suất cho
vay bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng
- Quyết định 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 2 tháng 8 năm 2000 về việc
thay đổi cơ chế điều hành LS cho vay của TCTD với khách hàng.
- Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam ngày 29 tháng 5 năm 2001 về việc thay đổi cơ chế điều
hành lãi suất cho vay bằng Đơla Mỹ của các tổ chức tín dụng đối với
khách hàng.
- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với khách hàng.
- Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc
thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại
bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17 thánh 5 năm 2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về phương pháp tính và hạch
toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín
dụng.
- Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

ngày 03/02/2005 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế cho
vay theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN.
- Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
ngày 16 tháng 5 năm 2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng
đồng Việt nam.
Luận văn, Sách tham khảo.
1. Phan Thi Cúc-Đoàn Văn Huy-Trần Duy Vũ Ngọc Lan (2008), Hệ thống
thông tin tài chính Ngân hàng, NXB Đại học Quốc gia, TPHCM.
2. Lê Vinh Danh (2006), Tiền và hoạt động Ngân hàng, NXB Tài Chính, Hà
Nội
3. Nguyễn Đăng Dờn(2008), Giáo trình lý thuyết Tài chính tiền tệ, NXB
Thống Kê, TPHCM.
4. Nguyễn Đăng Dờn (2009), Tiền tệ ngân hàng, NXB Đại học quốc gia
TPHCM,TPHCM.
5. Phạm Thị Lệ Hà (2010), Luận văn cử nhân ”Quy định của pháp luật về lãi
suất trong hoạt động tín dụng”, Trường ĐH Luật TPHCM.
6. La Hồng (2006), Luận văn thạc sỹ “Giải quyết tranh chấp về lãi suất cho
vay trong hợp đồng tín dụng của các tố chức tín dụng tại tòa án”.


7. Nguyễn Thị Bích Hồng (2010), Luận văn cử nhân “Thực trạng giải quyết
tranh chấp về hợp đồng tín dụng tại tịa án”, Trường ĐH Luật TPHCM
8. Hồng Kim (1998), Tiền tệ và Ngân hàng, NXB Chính trị quốc gia, Hà
nội.
9. Ngơ Quốc Kỳ (2005), Hồn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng
thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà
Nội.
10. Nguyễn Văn Ngọc (2009), Lý thuyết chung về thị trường tài chính, ngân
hàng và chính sách tiều tệ, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
11. Phạm Lê Ninh (2010), Luận văn cử nhân “Tranh chấp về lãi suất trong

hợp đồng tín dụng. Thực trạng và giải pháp”, Đại học Luật TPHCM.
12. Lương Thị Hoài Phương, Luận văn thạc sỹ “Vai trò của pháp luật trong
việc giải quyết nợ quá hạn tại các NHTM của Việt nam”, Đại học Luật
TPHCM.
13. Trần Đình Ty – Nguyễn Văn Cường (2008), Quản lý nhà nước đối với
tiền tệ, tín dụng một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc
gia, TPHCM.
14. Trường Đại học Luật Hà nội (2006), Giáo trình luật dân sự Việt nam,
NXB Công an nhân dân, Hà nội.
15. Trường Đại học Luật Hà Nội (1996), Giáo trình Luật kinh tế, NXB Giáo
dục, Hà nội.
16. Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Luật Ngân
hàng, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
17. Viện Đại học Mở Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Tài chính và Luật Ngân
hàng, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội.
18. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa
và NXB Tư pháp, Hà nội.
19. J.M. Keynes (1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ,
NXB Giáo dục
Tạp chí
1. Vũ Đình Ánh (2011),“ Biến động lãi suất và tín dụng ngân hàng năm
2010”, Tạp chí ngân hàng, (02-03).
2. Trần Trí Dũng (2010), “Nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất ở việt nam”,
Tạp chí cộng sản điện tử, (09/(201)).
3. Nguyễn Xuân Hưng (2009), “ Lạm bàn về lãi suất trong cơ chế thị trường
của Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng”, (07).
4. Khánh Hưng (2010), “ Chính sách duy trì lãi suất thấp của ngân hàng
trung ương Nhật Bản”, Tạp chí ngân hàng, (20).



5. Đỗ Thế Mãi (2009),“Bàn về quy định lãi suất trong các hợp đồng tín
dụng“,Tạp chí ngân hàng , (05) .
6. Châu Đình Phương (2009), “Suy nghĩ về cơ chế điều hành lãi suất hiện
nay”, Tạp chí ngân hàng, (06).
7. Dương Hồng Phương (2010),” Triển khai các giải pháp điều hành lãi suất
thỏa thuận phù hợp với cơ chế thị trường”, Tạp chí ngân hàng, (07).
8. Sơn Hà (2010), “Lý do Trung Quốc tăng lãi suất cơ bản”, Tạp chí ngân
hàng, (22).
9. Kiều Hữu Thiện – Xuân Đảng (2011), “Điều hành lãi suất của ngân hàng
nhà nước thực trạng năm 2010 và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí ngân
hàng, (04).
Tài liệu từ internet
- diendannganhang.com
- luatvietnam.vn
- vneconomy.vn
- voer.edu.vn
- vietnamese.vietnam.usembassy.gov
- www.sbv.gov.vn
- www.vietabank.com.vn
- www.vnba.org.vn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
HĐTD
LS
NHNN
TCTD
TPHCM

VND

Bộ luật dân sự
Hợp đồng tín dụng
Lãi suất
Ngân hàng Nhà nƣớc
Tổ chức tín dụng
Thành phố Hồ Chí Minh
Tiền đồng Việt Nam


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan danh dự về công trình nghiên cứu khoa học này của
mình. Đây là kết quả nỗ lực của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn tận tình của cơ
Trương Thị Tuyết Minh.

Tác giả khóa luận
Đặng Thị Nga


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tế cho thấy LS trong HĐTD là một vấn đề dành được sự quan tâm rất
lớn của người đi vay và cả các TCTD. Với mỗi TCTD thì cho vay là hoạt động
kinh doanh rất quan trọng để tạo ra lợi nhuận và duy trì sự tồn tại của TCTD
đó. Trong khi lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay chính là thơng qua LS
cho vay. Có lẽ, việc đặt ra ra mức LS cho vay như thế nào để vừa phù hợp với
chính sách quản lý của Nhà nước, vừa thu hút được khách hàng vay lại vừa có
lợi nhuận là một bài toán đố rất phức tạp mà mỗi TCTD phải giải quyết để tìm
ra đáp số hợp lý nhất. Theo đó, các TCTD phải cập nhật kịp thời chính sách

quản lý của Nhà nước, các quy định pháp luật được ban hành về LS để từ đó
đưa ra những quy chế hợp pháp và hợp lý riêng cho mình. Cịn về phía người đi
vay, LS cũng tác động khơng nhỏ đến lợi ích của họ. Người đi vay tìm đến
TCTD để vay vốn có thể đơn thuần chỉ là phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nhưng
cũng có thể là để đầu tư sản xuất, kinh doanh... Dù với mục đích nào đi chăng
nữa, nếu mức LS cho vay quá cao thì khoản lợi mà họ thu được từ việc sử dụng
vốn vay (sau khi trừ đi cả khoản lãi mà họ phải trả cho các TCTD) sẽ khơng
cịn được bao nhiêu, thậm chí là khả năng chi trả cũng sẽ trở nên khó khăn hơn.
Câu hỏi đặt ra cho người đi vay là LS cao mà các TCTD đặt ra như vậy có nằm
trong hành lang pháp lý mà Nhà nước thiết lập hay không bởi lẽ chính sách LS
là chính sách mà bất cứ Nhà nước nào cũng sử dụng triệt để khi quản lý nền
kinh tế của mình. Do đó, quan tâm đến quy định LS của Nhà nước cũng là một
cách để người đi vay tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong mối
quan hệ mà danh nghĩa là cơng bằng nhưng thật sự thì khơng theo đúng nghĩa
của từ cơng bằng. Tóm lại, cả người đi vay và người cho vay cần phải hiểu rõ
quy định pháp luật về LS để bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của mình một cách
tốt nhất.
Mặc khác, không giống với quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực hình sự hay hành chính, quy định pháp luật về LS luôn thay
đổi để phù hợp với những diễn biến phức tạp và khó lường của nền kinh tế, của
thị trường tiền tệ. Quy định về LS của NHNN Việt Nam trong thời gian gần
đây là một minh chứng rõ nét. Thật vậy, nếu như trước ngày 19/05/2008,
NHNN thực hiện cơ chế LS thỏa thuận thì sau ngày này NHNN quy định cho
các TCTD ấn định LS kinh doanh bằng đồng Việt nam đối với khách hàng
nhưng không được vượt quá 150% LS cơ bản do NHNN công bố theo từng
thời kỳ. Nhưng đến ngày 26/02/2010, NHNN lại ban hành Thông tư số
12/2010/TT-NHNN quy định về việc cho vay bằng đồng Việt Nam theo LS
thỏa thuận của TCTD đối với khách hàng. Có thể thấy, chỉ trong một khoảng



thời gian ngắn nhưng quy định pháp luật về LS đã được điều chỉnh nhiều lần để
kịp thời kiểm soát nền kinh tế. Phải chăng chế độ pháp lý về LS có tính ổn định
kém là xuất phát từ bản chất của nhân tố mang tên gọi LS?
Xuất phát từ tầm quan trọng của yếu tố LS trong HĐTD đối với thực tiễn và
nét độc đáo của quy định pháp luật về LS mà tác giả đã chọn đề tài này để
nghiên cứu. Qua bài viết này, tác giả mong muốn mang đến một cái nhìn tồn
diện về bản chất của LS trong HĐTD và từ bản chất đó lý giải tính độc đáo của
chế độ pháp lý về LS trong HĐTD. Với hiểu biết hạn hẹp của mình, tác giả đã
phân tích khái quát một số khía cạnh cơ bản của chế độ pháp lý về LS trong
HĐTD, mong muốn đem lại những hiểu biết căn bản nhất về mảng chế độ pháp
lý này. Tuy nhiên, đây là một nội dung nghiên cứu liên quan đến rất nhiều
phương diện của thị trường như tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ rủi ro… cũng như các
định hướng, đường lối phát triển, vận hành nền kinh tế của một Nhà nước. Vì
vậy, phải có một hiểu biết sâu rộng và tồn diện về thị trường, về chiến lược
phát triển…thì mới có thể làm rõ được tính phức tạp và nét độc đáo của nội
dung này. Trong bài viết của mình, tác giả đã chưa thể làm được yêu cầu này
(việc phân tích, nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ phát hiện ra tính phức tạp,
nét độc đáo cịn việc luận giải, đánh giá chúng một cách sâu sắc thì tác giả chưa
thể hiện được).
2. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Chúng ta phải thừa nhận rằng, Nhà nước nào cũng sử dụng một công cụ hết
sức hữu hiệu là pháp luật để quản lý đất nước. Thế nhưng, pháp luật ban hành
sẽ không thể thực thi được nếu nó chỉ theo ý chí chủ quan của người làm luật.
Điều quan trọng để pháp luật phát huy hiệu quả chính là sự phù hợp với quan
hệ xã hội phát sinh trong thực tế cuộc sống, nghĩa là quy định pháp luật phải
lấy bản chất quan hệ xã hội làm nền tảng. Pháp luật về LS cũng không nằm
ngồi quy luật đó. Vì vậy, qua bài viết này, tác giả muốn lý giải về nền tảng
hình thành và tính độc đáo của chế độ pháp lý về LS trong HĐTD để đem lại
những hiểu biết sâu sắc khi nghiên cứu, đánh giá về pháp luật ngân hàng nói
chung và pháp luật về LS nói riêng. Bên cạnh đó, qua một số phát hiện và kiến

nghị về những mặt còn tồn tại của chế độ pháp lý này, tác giả mong muốn khóa
luận của mình có thể được tham khảo trong q trình hồn thiện mảng pháp
luật về LS trong HĐTD.
Hơn nữa, với phần phân tích, tổng hợp chế độ pháp lý về LS ở nước ta
trong các giai đoạn trước đây và hiện nay, tác giả mong rằng sẽ phần nào cung
cấp những hiểu biết cơ bản cho những ai quan tâm và muốn hiểu rõ hơn về
pháp luật LS trong hoạt động cho vay giữa các TCTD và khách hàng. Đây cũng
là những nội dung cần thiết để các bên trong HĐTD tham khảo khi họ muốn sử


dụng pháp luật như một phương pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của chính mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn đề tài chế độ pháp lý về LS trong HĐTD để tìm hiểu, tác giả xác
định mục đích nghiên cứu trong khóa luận của mình là :
- Phân tích và làm rõ bản chất, các phương diện của LS nói chung và LS
trong HĐTD nói riêng. Đặc biệt là giải quyết bài toán về mối quan hệ giữa LS
cho vay trong các HĐTD với các nhân tố thị trường hay với các loại LS khác.
- Luận giải vai trò quan trọng của LS trong HĐTD với nền kinh tế vĩ mô,
với đời sống dân cư và với các quan hệ phát sinh từ chính HĐTD.
- Chứng minh sự tồn tại song song của “bàn tay hữu hình” bên cạnh “bàn
tay vơ hình” đối với LS hay với lĩnh vực tiền tệ ngân hàng và cả với nền kinh tế
là rất cần thiết.
- Hệ thống lại quá trình điều hành LS của NHNN Việt nam từ trước đổi
mới đến nay để có một cái nhìn tồn diện hơn về cơ chế điều hành LS ở nước
ta qua các giai đoạn phát triển.
- Tham khảo cơ chế điều hành LS ở một số nước trên thế giới để tiếp thu
học hỏi những ý tưởng hay của các nước bạn, từ đó định hướng cho cơ chế điều
hành ở nước ta, vừa hợp thông lệ quốc tế vừa phù hợp với hồn cảnh thực tế
của đất nước.

- Phân tích, so sánh các quy định pháp luật về LS cho vay trong HĐTD
hiện hành nhằm mang lại một kiến thức nền tảng về pháp luật LS cho vay trong
HĐTD.
- Dùng thực tiễn để xem xét những mặt được cũng như những mặt còn tồn
tại của chế độ pháp lý về LS trong HĐTD hiện nay và từ đó đề xuất một số giải
pháp khắc phục cần thiết.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là chế độ pháp lý hay nói rõ hơn là
quy định pháp luật về LS trong HĐTD. Nghĩa là, khóa luận tập trung làm rõ
các khía cạnh xoay quanh quy định pháp luật về LS trong HĐTD để có thể hiểu
rõ hơn quan điểm cũng như định hướng mà các nhà làm luật đưa ra khi điều
chỉnh nhóm quan hệ xã hội đặc thù này.
Trong phạm vi của một khóa luận cử nhân, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
những vấn đề trọng tâm nhất của mảng pháp lý về LS trong HĐTD như nền
tảng hình thành của chế độ pháp lý về LS - bản chất của LS trong HĐTD; nội
dung của chế độ pháp lý cũng như phát hiện những bất cập còn tồn tại trong
thực tế của nó. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị riêng của
mình để góp phần hồn thiện chế độ pháp lý hết sức đặc biệt này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu


Phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu được xác định dựa trên nền
tảng tư tưởng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mac-LeNin. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu
với thực tiễn… để làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra trong khóa luận.

6. Tình hình nghiên cứu
Chế độ pháp lý về LS trong HĐTD thật sự không phải là một nội dung
nghiên cứu mới. Trong phạm vi tra cứu của mình, tác giả nhận thấy gần đây

cũng có một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến vấn đề này.
Chẳng hạn, Luận văn thạc sĩ năm 2006 của tác giả La Hồng“Giải quyết tranh
chấp về lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng của các Tổ chức tín dụng tại
Tòa án” tại trường ĐH Luật TPHCM. Với đề tài này, tác giả La Hồng tập trung
phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp LS cho vay trong các HĐTD, nguyên
nhân dẫn đến tranh chấp, cơ chế giải quyết tranh chấp, bất cập của việc giải
quyết tại Tòa án và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị của riêng tác giả. Tác giả
cũng có xem xét quy định pháp luật về LS cho vay nhưng chỉ tập trung vào
những điểm hạn chế, sự không thống nhất của pháp luật về LS cho vay để kết
luận quy định pháp luật cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh
chấp về LS cho vay trong các HĐTD thực tế và dẫn đến việc giải quyết tranh
chấp không nhất quán tại các Tịa án. Cơng trình nghiên cứu thứ hai tại trường
ĐH Luật TPHCM là Luận văn Thạc sĩ năm 2009 của tác giả Lương Thị Hoài
Phương với đề tài “Vai trò của pháp luật trong việc giải quyết nợ quá hạn tại
Ngân hàng thương mại của Việt Nam”. Trong bài viết này, tác giả đã tập trung
giải quyết vấn đề nợ quá hạn, LS đối với khoản nợ quá hạn cũng như đưa ra
một số tranh chấp tiêu biểu về vấn đề nợ quá hạn. Như vậy, vấn đề chế độ pháp
lý về LS cũng được tác giả đề cập đến nhưng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu LS
quá hạn - một khía cạnh của chế độ pháp lý về LS trong HĐTD. Trong năm
2009 cịn có hai khóa luận tốt nghiệp có đề cập đến chế độ pháp lý về LS trong
HĐTD. Một là, khóa luận của tác giả Nguyễn Ban Mai tại trường ĐH Luật Hà
Nội với nội dung “Pháp luật điều chỉnh lãi suất trong hoạt động ngân hàng”.
Hai là, khóa luận “ Quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động tín dụng”
của tác giả Phạm Thị Lệ Hà tại ĐH Luật TPHCM. Tuy vậy, hai cơng trình này
chỉ dừng lại ở mục đích bao quát các quy định pháp luật về LS trong hoạt động
ngân hàng hay trong hoạt động tín dụng, nghĩa là các tác giả tiếp cận quy định
LS theo chiều rộng mà khơng tập trung phân tích cặn kẽ một loại LS cụ thể
nào.



Ngoài ra, trong năm 2010 tại trường ĐH Luật TP.HCM cũng có hai cơng
trình nghiên cứu có liên quan đến chế độ pháp lý về LS trong HĐTD. Đó là
luận văn cử nhân của tác giả Phạm Lê Ninh với đề tài “Tranh chấp về lãi suất
trong hợp đồng tín dụng. Thực trạng và giải pháp”. Trong bài viết này, vấn đề
trọng tâm mà tác giả nghiên cứu là tranh chấp LS trong HĐTD chứ khơng xem
xét tồn diện chế độ pháp lý. Mặc dù vậy, vấn đề chế độ pháp lý về LS trong
HĐTD cũng được tác giả đề cập đến ở phương diện tìm kiếm sự khơng thống
nhất, sự thay đổi quá nhanh của quy định pháp luật về LS để chứng minh hạn
chế của quy định pháp luật cũng là một nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và dẫn
đến những bất cập khi giải quyết tranh chấp như tác giả La Hồng đã nghiên cứu
trước đó. Một cơng trình nữa trong năm 2010 là Luận văn cử nhân của tác giả
Nguyễn Thị Bích Hồng “Thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
về lãi suất tại Tòa án”. Một lần nữa, tác giả này cũng chỉ xác định trọng tâm
nghiên cứu là thực trạng của tranh chấp mà khơng đưa lại một cái nhìn tổng
qt về chế độ pháp lý về LS trong HĐTD.
Mặc khác, chế độ pháp lý về LS trong HĐTD cũng được đề cập đến trong
nhiều bài báo, tạp chí như bài viết “Điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà
nước năm 2010 thực trạng và những vấn đề đặt ra” của hai tác giả Kiều Hữu
Thiện - Xuân Đảng đăng trên tạp chí Ngân hàng số 4 năm 2011; “Suy nghĩ về
cơ chế điều hành lãi suất hiện nay” của tác giả Châu Đình Phương, đăng trên
tạp chí Ngân hàng số 6 năm 2009; “Bàn về quy định lãi suất trong các HĐTD”
của tác giả Đỗ Thế Mãi, đăng trên tạp chí Ngân hàng số 5 năm 2009...Nhìn
chung, các bài viết này tiếp cận pháp luật LS cho vay theo phương diện kinh tế
nhiều hơn là pháp luật, xem xét các quy định pháp luật chủ yếu dưới góc nhìn
kinh tế hay sự phù hợp với thực trạng kinh tế. Hơn nữa, quy định pháp luật
được ghi nhận trong các bài viết này thường chỉ tập trung phân tích, luận giải
điểm hợp lý hay chưa hợp lý của một Quyết định, một Thơng tư... cụ thể chứ
khơng xem xét tồn diện chế độ pháp lý về LS trong HĐTD.
Nhìn chung, chế độ pháp lý về LS trong HĐTD là một nội dung đã được đề
cập khá nhiều trong các cơng trình nghiên cứu, các bài viết nhưng theo nhận

định chủ quan của tác giả thì các bài viết, các nghiên cứu trên chỉ tiếp cận ở
một phương diện nào đó của mảng pháp luật độc đáo này mà khơng khái qt
nó lên một cách đầy đủ, toàn diện nhất.
7. Kết cấu của khố luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, khóa luận được viết thành 2 chương. Trong
đó:
Chương 1 là phần lý luận chung về LS trong HĐTD, bao gồm khái niệm,
đặc điểm, vai trò, phân loại LS trong HĐTD và lý do phải điều chỉnh bằng
pháp luật với loại LS này.


Chương 2 là phần nội dung cùng một số vấn đề thực tiễn xoay quanh của
chế độ pháp lý về LS trong HĐTD và các kiến nghị hoàn thiện.

CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG
1.1 Khái niệm lãi suất trong hợp đồng tín dụng
1.1.1 Khái niệm hợp đồng tín dụng
HĐTD đựơc xem là cơ sở pháp lý rất quan trọng trong quan hệ cho vay
giữa các TCTD và khách hàng. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào văn bản
thỏa thuận cho vay giữa các TCTD và khách hàng cũng được các bên gọi tên là
HĐTD. Một đơn đề nghị vay vốn với đầy đủ các điều khoản như số tiền vay,
mục đích vay, thời hạn vay, LS vay, cam kết của bên vay...và đơn này được các
TCTD chấp nhận liệu có phải là HĐTD hay khơng (mặc dù tên gọi của nó chỉ
là đơn đề nghị vay vốn)? Tương tự như vậy, một khế ước nhận nợ cũng liệt kê
chi tiết các điều khoản của một hợp đồng vay vốn liệu có được xem là HĐTD?
Như vậy, một HĐTD được hiểu như thế nào? Phải chăng, hợp đồng đó phải
ln được đặt tên là HĐTD thì mới chính là HĐTD?
Xem xét các quy định của pháp luật Ngân hàng, ta sẽ khơng tìm thấy một
định nghĩa cụ thể về HĐTD. Tại Điều 17 Quyết định số 1627/2001/QĐNHNN1 chỉ quy định“Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay

phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về
điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi
suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản đảm bảo, phương
thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”. Nhìn chung,
trong pháp luật Ngân hàng khơng có một định nghĩa chính thức về HĐTD.
1

Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng được sửa đổi bổ sung bởi
Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3 tháng 2 năm 2005.


Nhưng về bản chất chúng ta thừa nhận HĐTD cũng là một loại hợp đồng dân
sự mà cụ thể hơn là giống với một hợp đồng vay tài sản. Do đó, hiểu rõ bản
chất của hợp đồng dân sự cũng như hợp đồng vay tài sản sẽ là nền tảng để có
một cách hiểu tồn diện về HĐTD.
Khái niệm hợp đồng dân sự đã được ghi nhận rõ tại Điều 388 BLDS năm
2005 như sau “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, cơ sở đầu tiên để
hình thành một hợp đồng dân sự chính là việc thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện
của các bên. Tự do, tự nguyện ở đây khơng mang nghĩa tuyệt đối là ai muốn
làm gì thì làm, mà quan trọng hơn hết là tự do của mỗi người phải đặt trong
giới hạn lợi ích của người khác và lợi ích chung của cả cộng đồng. Hợp đồng
dân sự theo nghĩa chủ quan là một quan hệ xã hội được hình thành từ sự thỏa
thuận của các bên để thỏa mãn nhu cầu trao đổi trong giao lưu dân sự2. Hơn
nữa, thỏa thuận trong hợp đồng không chỉ là thỏa thuận để chuyển giao tài sản
hay để thực hiện một cơng việc mà có thể là sự thỏa thuận để thay đổi, chấm
dứt một nghĩa vụ dân sự nào đó. Tóm lại, bản chất cốt lõi của một hợp đồng là
sự tự do thể hiện ý chí của các bên sao cho ý chí đó phải phù hợp với ý chí của
Nhà nước. HĐTD có nền tảng là một hợp đồng dân sự nên cách hiểu đơn giản

về HĐTD cũng là “một bản giao kèo” mà ta thường gặp trong cuộc sống.
Ngoài ra, hợp đồng rất đa dạng, được phân thành nhiều loại theo nhiều tiêu
chí khác nhau. Theo mục đích cụ thể của hợp đồng, có thể chia thành hợp đồng
vay tài sản, hợp đồng mua bán, hợp đồng tặng cho…HĐTD được thừa nhận là
“giống” với một hợp đồng vay tài sản. Vậy, giữa hai dạng hợp đồng này có
những điểm chung nào?
Trong BLDS năm 2005, tại Điều 471 đã quy định “Hợp đồng vay tài sản là
sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi
đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng
số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định”. Theo khái niệm này thì một hợp đồng vay tài sản có thể là hợp
đồng đơn vụ mà cũng có thể là hợp đồng song vụ, hợp đồng có đền bù hoặc
khơng có đền bù tùy thuộc vào việc bên vay có phải trả lãi hay khơng. Trong
loại hợp đồng này, nếu các bên khơng có thỏa thuận hoặc pháp luật khơng có
quy định gì thì hợp đồng vay đó sẽ là hợp đồng khơng có LS3. Như vậy, có thể
chia dạng hợp đồng cho vay tài sản thành hai nhánh, một nhánh có LS và một
nhánh khơng có. Khi đặt trong mối quan hệ với HĐTD thì HĐTD sẽ là “đại
2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (tập 2), NXB Công an nhân
dân, Hà Nội, tr 91.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (tập 2), NXB Công an nhân
dân, Hà Nội, tr 163.


diện tiêu biểu” cho nhánh có LS. Thật vậy, HĐTD là một hợp đồng song vụ, có
đền bù và ln tồn tại nhân tố LS. Có lẽ vì có “sự hiện diện thường trực” của
thỏa thuận LS mà một trong những đặc điểm khá đặc trưng của HĐTD là luôn
mang mục đích sinh lợi. LS chính là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành

nên một HĐTD, góp phần tạo nên nét đặc thù cho dạng hợp đồng này. Một đặc
điểm quan trọng nữa của hợp đồng vay là việc chuyển quyền sở hữu tài sản từ
bên cho vay sang bên vay khi bên vay nhận được tài sản4. Nghĩa là, sau khi
nhận được số tài sản chuyển từ bên cho vay, bên vay có tồn quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt số tài sản đó. Thời điểm chuyển quyền sở hữu trong hợp
đồng vay chính là thời điểm nhận tài sản. Hơn nữa, việc chuyển quyền này lại
có một thời hạn nhất định. Hay nói khác đi, một hợp đồng vay tài sản ln phải
có một kỳ hạn vay và bên vay phải hoàn trả lại tài sản cùng loại mà mình đã
vay khi đã hết kỳ hạn. Kỳ hạn vay có thể được các bên thỏa thuận trong hợp
đồng, nhưng nếu khơng thỏa thuận thì xác định kỳ hạn theo quy định của pháp
luật dân sự5. Xét về phương diện này thì HĐTD cũng tương đồng với hợp đồng
vay tài sản, chỉ khác một nét nhỏ là trong mọi HĐTD đều có một thời hạn vay
rất cụ thể. Thỏa thuận thời hạn cũng chính là một thỏa thuận trọng tâm của các
bên trong quan hệ tín dụng cho vay. Trên đây là hai đặc điểm mà cả HĐTD và
hợp đồng cho vay đều có, mặc dù thật sự thì chúng khơng trùng khớp nhau
hồn tồn. Phải chăng, vì hai khía cạnh này mà người ta cho rằng HĐTD khá
giống với hợp đồng vay tài sản trong dân sự.
Mặc khác, nếu cho rằng HĐTD và hợp đồng vay giống nhau thì liệu có thể
đồng nhất chúng với nhau được hay không? Đồng nhất hai dạng hợp đồng trên
sẽ là không hợp lý. Bởi lẽ, với tư cách là một chứng cứ pháp lý quan trọng
trong quan hệ tín dụng vay vốn – một quan hệ pháp luật rất đặc thù nên HĐTD
cịn có những đặc điểm riêng mà ở một hợp đồng vay dân sự thơng thường
khơng có. Thật vậy, khi nhắc đến HĐTD, dấu hiệu quan trọng đầu tiên là chủ
thể trong quan hệ hợp đồng này: một bên chủ thể phải là TCTD còn bên kia là
tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn. TCTD chính là các doanh nghiệp
thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng và TCTD bao gồm
ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân
dân6. Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn cũng được pháp luật ghi nhận
rất cụ thể7 để giúp các TCTD có thể xem xét và quyết định cho một khách hàng
vay hay không. Trong các hợp đồng vay thông thường, chủ thể khơng bắt buộc

phải có một bên là TCTD tham gia và điều kiện của các chủ thể cũng không
4

Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 472.
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 477.
6
Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/ QH12, Điều 4, Khoản 1.
7
Quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế cho vay
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, Điều 7.
5


được pháp luật quy định chặt chẽ như trong HĐTD. Ngoài dấu hiệu chủ thể,
một dấu hiệu khác cũng rất đặc thù của HĐTD là đối tượng của hợp đồng. Với
một hợp đồng vay tài sản thông thường, đối tượng vay chính là tài sản. Tài sản
vốn là một thuật ngữ có nội hàm rất rộng, bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
cả các quyền tài sản. Trong khi đó, đối tượng vay của HĐTD chỉ là một loại tài
sản cụ thể - vốn tiền tệ, chứ không bao quát tất cả các loại tài sản như trong hợp
đồng vay dân sự. Hơn nữa, nếu các bên trong hợp đồng là TCTD và khách
hàng, nhưng đối tượng của hợp đồng không là vốn tiền tệ mà là tài sản thơng
thường thì hợp đồng này cũng khơng phải là HĐTD, mà được gọi là hợp đồng
thuê mua tài chính. Như vậy, vốn tiền tệ chính là một yếu tố quan trọng để
phân biệt HĐTD với nhiều dạng hợp đồng khác. Thêm vào đó, với tầm quan
trọng trong việc giải quyết tranh chấp cũng như bảo đảm an toàn pháp lý cho
các bên tham gia quan hệ nên hình thức của HĐTD ln bằng văn bản, có thể
là văn bản viết mà cũng có thể là văn bản điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Quy định này cũng đồng nghĩa với việc pháp luật khơng thừa nhận hình thức
của HĐTD bằng lời nói hay bằng hành vi như một số hợp đồng trong lĩnh vực
dân sự thơng thường.

Tóm lại, dựa trên bản chất của hợp đồng dân sự cũng như xét mối quan hệ
với hợp đồng vay tài sản và bối cảnh hoạt động cho vay của các TCTD, ta có
thể có một khái niệm sơ lược về HĐTD như sau “Hợp đồng tín dụng là sự thỏa
thuận bằng văn bản giữa một bên là tổ chức tín dụng (bên cho vay) với một bên
là các tổ chức và cá nhân(bên đi vay) nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất
định của các bên trong quá trình vay tiền, sử dụng và thanh toán tiền vay” 8.
Khái niệm trên đã thể hiện được bản chất của một hợp đồng - sự thỏa thuận, sự
tự nguyện, sự bình đẳng trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên. Bên
cạnh đó, khái niệm cũng đã bao quát được những nét riêng biệt mà một HĐTD
ln có.
Cũng giống như bao hợp đồng dân sự, HĐTD được cấu thành từ rất nhiều
điều khoản, trong đó cũng có những điều khoản chủ yếu và cả những điều
khoản thông thường. Điều khoản LS bên cạnh điều khoản khác về điều kiện
vay vốn, đối tượng vay, thời hạn sử dụng tiền vay,…luôn được xem là một điều
khoản chủ yếu trong các HĐTD. Lý giải cho sự “thường trực” của điều khoản
LS trong các HĐTD có lẽ nên xuất phát từ nền tảng lợi nhuận trong kinh
doanh. TCTD cũng chỉ là các doanh nghiệp, nhưng kinh doanh trong lĩnh vực
rất đặc biệt là kinh doanh tiền tệ. Mà đã là doanh nghiệp kinh doanh thì mục
tiêu hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận. Người ta nói rằng sự sống cịn của
các TCTD phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng tạo ra giá trị thặng dư của đồng
8

Trường Đại học Luật TP HCM (2009), Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Đại học Quốc gia TPHCM,
tr 235.


tiền thông qua việc huy động vốn và ký kết các HĐTD. Nghĩa là, yếu tố LS đã
đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quan hệ cho vay giữa TCTD và
khách hàng vay nói riêng cũng như trong việc duy trì hoạt động của các TCTD
nói chung. Để hiểu rõ vai trò của điều khoản LS trong một HĐTD, thiết nghĩ

việc hiểu rõ bản chất của yếu tố LS cũng như LS trong các HĐTD là rất cần
thiết.
1.1.2 Khái niệm lãi suất
1.1.2.1 Lãi suất xét theo phƣơng diện kinh tế
Không phải đến ngày hôm nay LS mới được con người quan tâm mà đã từ
rất lâu trong lịch sử, LS đã trở thành một nhân tố rất quan trọng đối với nền
kinh tế của mỗi quốc gia và cả đời sống kinh tế của người dân. Lý giải cho sự
tồn tại của LS, có quan điểm cho rằng có hai lý do chính để LS tồn tại. Lý do
thứ nhất là vì có giá trị thời gian của tiền tệ nên có LS. Tâm lý con người ln
ưa thích có tiền ngay thời điểm hiện tại hơn là trong tương lai. Vì vậy, khi đem
tiền cho vay, họ phải được lợi ích gì hơn là tự cất giữ tiền và LS chính là điểm
lợi đó. Thứ hai, LS tồn tại là vì có sự hiện diện của chi phí cơ hội. Một người
có tiền nhàn rỗi sẽ cân nhắc khả năng sinh lợi khi họ đem tiền đầu tư, cho vay.
Nếu khơng có LS cho vay, khơng có thêm lợi ích thì an tồn hơn hết là họ tự
mình cất giữ tiền của mình. Vậy LS được hiểu như thế nào?
Có thể thấy, LS cũng là một nội dung được nhiều nhà kinh tế học quan tâm
nghiên cứu và tạo dựng thành những học thuyết rất độc đáo. Tiêu biểu là học
thuyết LS của John Maynard Keynes – nhà kinh tế học người Anh, người có
ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh tế học phương Tây hiện đại và chính sách kinh
tế của chính phủ nhiều nước. Keynes quan niệm rằng “lãi suất là khoản thù lao
cho việc mất khả năng chuyển hoán trong một thời gian nhất định, là phần
thưởng cho việc từ bỏ việc giữ tiền mặt”9. Theo đó, LS khơng phải là khoản lợi
tức cho việc tiết kiệm hay nhịn chi tiêu vì nếu một người tích trữ tiền mặt thì sẽ
khơng thu được món lãi nào dù vẫn tiết kiệm nhiều như trước đây. Cũng theo
nhà kinh tế học này, có hai nhân tố ảnh hưỏng đến LS là khối lượng tiền tệ đưa
vào lưu thơng và sự ưa thích tiền mặt. Với nhân tố thứ nhất – khối lượng tiền
tệ, Keynes khẳng định nếu khối lượng tiền tệ đưa vào lưu thông càng tăng thì
LS càng giảm và ngược lại, hay nói cách khác nếu cung tiền tăng mà cầu tiền
không thay đổi hoặc tăng theo không kịp tốc độ tăng của cung tiền thì LS thị
trường sẽ giảm. Với quan điểm này, thực chất Keynes đã phân tích thị trường

tiền tệ mà LS chính là giá cả. Cịn nhân tố thứ hai là sự ưa thích tiền mặt.
Keynes cho rằng của cải của mỗi người có thể tồn tại dưới nhiều dạng, nhưng
tiền là dạng tồn tại thuận lợi nhất, do vậy con người có xu hướng gắn liền với
9

J.M. Keynes (1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, NXB Giáo dục, tr212.


nó. LS chính là phần thưởng cho sự xa rời tiền mặt, là chi phí cơ hội cho việc
giữ tiền mặt. Keynes cịn nhìn nhận LS là một hiện tượng tâm lý cao độ, có tính
quy ước, nghĩa là nếu người ta tin rằng mức LS đó được kéo dài thì nó được
duy trì lâu10. Tóm lại, học thuyết LS của Keynes đã khắc họa rõ nét về bản chất
của LS, một loại giá cả đặc biệt cho việc mua quyền sử dụng tiền mặt trong
một khoản thời gian nhất định.
Bàn về LS, CacMac – “một nhân vật khổng lồ của lồi người”(Câu nói của
Ghenbơrâycơ) cũng đã ghi nhận trong bộ Tư bản là :“Sau một thời gian nhất
định, tư bản cho vay sẽ được hoàn trả lại cho người chủ sở hữu của nó kèm
theo một giá trị tăng thêm đó là lợi tức tín dụng” và LS tín dụng chính là tỷ lệ
phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được trong một thời gian với tổng số vốn bỏ
ra cho vay trong cùng thời gian đó.
Mashall cũng nói “Lãi suất là chỉ giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên
một thị trường bất kỳ”.
Tóm lại, xét dưới góc độ kinh tế, LS được hiểu là giá cả của tín dụng, giá
của quyền sử dụng vốn vay trong một khoản thời gian nhất định, giá phải trả để
được sử dụng khoản tiền không thuộc sở hữu của người sử dụng và là lợi tức
mà người cho vay có được khi trì hỗn việc chi tiêu của mình.
1.1.2.2 Khái niệm lãi suất xét dƣới góc độ pháp lý
Nếu như khái niệm LS mà các nhà kinh tế học đưa ra mang đậm bản chất
kinh tế, thương mại và khá trừu tượng thì dưới góc độ pháp luật, LS lại được
hiểu theo một phương diện khác, thực tế và đơn giản hơn.

Theo Từ điển luật học11 thì “lãi suất là tỷ lệ phần trăm tính trên vốn đầu tư
để xác định lãi của người đầu tư”. Trong khái niệm này, “lãi”và“lãi suất” mang
hai nội hàm hoàn toàn khác nhau. Lãi được hiểu là khoản tiền mà người vay
vốn phải trả thêm cho người cho vay ngoài số tiền đã vay. Như vậy, hiểu một
cách đơn giản thì LS là tỷ lệ phần trăm giữa lãi và số vốn ban đầu hay LS = (lãi
: vốn )*100%.
Tại Điều 2 của Quy định phương pháp tính và hoạch tốn thu, trả lãi của
Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng12 có giải thích “lãi là khoản tiền
mà bên vay, huy động vốn hoặc bên thuê trả cho bên cho vay, đầu tư chứng
khoán, gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc
tài sản cho th. Lãi được tính tốn căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn
10

Trường Đại học kinh tế quốc dân (2003), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Thống kê,
Hà Nội, tr 222.
11
Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp, Hà nội,
tr 452-453
12
Quy định phương pháp tính và hạch tốn thu, trả lãi của NHNN Việt Nam và các tổ chức tín dụng
ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17 thánh 5 năm 2001 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước.


và lãi suất”. Quy định trên lại khơng giải thích thuật ngữ lãi suất nhưng từ khái
niệm lãi có thể thấy rõ mối quan hệ mật thiết giữa hai yếu tố khác nhau là lãi
và lãi suất.
Trong pháp luật dân sự, LS trong hợp đồng vay tài sản được xác định là tỷ
lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tài sản hoặc số tiền đã vay tính
theo đơn vị thời gian (thường được tính theo tuần, tháng, năm) hoặc do các bên

thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định13.
Như vậy, LS xét dưới góc độ pháp lý không trừu tượng như các định nghĩa
của các nhà kinh tế học. Theo phương diện này, LS được hiểu là kết quả của
công thức cố định lãi chia cho vốn. Cách hiểu về LS này cũng là cách hiểu khá
phổ biến trong đời sống hàng ngày. Có lẽ vì sự thông dụng này mà trong nhiều
văn bản pháp luật mặc dù có đề cập đến thuật ngữ LS nhưng lại khơng đưa ra
định nghĩa cụ thể LS là gì. Rõ ràng là khi xem xét các quy định trong Bộ luật
dân sự 2005, luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Quy chế cho
vay…ta khơng thể tìm thấy một điều khoản nào định nghĩa về LS.
Tóm lại, xét ở hai phương diện kinh tế và pháp lý, khái niệm LS khơng
hồn tồn trùng khớp nhau nhưng đó chỉ là sự khác nhau về cách tiếp cận của
cùng một vấn đề. Nghĩa là, đặt dưới phương diện nào đi chăng nữa thì bản chất
của LS khơng hề có sự thay đổi. LS chỉ là một thuật ngữ chung, cịn thực chất
có rất nhiều loại LS như LS cho vay, LS huy động, LS chiết khấu, tái chiết
khấu, LS liên ngân hàng, LS tái cấp vốn, LS cơ bản…Tùy từng hoạt động, từng
lĩnh vực áp dụng mà sử dụng thuật ngữ LS nào cho phù hợp. Vậy LS trong
HĐTD là loại LS nào?
1.1.3 Khái niệm lãi suất trong hợp đồng tín dụng – lãi suất cho vay
Với những đặc trưng của một HĐTD mà tác giả đã đề cập ở phần 1.1.1, có
thể hiểu LS trong các HĐTD chính là LS cho vay. Nhưng, khi NHNN cho các
TCTD vay vốn thì LS lúc này cũng được gọi là LS cho vay. Vì vậy, LS cho vay
trong HĐTD phải được hiểu là loại LS cho vay giữa hai chủ thể đặc trưng
TCTD và khách hàng vay. Hay nói khác đi, LS cho vay trong HĐTD luôn được
hiểu trong mối quan hệ với yếu tố chủ thể của nó. Mà theo nghĩa rộng thì khách
hàng vay trong các HĐTD có thể là cá nhân, tổ chức vay vốn thông thường,
cũng có thể là các TCTD – những khách hàng vay vốn rất đặc biệt. Trong khóa
luận này, tác giả chỉ tập trung làm rõ loại LS cho vay giữa TCTD với nhóm
khách hàng thứ nhất và tên gọi LS cho vay sẽ được hiểu là LS cho vay giữa
TCTD và khách hàng vay thơng thường.
Trước tiên, xét dưới góc độ kinh tế thì LS cho vay được hiểu là một chỉnh

thể với hàng loạt yếu tố cấu thành. Cụ thể, LS cho vay được cấu thành từ chi
13

Trường Đại học Luật Hà nội (2006), Giáo trình luật dân sự Việt nam, NXB Công an nhân dân, Hà
nội, tr 163.


phí huy động vốn (a), chi phí hoạt động (b), chi phí dự phịng rủi ro (c), chi phí
thanh tốn(d) và chi phí vốn của chủ sở hữu (e). Như vậy, phương pháp xác
định LS cho vay là LS cho vay = a + b + c + d + e. Trong đó, chi phí huy động
vốn là lãi phải trả của tất cả các nguồn bao gồm tiền gửi tiết kiệm của dân cư,
tiền gửi không kỳ hạn của doanh nghiệp và cá nhân, tiền gửi có kỳ hạn, vốn
vay trên thị trường liên ngân hàng…; chi phí hoạt động bao gồm chi phí tiền
lương, văn phịng, đi lại, đào tạo...; chi phí dự phịng rủi ro được tính phù hợp
với mức độ rủi ro của ngành, phương án vay vốn;…14. Nghĩa là, để xác định
được mức LS cho vay, các TCTD phải tính tốn, tổng hợp tất cả các chi phí
trên một cách hợp lý. Một cơng thức tính LS cho vay cũng đã được áp dụng
khá phổ biến là R = Rcb + Rth + Rct, với R là LS cho vay, Rcb là LS cơ bản,
Rth là tỷ lệ điều chỉnh rủi ro thời hạn và Rct là tỷ lệ điều chỉnh cạnh tranh.
Dưới góc độ pháp luật, khái niệm LS cho vay cũng không được ghi nhận cụ
thể trong văn bản pháp luật nào, có lẽ vì cách hiểu thuật ngữ này cũng đã khá
thơng dụng trong thực tế. Cũng giống như LS nói chung, LS cho vay là tỷ lệ
phần trăm giữa lãi chia cho vốn. Tuy nhiên, LS cho vay được hiểu rõ hơn là
một khoản LS mà người vay vốn phải trả cho các TCTD theo mức LS đã thỏa
thuận giữa hai bên. Có thể thấy, thuật ngữ LS cho vay này ln gắn liền với
quan hệ cấp tín dụng cho vay giữa TCTD và khách hàng, người chịu mức LS
này là tổ chức, cá nhân vay vốn cịn người nhận chính là các TCTD.
Tóm lại, LS trong HĐTD đơn thuần cũng là một loại LS nhưng nó chỉ được
sử dụng trong mối quan hệ đặc thù - quan hệ cho vay giữa TCTD và khách
hàng mà không phải trong mọi quan hệ tín dụng. Câu hỏi đặt ra là tại sao loại

LS này chỉ được sử dụng trong quan hệ tín dụng cho vay mà không phải là tất
cả và phải chăng lý do là vì chính những đặc điểm rất riêng biệt của nó ?

14

Phan Thi Cúc-Đồn Văn Huy-Trần Duy Vũ Ngọc Lan (2008), Hệ thống thơng tin tài chính Ngân
hàng,NXB Đại học Quốc gia, TPHCM, tr 136.


1.2 Đặc điểm của lãi suất trong hợp đồng tín dụng
1.2.1 Lãi suất là loại “giá cả đặc biệt” so với giá cả của hàng hóa thơng
thƣờng
Cho vay vốn được ví như việc “bán chịu” một loại hàng hóa đặc biệt, đó là
tiền tệ và LS cho vay chính là giá cả của loại hàng hóa đó. So với giá cả của
hàng hóa thơng thường trên trên thị trường, LS cho vay là loại giá cả rất đặc
biệt. Tính đặc biệt của nó được minh chứng ở nhiều khía cạnh.
Thứ nhất, bản thân LS là giá cả của một loại hàng hóa mang rất nhiều nét
đặc thù - tiền tệ, loại hàng hóa rất khác so với hàng hóa thơng thường trên thi
trường. Thật ra, tiền tệ xét về cơ bản cũng là loại hàng hóa có giá trị và giá trị
sử dụng như mọi loại hàng hóa khác nhưng tiền tệ lại mang thêm những chức
năng quan trọng như chức năng đo lường giá trị, phương tiện lưu thông,
phương tiện cất trữ, phương tiện thanh tốn. Và chính những chức năng này đã
làm cho tiền tệ trở nên rất đặc biệt. Chức năng thước đo giá trị là chức năng cơ
bản nhất của tiền tệ, thông qua giá trị của mình để đo lường và biểu hiện giá trị
cho các hàng hóa khác, chuyển hóa giá trị hàng hóa thành giá cả hàng hóa15.
Chức năng tiếp theo của tiền tệ là chức năng của một phương tiện lưu thông phương tiện để tạo sự chuyển hóa của cơng thức H (hàng) -T (tiền) -H (hàng).
Thật vậy, C.Mác đã từng khẳng định:”Với tư cách là kẻ trung gian trong quá
trình lưu thơng hàng hóa, tiền giữ chức năng là phương tiện lưu thơng”16.
Ngồi ra, chức năng phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán của tiền tệ
cũng rất quan trọng. So với hàng hóa thơng thường, tiền tệ là hàng hóa mang cả

bản chất kinh tế và bản chất xã hội chứ không đơn thuần chỉ là bản chất kinh tế.
Hay nói khác đi, tiền tệ vốn là một phạm trù kinh tế phát sinh, tồn tại và phát
triển cùng với nền sản xuất, trao đổi hàng hóa; là sản phẩm tự phát, tất yếu của
nền kinh tế thị trường. Nhưng, tiền tệ khơng đơn thuần là loại hàng hóa vơ tri,
vơ giác mà cịn chứa đựng, biểu hiện trong nó nhiều mối quan hệ xã hội phức
tạp17. Như vậy, đặt trong tương quan với hàng hóa thơng thường, tiền tệ là một
loại hàng hóa rất độc đáo và kéo theo đó, giá cả của nó cũng khơng thể giống
với giá cả của mọi loại hàng hóa trên thị trường.
Thứ hai, giá cả của hàng hóa thơng thường do chính nhà sản xuất đưa ra
theo ý chí chủ quan của mình. Nhà sản xuất sau khi tính tốn tất cả các chi phí
sản xuất, chi phí vận chuyển và cả phần lời để quyết định giá cả hàng hóa cho
phù hợp. Giá cả cao hay thấp là tùy thuộc chiến lược kinh doanh của họ, miễn
là không bị phạm vào những trường hợp pháp luật canh tranh cấm, hạn chế.
15

Nguyễn Đăng Dờn (2009), Tiền tệ Ngân hàng, NXB Đại học Quốc gia, TPHCM, tr 13.
C.Mac (1962), Tư bản, Quyển 1, tập 1, NXB Sự Thật, Hà Nội, tr 270.
17
Nguyễn Đăng Dờn (2008), Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống Kê,TP Hồ Chí Minh, tr
81.
16


Nhà nước khơng đưa “bàn tay hữu hình” của mình để can thiệp quá sâu vào
quyền tự chủ kinh doanh của nhà sản xuất Có khi, cùng một loại hàng hóa
nhưng có rất nhiều nhà sản xuất và mỗi nhà sản xuất lại cân nhắc giá cả cho
hàng hóa của mình, khơng có một giới hạn tối đa hay tối thiểu nào cho giá cả
của họ. Nghĩa là, giá cả của hàng hóa thơng thường rất đa dạng. Cịn với LS
cho vay thì nó chính là giá cả của loại hàng hóa mà “nhà sản xuất” là Ngân
hàng Trung ương của các quốc gia, cụ thể ở nước ta là Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam18. Như vậy, NHNN Việt Nam là “nhà sản xuất” độc quyền về mặt
hàng tiền tệ ở nước ta. Theo đó, khơng có sự đa dạng như giá cả của các mặt
hàng khác trên thị trường, LS cho vay chỉ dao động trong một khoản nhất định,
thậm chí có lúc nó cịn là một mức giá duy nhất. Đơi khi, “người bán” loại
hàng hóa đặc biệt này cũng có quyền tự do đưa ra mức giá bán nhưng trong sự
tự do ít nhiều vẫn tồn tại “dấu ấn của bàn tay hữu hình”. Đặc biệt hơn, LS cho
vay là loại giá khơng bao hàm chi phí sản xuất như các loại giá cả của hàng hóa
khác. Loại giá cả này cịn có những tác động dây chuyền rất lớn đến nền kinh tế
và đến cả xã hội nên luôn chịu sự điều chỉnh của Nhà nước. Thật vậy, LS nói
chung và LS cho vay nói riêng luôn là một công cụ hữu hiệu mà Nhà nước nào
cũng cân nhắc sử dụng để điều tiết nền kinh tế đất nước phù hợp với những
mục tiêu và chiến lược đã đặt ra. Như vậy, điểm đặc biệt thứ hai của loại giá cả
- LS cho vay là luôn chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, không đơn thuần
là quản lý ở tầm vĩ mô như mọi loại giá cả khác.
Thứ ba, LS không chỉ đơn thuần là giá cả của một loại hàng mà nó cịn là
tiêu chí đánh giá sự ổn định của thị trường tiền tệ, của nền kinh tế. Thông qua
LS không phải chỉ để biết giá của tiền tệ là bao nhiêu và người mua có quyết
định mua hay khơng, mà thơng qua đó cịn phản ánh rõ mức độ ổn định của cả
một nền kinh tế hay tình hình phát triển của cả một đất nước và thậm chí là của
tồn thế giới.
Tóm lại, với tư cách là giá cả hàng hóa, nhưng LS cho vay lại là một loại
giá cả rất khác biệt. Có lẽ cũng chính sự khác biệt này của LS cho vay đã góp
phần tạo nên nét đặc biệt riêng cho chế độ pháp lý về LS cho vay.
1.2.2 Lãi suất trong hợp đồng tín dụng là kết quả của sự thỏa thuận có
giới hạn
Như tác giả đã ghi nhận ở phần 1.1.1, điều khoản LS là một điều khoản
không thể thiếu trong mọi HĐTD, mà bản chất của hợp đồng ln là sự thỏa
thuận. Vì vậy, LS trong HĐTD cũng chính là “sản phẩm” của sự thỏa thuận đó,
giữa các TCTD và khách hàng vay vốn.
18


Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12, Điều 2, khoản 3 quy định:”Ngân hàng Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động Ngân hàng, ngoại hối (sau đây gọi là
tiền tệ và ngân hàng) ; thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền,…”


LS trong HĐTD là kết tinh của sự thỏa thuận cũng có nghĩa là trong HĐTD
này, LS cho vay là a% nhưng trong HĐTD khác, LS cho vay lại là b%. LS là
a% hay là b% tùy thuộc vào sự thương lượng, “ngã giá” giữa các bên. Tuy vậy,
trong cuộc thương lượng này, ưu thế có vẻ nghiêng về phía người cho vay. Bởi
lẽ, người đi vay thường là những người đang thiếu hụt vốn, trong khi người cho
vay lại là người đang có sẵn vốn hay nói cách khác người cho vay là những
người “nắm đằng chuôi của con dao”. Trên thực tế, các TCTD là bên chủ động
đưa ra mức LS cho vay đối với từng khách hàng và khách hàng ít có cơ hội để
thỏa thuận lại mức LS đó, hoặc là đồng ý để được vay hoặc là không được vay.
Chỉ một vài trường hợp mà khách hàng vay là những khách hàng lớn, có uy tín
thì sự thỏa thuận về LS giữa các bên mới mang bản chất của thỏa thuận. Tuy
vậy, về lý thuyết của hợp đồng, LS cho vay luôn mang bản chất thỏa thuận.
Trong một hợp đồng bán hàng hóa thơng thường, các bên thỏa thuận giá cả
của hàng hóa là x thì nó sẽ là x, mà khơng có sự ràng buộc hay giới hạn nào.
Nhưng trong HĐTD, không phải các bên được quyền thỏa thuận với nhau bất
kỳ mức LS nào. Thỏa thuận LS giữa các bên phải nằm trong “hành lang pháp
lý ” mà Nhà nước đặt ra. Giới hạn này có thể là mức LS cho vay cố định. Song,
có thể là các bên được thỏa thuận mức LS nhưng mức này phải nằm trong
khoảng giữa của mức trần và mức sàn LS mà Nhà nước công bố hoặc khơng bị
khống chế mức sàn nhưng có trần LS cho vay. Cũng có giai đoạn, Nhà nước
cho các bên tự do thỏa thuận LS cho vay. Nhưng điều đó khơng có nghĩa là
thỏa thuận này khơng có giới hạn, mà kèm theo sự cho phép thỏa thuận luôn là
quy định về sự can thiệp cần thiết của Nhà nước trong những trường hợp nhất
định. Mặc khác, cũng có những HĐTD mà khách hàng vay là những đối tượng

được sự hưởng ưu đãi của Nhà nước thì mức LS cho vay lúc này cũng phải
theo đúng chính sách ưu đãi mà Nhà nước đã đề ra. Trong những trường hợp
vay ưu đãi như vậy, giới hạn cho sự thỏa thuận LS được thể hiện rất rõ nét.
Như vậy, chính sách vĩ mơ hay vi mơ của Nhà nước có vai trị quyết định rất
lớn đến LS cho vay.
Tóm lại, bản chất của LS cho vay trong các HĐTD là bản chất thỏa thuận
nhưng sự thỏa thuận đó phải nằm trong hành lang pháp lý. Không chỉ riêng
thỏa thuận LS trong HĐTD mà trong Nhà nước pháp quyền, bất kỳ thỏa thuận
nào cũng không được trái quy định của pháp luật. Nhưng sự can thiệp của Nhà
nước vào thỏa thuận LS có phần sâu hơn. Lý giải cho điều này, chắc hẳn phải
xuất phát từ những tác động nhiều mặt của thỏa thuận LS
1.2.3 Lãi suất cho vay luôn phụ thuộc vào loại vốn, thời hạn, mục đích sử
dụng vốn vay
Phụ thuộc vào loại vốn vay, thời hạn vay và mục đích sử dụng vốn vay
cũng là một đặc điểm đặc trưng của LS trong HĐTD. Đặc điểm này cũng có


ảnh hưởng không nhỏ đến chế độ pháp lý về LS. Cụ thể là khi điều chỉnh LS
cho vay, cơ quan có thẩm quyền khơng thể chủ quan đánh đồng tất cả LS cho
vay với nhau mà không xét đến hồn cảnh tồn tại của LS đó như vay loại vốn
nào, vay trong bao lâu và mục đích vay là gì.
Trước tiên, ta xem xét sự phụ thuộc của LS cho vay vào loại vốn vay – vốn
tiền tệ. Vốn tiền tệ chính là một nét đặc trưng của hoạt động cho vay, góp phần
làm cho hoạt động tín dụng này trở thành hoạt động chủ yếu của các TCTD.
Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ hay vàng
(nhưng hiện nay vàng đã không được phép huy động hay cho vay nữa19). Tùy
thuộc vào đối tượng cho vay là VND hay ngoại tệ mà có những mức LS cho
vay khác nhau. Sở dĩ như vậy vì LS được xem là giá cả của tiền tệ. Mặc dù đều
là vốn tiền tệ nhưng mỗi dạng tồn tại của vốn tiền tệ lại chịu sự tác động của
nhiều nhân tố thị trường khác nhau hoặc cùng nhân tố nhưng mức độ tác động

lại khác nhau và do đó mà “giá cả” của chúng cũng khơng đồng nhất. Xét mức
LS cho vay ngắn hạn tại Ngân hàng Việt Á vào thời điểm cuối năm 2010: đối
với VND dao động khoảng 16,00%/năm đến 18,00%/năm (tùy thuộc vào mục
đích vay), LS cho vay vàng để chế tác, kinh doanh vàng trang sức từ
5,50%/năm trở lên và LS cho vay ngoại tệ (USD) là 6,50%/năm trở lên20. Hoặc
theo thống kê của NHNN về mức LS cho vay trong tháng 4 năm 2011 thì LS
cho vay đối với VND bình quân ở mức 17%/năm, LS cho vay USD bình quân
khoảng 6,83%/năm21. Như vậy, khi muốn tìm hiểu mức một LS cho vay nào
đó, trước tiên ta phải gắn nó với loại vốn vay cụ thể là VND hay là ngoại tệ.
Ngoài loại vốn vay, thời hạn vay cũng ảnh hưởng không nhỏ đến mức LS
cho vay. Một nguyên lý khá phổ biến trong kinh doanh là “thời giờ là tiền bạc”.
Thật vậy, LS cho vay ngắn hạn luôn thấp hơn LS cho vay trung và dài hạn.
Nghĩa là thời hạn vay sẽ tỷ lệ thuận với mức LS cho vay, thời hạn vay càng dài
thì LS cho vay càng cao và ngược lại. Thời hạn vay càng dài cũng đồng nghĩa
với khả năng rủi ro mà các TCTD phải chịu sẽ cao hơn. Để bù đắp cho khả
năng rủi ro đó, mức LS cho vay trong những hợp đồng vay dài hạn cao hơn
cũng là điều khá hợp lý. Trong một thời gian dài như vậy, tất yếu sẽ có nhiều
biến động của thị trường đó là chưa kể đến hiệu quả sử dụng đồng vốn của
người đi vay. Mặc khác, thời hạn vay dài hơn tức là người đi vay có quyền sử
dụng một lượng vốn lâu hơn, có khả năng tìm kiếm lợi nhuận nhiều hơn. Sẽ
khơng hợp lý khi LS mà một khách hàng vay trong thời hạn vài tháng phải trả
cũng bằng mức LS mà một khách hàng khác vay trong thời hạn vài năm. Nếu
19

Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29 tháng 4 năm 2011 quy định về việc chấm dứt huy động và
cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng.
20
/>21
/>


×