Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán thông qua công cụ hối phiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (929.59 KB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI


NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG THANH
TỐN THƠNG QUA CƠNG CỤ HỐI PHIẾU

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM – 2010


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
---------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG THANH
TỐN THƠNG QUA CƠNG CỤ HỐI PHIẾU

SVTH: NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN
Khóa: 31 – MSSV: 3120205
GVHD: TS. NGUYỄN VĂN VÂN

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010



 LỜI CAM ĐOAN

 LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp về
đề tài “Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh
tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu” là cơng
trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Vân. Do
vậy, cơng trình này chưa từng được công bố
bởi bất kỳ tác giả nào. Các tài liệu được trích
dẫn là hồn tồn trung trực. Cho nên, tơi sẽ
chịu mọi trách nhiệm về khóa luận này.
Tác giả


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- Công ước HPĐN và HPNN quốc tế 1988: United Nations
Convention on International - Bills of Exchange and International
Promissory Notes 1988 (Công ước về hối phiếu đòi nợ và hối phiếu
nhận nợ quốc tế của Liên Hiệp Quốc năm 1988).
- HP: Hối phiếu.
- HPĐN: Hối phiếu đòi nợ.
- HPNN: Hối phiếu nhận nợ.

- Luật các CCCN 2005: Luật các công cụ chuyển nhượng 2005.
- Pháp lệnh TP 1999: Pháp lệnh Thương phiếu 1999.



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................... 3
3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................. 3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ........................................................ 3
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỐI PHIẾU VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG THANH TỐN THƠNG QUA CƠNG CỤ HỐI PHIẾU ......... 4
1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của hối phiếu và pháp luật
điều chỉnh hoạt động thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu ......................... 4
1.1.1. Cơ sở hình thành và quá trình phát triển của hối phiếu ......................... 4
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh
tốn thơng qua công cụ hối phiếu trên thế giới ................................................ 5
1.1.3. Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh
tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu ở Việt Nam ................................................. 6
1.2. Khái quát về hối phiếu ............................................................................... 7
1.2.1. Khái niệm hối phiếu ............................................................................... 7
1.2.2. Đặc điểm và bản chất của hối phiếu ....................................................... 9
1.2.3.. Phân loại hối phiếu .............................................................................. 11
1.3. Thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu............................................... 12
1.3.1. Khái niệm thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu ............................. 12
1.3.2. Đặc điểm của hoạt động thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu ....... 13
1.3.3. Vai trị của hoạt động thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu ........... 14
CHƢƠNG II. NỘI DUNG PHÁP LUẬT THANH TỐN THƠNG QUA
CƠNG CỤ HỐI PHIẾU ....................................................................................... 15
2.1. Chủ thể tham gia quan hệ thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu .. 15
2.1.1. Người ký phát - người phát hành hối phiếu ......................................... 15
2.1.2. Người bị ký phát ................................................................................... 17
2.1.3. Người thụ hưởng .................................................................................. 17
2.1.4. Người chuyển nhượng và người nhận chuyển nhượng ........................ 18



2.2. Quy trình thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu .............................. 18
2.2.1. Phát hành hối phiếu .............................................................................. 18
2.2.2. Chấp nhận hối phiếu đòi nợ ................................................................ 25
2.2.3. Bảo lãnh hối phiếu................................................................................ 29
2.2.4. Chuyển nhượng hối phiếu .................................................................... 31
2.2.5. Nhờ thu hối phiếu ................................................................................. 35
2.2.6. Thanh toán hối phiếu ............................................................................ 36
2.3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ thanh tốn thơng
qua cơng cụ hối phiếu ........................................................................................... 39
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của người ký phát, người phát hành hối phiếu ........
........................................................................................................................ 39
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị ký phát hối phiếu đòi nợ .................. 39
2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của người thụ hưởng hối phiếu ............................. 40
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của người ký chuyển nhượng và người nhận chuyển
nhượng hối phiếu ........................................................................................... 42
CHƢƠNG III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HỐI PHIẾU TRONG
HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN VÀ CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY VIỆC SỬ
DỤNG HỐI PHIẾU TRONG THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM..................... 44
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hối phiếu trong hoạt động thanh tốn ......
........................................................................................................................... 44
3.1.1. Tổng quan tình hình sử dụng hối phiếu trong hoạt động thanh toán .......
........................................................................................................................ 44
3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình phát hành, chuyển nhượng
và thanh toán hối phiếu .................................................................................. 46
3.1.3. Thực tiễn tuân thủ các quy định pháp luật trong quá trình truy địi và
khởi kiện u cầu thanh tốn hối phiếu ......................................................... 48
3.2. Các giải pháp thúc đẩy việc sử dụng hối phiếu trong hoạt động thanh
toán tại Việt Nam ............................................................................................ 52

KẾT LUẬN............................................................................................................ 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hối phiếu là một cơng cụ tín dụng - thanh tốn quan trọng và có nhiều ưu việt.
Ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, hối phiếu đã được sử dụng phổ biến
trong hoạt động thương mại1. Tại Việt Nam, hối phiếu tuy được các doanh nghiệp,
các ngân hàng dùng trong thanh tốn quốc tế nhưng nhìn chung nhu cầu sử dụng
hối phiếu vẫn chưa thông dụng, đặc biệt trong thanh toán nội thương 2. Nguyên
nhân xuất phát từ yếu tố lịch sử và pháp luật.
Xuất phát từ yếu tố lịch sử, trong một thời gian dài nền kinh tế nước ta chủ yếu
là tự cung tự cấp, chiến tranh lại liên tục xảy ra nên thương mại chậm phát triển. Vì
vậy, nhu cầu thanh tốn bằng hối phiếu cũng xuất hiện muộn và kém sơi động.
Về phía pháp luật có nhiều khiếm khuyết. Pháp lệnh Thương phiếu 1999 được
ban hành nhưng khơng đạt được mục đích đã đề ra3, còn cản trở các hoạt động của
hối phiếu và tạo rủi ro cho các ngân hàng4. Sau đó, Quốc hội tiếp tục ban hành Luật
các công cụ chuyển nhượng 2005 để khắc phục những bất cập của Pháp lệnh
Thương phiếu 1999. Tuy nhiên, trên thực tế Luật này vẫn chưa phải là một văn bản
pháp luật hoàn thiện5.
Như vậy, các nhà lập pháp dường như còn “thờ ơ” với việc ban hành pháp luật
điều chỉnh hoạt động thanh tốn thơng qua hối phiếu. Còn giới doanh nhân và các
ngân hàng cũng không mấy mặn mà với việc sử dụng hối phiếu trong thanh toán.
Về mặt học thuật, qua khảo sát thực tiễn, tác giả nhận thấy đến nay vẫn chưa có
cơng trình nghiên cứu chun sâu về hoạt động thanh tốn bằng hối phiếu ở góc độ
pháp luật. Chủ yếu chỉ có các cơng trình nghiên cứu hối phiếu ở khía cạnh kinh tế.
Tựu trung lại, các cơng trình này chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp các kiến thức
cơ bản (như sơ lược về lịch sử ra đời và phát triển của hối phiếu, khái niệm, phân
loại, vai trò của hối phiếu…). Một số khác nghiên cứu hối phiếu như là một mảng

nhỏ trong các phương thức thanh toán quốc tế (phương thức thanh toán nhờ thu,
phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ…).
1

Lịch sử của một số nước phát triển như: Anh, Mỹ, Úc… đã chỉ ra rằng hoạt động thanh tốn thơng qua
cơng cụ hối phiếu đã xuất hiện và phát triển từ rất sớm, khoảng từ năm 1914.
(xem: />2
Xem Báo cáo thẩm tra về dự án Luật các công cụ chuyển nhượng của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách, Quốc
hội khóa XI, số 1696/UBKTNS, ngày 25 tháng 4 năm 2005.
3
Trong lời mở đầu của Pháp lệnh Thương phiếu 1999, nhà làm luật đã nêu mục đích ban hành Pháp lệnh
này “ Để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, giao lưu thương mại; mở rộng hoạt động tín dụng ngân
hàng, tạo thêm cơng cụ thanh toán cho nền kinh tế; tạo điều kiện thực thi thuận lợi và có hiệu quả chính sách
tiền tệ quốc gia; bảo vệ lợi ích Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp cuả tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ
thương phiếu”, nhưng trên thực tế Pháp lệnh này có q nhiều bất cập vì vậy đã không thể đi vào cuộc sống.
4
Xem Báo cáo thẩm tra về dự án Luật các công cụ chuyển nhượng của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách, Quốc
hội khóa XI, số 1696/UBKTNS, ngày 25 tháng 4 năm 2005.
5
Nguyễn Văn Vân(2005), “ Một số nội dung pháp lý về dự thảo Luật Hối phiếu”, Tạp chí nghiên cứu Lập
pháp điện tử, số ra ngày 9 tháng 9 năm 2005.

-1-


Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này có thể kể đến như:
1. “Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải”, Quyển I, Lê Tài Triển chủ biên, Kim Lai
Ấn Quán, Sài Gòn, năm 1972. Chuyên khảo này đề cập rất chi tiết hoạt động thanh
toán bằng hối phiếu theo quy định của Luật Thương mại Pháp 1807 và Luật
Thương mại Việt Nam Trung phần 1942.

2. “Những bất cập của Pháp lệnh Thương phiếu 1999 của Việt Nam” của GS. Đinh
Xn Trình 6. Bài viết chỉ phân tích những quy định chưa phù hợp của Pháp lệnh
Thương phiếu 1999. Từ đó nêu ra u cầu hồn thiện pháp luật về hối phiếu.
3. Bài viết “Phát hành và chấp nhận hối phiếu” của Ths. Nguyễn Châu Quý đề cập
đến mảng pháp luật phát hành, chấp nhận hối phiếu7. Bài viết phân tích các điều
kiện để phát hành, chấp nhận theo Pháp lệnh Thương phiếu 1999.
4. Bài viết “Một số nội dung pháp lý về dự thảo Luật hối phiếu” của TS. Nguyễn
Văn Vân đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử ngày 9 tháng 9 năm 2005.
Bài viết này nhằm đóng góp các ý kiến cho dự thảo Luật các công cụ chuyển
nhượng 2005 nên chỉ chú trọng việc phân tích các quy định chưa hợp lý của dự
thảo. Các khía cạnh khác của pháp luật thanh tốn bằng cơng cụ hối phiếu khơng
được đề cập.
5. “Luật các công cụ chuyển nhượng – Thực trạng, sự cần thiết ban hành và một số
vấn đề pháp lý cơ bản” của Ths. Đoàn Thái Sơn. Bài viết này nêu thực trạng pháp
luật điều chỉnh hối phiếu, từ đó thấy được tầm quan trọng của việc ban hành Luật
các công cụ chuyển nhượng 2005. Ngoài ra, một số vấn đề pháp lý khác cũng được
đề cập trong bài viết như: tính khả thi của dự thảo, tên gọi của dự thảo, tên gọi của
các công cụ và phạm vi điều của luật8.
6. Luận văn cử nhân năm 2006 “Hối phiếu – Vai trò của hối phiếu đối với Việt
Nam trong giai đoạn tồn cầu hóa thương mại” của tác giả Nguyễn Mỹ Anh, đề cập
tầm quan trọng của hối phiếu đối với thương mại quốc tế.
7. Các bài viết, giáo trình, tài liệu tham khảo của các tác giả khác như: “Thị trường
Thương phiếu Việt Nam” cuả GS. Đinh Xuân Trình, “Thanh tốn quốc tế” của
PGS. Nguyễn Văn Tiến, “Tín dụng xuất nhập khẩu – Thanh toán quốc tế và kinh
doanh ngoại tệ” của GS. TS. Lê Văn Tư – Lê Văn Tùng, “Tiền Tệ Ngân Hàng” của
TS. Nguyễn Ninh Kiều, “Thanh Tốn Quốc Tế” của PGS. TS. Trần Hồng Ngân,…
chỉ đề cập thanh tốn bằng hối phiếu ở góc độ kinh tế.
Tóm lại, về mặt thực tiễn cũng như học thuật, địi hỏi phải có cơng trình nghiên
cứu tổng hợp các khía cạnh pháp lý của hoạt động thanh tốn bằng hối phiếu. Vì
vậy tác giả khóa luận quyết định chọn đề tài “Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh

6

www.flu.edu.vn/vn/jsp/infodetail.jsp?area58&at=991&ID=618
/>8
Đồn Thái Sơn(2005), “Luật các cơng cụ chuyển nhượng – Thực trạng, sự cần thiết ban hành và một số
vấn đề pháp lý cơ bản”, Tạp Chí Ngân hàng, số 6/2005, trang 2 – 7.
7

-2-


tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu”. Các cơng trình nghiên cứu liên quan sẽ là
nguồn tài liệu tham khảo quý báu giúp tác giả thực hiện đề tài này.
2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài :
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh tốn
thơng qua cơng cụ hối phiếu.
- Khơng nghiên cứu về thanh tốn bằng hối phiếu ở khía cạnh kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Chỉ nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh tốn thơng qua công cụ
hối phiếu theo quy định của Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 và Nghị định số
64/2001/NĐ-CP về Hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
tốn.
- Tác giả khơng nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh tốn thơng
qua cơng cụ hối phiếu theo Pháp lệnh Thương phiếu 1999, các điều ước quốc tế,
pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, tác giả sẽ căn cứ vào các văn bản này để so sánh,
đối chiếu làm cơ sở cho các bình luận, đánh giá khi nghiên cứu về đối tượng nghiên
cứu của đề tài.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết

hợp với đường lối, chính sách của Đảng về đổi mới, hội nhập với thế giới.
Trong từng vấn đề cụ thể, tác giả sử dụng phối kết hợp các phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… để làm sáng tỏ các nội dung cụ thể.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Góp phần nhất định tác động đến nhận thức của những nhà quản lý, điều hành
doanh nghiệp về ưu điểm của việc sử dụng hối phiếu trong hoạt động thanh toán,
đặc biệt là trong thanh toán nội thương.
Cung cấp những luận chứng, luận cứ làm cơ sở để hồn thiện pháp luật ngân
hàng nói chung và pháp luật hối phiếu nói riêng.
Góp phần bổ sung thêm nguồn tài liệu tham khảo khi nghiên cứu pháp luật về
hối phiếu.
Các kiến nghị đưa ra trong khóa luận có thể góp phần hồn thiện và nâng cao
chất lượng pháp luật nếu như được nhà làm luật tham khảo.

-3-


CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỐI PHIẾU VÀ PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG THANH TỐN THƠNG QUA
CƠNG CỤ HỐI PHIẾU.
1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của hối phiếu và pháp luật điều
chỉnh hoạt động thanh toán thơng qua cơng cụ hối phiếu.
1.1.1. Cơ sở hình thành và quá trình phát triển của hối phiếu
Theo các tài liệu nghiên cứu lịch sử kinh tế9, ngay từ thời Trung cổ các quốc gia
phương Tây đã có nền kinh tế hàng hóa khá phát triển. Ban đầu, các quan hệ
thương mại đơn giản, các mặt hàng chưa phong phú, khối lượng giao dịch chưa
nhiều, bên mua thường tiến hành thanh toán ngay tiền hàng cho bên bán.
Về sau, các thành tựu do ngành hàng hải mang lại đã thúc đẩy thương mại nội
địa cũng như quốc tế ngày càng sôi động. Hệ quả là số lượng mặt hàng cũng như
khối lượng giao dịch tăng đáng kể, gây khó khăn cho các thương nhân trong việc

thanh toán ngay tiền hàng với giá trị lớn.
Do vậy, để thuận tiện cho người mua, đồng thời có thể mở rộng thị phần, đến
khoảng thế kỉ XII người bán đã bắt đầu bán hàng trả chậm. Từ đó hình thành hình
thức tín dụng thương mại giữa các thương nhân với nhau.
Trong giai đoạn đầu, tín dụng thương mại được biểu hiện dưới hình thức hối
phiếu nhận nợ (gọi tắt là HPNN). Nghĩa là, bên mua lập một chứng nhận cho việc
mình mua chịu hàng từ bên bán và cam kết trả tiền hàng sau một thời hạn nhất
định. Từ gốc trong tiếng Anh của HPNN là Promissory Note – còn gọi kỳ phiếu,
hứa phiếu hay lệnh phiếu10.
Lúc này, bên bán có hai giải pháp đối với HPNN. Hoặc chờ đến thời hạn thỏa
thuận để nhận tiền từ bên mua hoặc đem chuyển nhượng cho bên thứ ba. Để xoay
vòng nguồn vốn, các thương nhân thường sử dụng giải pháp thứ hai. Vì vậy, khi
HPNN đến hạn thanh toán, bên mua sẽ thanh toán cho người đã được bên bán
chuyển nhượng HPNN.
Dần về sau, các thương nhân thay đổi phương thức nhận nợ trong mua bán trả
chậm bằng cách người bán phát hành một chứng nhận để người mua kí vào làm
bằng chứng. Chứng nhận này được gọi là hối phiếu đòi nợ (gọi tắt là HPĐN), nghĩa
là hối thúc việc trả nợ.

9

Lê Văn Tư – Lê Văn Tùng(2006), Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu – Thanh Toán Quốc Tế và Kinh Doanh
Ngoại Tệ, NXB. Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr. 199.
10
Xem Luật thương mại Việt Nam dẫn giải, Quyển I. Chủ biên: Lê Tài Triển, Kim Lai Ấn Quán, Sài Gòn,
1972, tr. 456-470 và Pháp lệnh TP 1999 sử dụng tên gọi là lệnh phiếu; một số bản dịch Luật thống nhất hối
phiếu thuộc Công ước Geneve 1930 gọi là kỳ phiếu; Nguyễn Văn Tiến(2007), Thanh Toán Quốc Tế, NXB.
Thống Kê, Hà Nội, tr. 113 gọi là hứa phiếu.

-4-



So với HPNN, HPĐN dễ dàng được chuyển nhượng cho bên thứ ba vì nó được
đảm bảo thanh tốn bởi từ hơn hai chủ thể – sự đảm bảo từ phía con nợ và những
người đã chuyển nhượng trước đó11. Cho nên HPĐN có tính lưu thơng rất cao, dần
dần trở thành cơng cụ thanh tốn chủ yếu trong giao thương nội địa và quốc tế.
“Sau này, từ thế kỉ XVI trở đi, người ta sử dụng HPĐN là chủ yếu”12.
Bên cạnh đó, sự ra đời và dần hồn thiện của các ngân hàng với việc cung cấp
các dịch vụ thanh tốn ngày càng hồn hảo, việc thanh tốn thơng qua hối phiếu
(gọi tắt là HP) ngày càng phổ biến trong thương mại. Người ta bắt đầu phát triển
các nghiệp vụ ngân hàng liên quan đến HP như: chiết khấu, cầm cố HP, nhờ thu,
bảo lãnh HP.
Tóm lại, tín dụng thương mại chính là cơ sở quyết định sự ra đời của HP. Xuất
hiện đầu tiên là HPNN, sau đó HPĐN mới ra đời và được sử dụng phổ biến.
1.1.2 Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh
tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu trên thế giới
Hoạt động thanh toán bằng HP phát triển, đòi hỏi các nước phải ban hành pháp
luật điều chỉnh. Điển hình là Đạo luật hối phiếu của Anh năm 1882 (tên tiếng Anh
là Bills of Exchange Act of 1882), đến 1962 thì có thêm Luật Thương mại thống
nhất Hoa Kỳ (tên tiếng Anh là Uniform Commercial Code – 1962).
Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa tất yếu sẽ vượt ra khỏi phạm
vi một quốc gia, tạo ra những quan hệ mang tính quốc tế. Nhưng pháp luật các
nước thì khơng giống nhau, thậm chí có thể khác biệt hoàn toàn và nhiều khi dẫn
đến mâu thuẫn. Vì vậy, các nước nhận thức đươc sự cần thiết cho ra đời một điều
ước quốc tế thống nhất điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng HP, mặt khác cịn có
tác dụng thúc đẩy quan hệ thương mại quốc tế phát triển.
Cho nên, vào năm 1912 tại Haag, một kiến nghị kí kết một điều ước quốc tế để
điều chỉnh thống nhất việc thanh tốn thơng qua HP đã được đưa ra. Tuy nhiên, vì
những lý do khách quan lẫn chủ quan, mong muốn này đã không thực hiện được.
Mãi đến năm 1930, vấn đề này mới được đề cập trở lại. Kết quả là tại hội nghị

về Luật hối phiếu được tổ chức ở Geneve năm 1930, các nước thành viên đã thống
nhất phê chuẩn Công ước Geneve về Luật thống nhất hối phiếu - tên tiếng Anh gọi
là Uniform Law for Bills of Exchange – Geneve Convention of 1930. Ngày nay,
Luật thống nhất hối phiếu thuộc Công ước Geneve 1930 có hiệu lực rộng rãi trên
lãnh thổ của các nước châu Âu. Riêng nước Anh vẫn áp dụng Đạo luật hối phiếu
năm 1882.
Tóm lại, hiện nay, trên thế giới chủ yếu có các hệ thống pháp luật điều chỉnh
hoạt động thanh toán bằng HP sau đây:
11
12

Nguyễn Văn Tiến(2007), Thanh Toán Quốc Tế, NXB. Thống kê, Hà Nội, trang 114.
Nguyễn Văn Tiến, tlđd, tr. 114.

-5-


- Đa số các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa áp dụng Luật thống
nhất hối phiếu thuộc Công ước Geneve 1930.
- Các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh – Mỹ xây dựng luật điều chỉnh hoạt
động thanh toán bằng HP chủ yếu trên cơ sở tiếp thu từ Đạo luật hối phiếu Anh
năm 1882, Luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ năm 1962.
- Ngoài ra, Ủy ban Luật Thương mại Quốc tế của Liên Hiệp Quốc cũng ban
hành dự thảo văn kiện số A/CN9/211 ngày 18/2/1982 để điều chỉnh hoạt động
thanh toán bằng HP (tên nguyên gốc tiếng Anh là International Bills of Exchange
and Promissory Notes, document No. A/CN9/211 18 February 1982). Đến năm
1988, văn kiện này được Đại Hội Đồng của Liên Hiệp Quốc thơng qua và có tên
gọi chính thức là “United Nations Convention on International Bills of Exchange
and International Promissory Notes 1988”, tác giả dịch tên gọi văn kiện này trong
tiếng Việt là “Cơng ước về hối phiếu địi nợ và hối phiếu nhận nợ quốc tế của Liên

Hiệp Quốc năm 1988” (viết tắt là “Công ước HPĐN và HPNN quốc tế 1988”) 13.
Tất cả các nước thuộc Liên Hiệp Quốc đều có thể áp dụng Cơng ước này.
1.1.3. Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh
tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu ở Việt Nam
Trước năm 1858, nền kinh tế nước ta chủ yếu là tự cung, tự cấp. Do vậy, thương
mại và pháp luật về thương mại hầu như không phát triển, cho nên HP và pháp luật
điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng HP cũng khơng có cơ sở để tồn tại.
Đến thời Pháp thuộc, nhu cầu sử dụng HP bắt đầu xuất hiện và phát triển. Ở
Nam kỳ và Bắc kỳ, các vấn đề về HP được áp dụng theo Luật thương mại Pháp
1807. Ở Trung kỳ, Bộ luật thương mại Việt Nam Trung phần 1942 được sử dụng
điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thanh toán bằng HP.
Cuối năm 1935, Pháp đã phê chuẩn việc gia nhập Công ước Geneve 1930 và
đến năm 1937 thì chính thức áp dụng Luật thống nhất hối phiếu thuộc Công ước
Geneve 1930 để điều chỉnh vấn đề thanh tốn thơng qua HP. Cho nên, bắt đầu từ
năm 1937 các vấn đề về HP ở Việt Nam cũng đươc áp dụng theo Luật thống nhất
hối phiếu thuộc Cơng ước Geneve 1930.
Năm 1972, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam đã ban hành Luật
thương mại Việt Nam Cộng hòa 1972. Luật này gồm 7 Thiên, trong đó nhà làm luật
đã dành riêng Thiên 6 để điều chỉnh các vấn đề về thanh toán bằng HP. Tuy nhiên,
Luật này chưa bao giờ có cơ hội áp dụng trên thực tế14.
Từ sau năm 1975 đến 1997, HP chỉ được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế đối
ngoại. Theo học thuyết kinh tế xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ, mọi nhu cầu tín dụng
kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa đều do hệ thống Ngân hàng Nhà nước cung ứng
13

Các tác giả khác nhau khi tiếp cận với Cơng ước có thể sẽ có cách gọi tên khác nhau.
Năm 1975 Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ nên Luật Thương mại ra đời năm 1972 chưa bao giờ
được áp dụng vào thực tiễn.
14


-6-


một cách có kế hoạch, do đó khơng cần thiết đến tín dụng thương mại, nên HP cũng
khơng cịn được sử dụng15.
Từ năm 1997, các quy định về HP đã xuất hiện rải rác trong các văn bản khác
nhau như Luật Thương mại 1997 (ban hành ngày 23/5/1997 và có hiệu lực vào
ngày 1/1/1988), Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 (ban hành ngày 26/12/1997 và có
hiệu lực ngày 1/10/1998), Luật Các tổ chức Tín dụng 1997 (ban hành ngày
12/12/1997 và có hiệu lực ngày 1/10/1998)16.
Mặt khác lúc này, Việt Nam đã mở cửa hội nhập hơn được 10 năm, nội thương
lẫn ngoại thương bắt đầu phát triển. Do vậy, cần nhanh chóng tập hợp hóa, pháp
điển hóa các quy định điều chỉnh hoạt động thanh tốn bằng HP.
Với mục đích trên, ngày 24 tháng 12 năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh Thương phiếu 1999 (viết tắt là Pháp lệnh TP 1999) nhằm điều
chỉnh thống nhất các vấn đề pháp lý liên quan hoạt động thanh tốn bằng HP. Tuy
nhiên, Pháp lệnh này có q nhiều bất cập, đã không tạo ra được “lực đẩy” mới cho
sự vận hành của hoạt động thanh toán bằng HP.
Vì vậy ngày 29 tháng 11 năm 2005, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã
thơng qua Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 (gọi tắt là Luật các CCCN 2005),
có hiệu lực thi hành vào ngày 1 tháng 7 năm 2006. Sự ra đời của Luật các CCCN
2005 thể hiện sự thay đổi lớn trong nhận thức của các nhà làm luật. Bằng chứng là
các quy định không phù hợp trong Pháp lệnh TP 1999 đã được thay thế. Điều này
mở ra một hy vọng phát triển cho hoạt động thanh toán bằng HP ở Việt Nam.
1.2. Khái quát về hối phiếu
1.2.1. Khái niệm hối phiếu
Tại Việt Nam trước đây, khái niệm HP đã được ghi nhận trong Luật Thương
mại 1997 và Pháp lệnh TP 1999.
Điều 219 Luật Thương mại 1997 quy định “Thương phiếu là chứng chỉ ghi
nhận sự cam kết thanh tốn vơ điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian

nhất định. Thương phiếu theo Luật này gồm có hối phiếu và lệnh phiếu”. Đây là
một khái niệm khơng chính xác vì nó chỉ đúng với HPNN, chứ khơng đúng với
HPĐN. Mặt khác, khái niệm này cũng chưa nêu được giá trị quan trọng của HP, đó
là chứng chỉ có giá.
Khắc phục những thiếu sót này, điều 3, khoản 1 Pháp lệnh TP 1999 đã đưa ra
khái niệm HP như sau “Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu
thanh tốn hoặc cam kết thanh tốn khơng điều kiện một số tiền xác định trong một
thời gian nhất định. Thương phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu”.

15
16

Xem .
Các luật này hiện nay đã hết hiệu lực.

-7-


Khái niệm nêu ra trong Pháp lệnh này tương đối hồn chỉnh so với các khái
niệm trước đó. Tuy nhiên, nó vẫn chưa làm rõ được các chủ thể tham gia vào quan
hệ HP. Vì vậy Luật các CCCN 2005 đã giải thích khái niệm HP theo hướng tách ra
thành hai khái niệm là HPĐN và HPNN.
Theo đó, tại điều 4, khoản 2 Luật các CCCN 2005 nhà làm luật quy định “Hối
phiếu địi nợ là giấy tờ có giá do người kí phát lập, yêu cầu người bị kí phát thanh
tốn khơng điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm
nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng”.
Còn “Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh
tốn khơng điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm
nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng”.
Hai khái niệm trên đã khắc phục được những thiếu sót của các khái niệm trước

đây. Đồng thời còn làm rõ chủ thể của quan hệ HP, gồm: người ký phát, người bị
ký phát (nếu là HPĐN) hoặc người phát hành (nếu là HPNN), người thụ hưởng.
Khi tìm hiểu khái niệm HP theo pháp luật một số nước, tác giả thấy các khái
niệm này đồng nhất về mặt bản chất, có chăng chỉ khác nhau về cách hành văn.
Điều này chứng tỏ đa số các nước đều đồng quan điểm về bản chất của HP.
Chẳng hạn, điều 3 Luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ, được sửa đổi, bổ sung
năm 1995 quy định:
Một phương tiện chuyển nhượng có nghĩa là một lệnh (order) hoặc một
lời hứa (promise) thanh toán một số tiền nhất định… cho người cầm
phiếu (holder)… Một phương tiện chuyển nhượng là một hối phiếu nhận
nợ nếu nó là lời hứa, là một hối phiếu địi nợ nếu nó là lệnh… Lệnh là
một yêu cầu thanh toán bằng văn bản do người yêu cầu phát hành. Yêu
cầu này có thể gửi cho bất cứ ai, bao gồm cả người đưa ra yêu cầu hoặc
được gửi cho một hay nhiều người.17
Tương tự Đạo luật hối phiếu Anh 1882 cũng quy định18:
A bill of exchange is an unconditional order in writing, addressed by one
person to another, signed by the person giving it, requiring the person to
whom it is addressed to pay on demand or at fixed or determinable future
time a sum certain in money to or to the order of a specified person, or to
bearer (Bill of Exchange Act 1882, Part II, article 3.1).
A promissory note is an unconditional promise is writing made by one
person to another signed by the maker, engaging to pay, on demand or at
a fixed or determinable future time, a sum certain in money, to, or to the
order of, a specified person or to bearer (Bill of Exchange Act 1882, Part
IV, article 83.1).
17
18

Đinh Xn Trình(2006), Thanh Tốn Quốc Tế, NXB. Lao Động – Xã Hội, Hà Nội, tr. 91.
/>

-8-


Trong tiếng Việt, tác giả tạm dịch là:
“HPĐN là một mệnh lệnh thanh tốn khơng điều kiện bằng văn bản, do người
ký phát lập, gửi cho người bị ký phát, yêu cầu người này thanh toán một số tiền xác
định khi có yêu cầu vào một thời điểm cụ thể hoặc vào một thời điểm nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng là người theo lệnh của người có tên trên
HPĐN hoặc cho người cầm giữ HPĐN”.
“HPNN là cam kết thanh tốn khơng điều kiện bằng văn bản do người phát
hành lập, cam kết thanh toán một số tiền xác định khi có yêu cầu vào một thời điểm
cụ thể hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng là
người theo lệnh của người có tên trên HPNN hoặc cho người cầm giữ HPNN”.
1.2.2. Đặc điểm và bản chất của hối phiếu
So với các loại giấy tờ có giá khác thì HP có một số đặc điểm đặc trưng và
những đặc điểm này cũng chính là bản chất của HP.
Đặc điểm thứ nhất, đó là tính trừu tượng (hay cịn gọi là tính độc lập) của HP.
Nghĩa là trong nội dung của HP không cần phải ghi rõ lí do của việc địi tiền, khơng
phải ghi nội dung của quan hệ tín dụng đã làm phát sinh ra HP.
Ví dụ, cơng ty Packsimex (quốc tịch Việt Nam) bán cho công ty Welcome
Trading Co Pte LTD (quốc tịch Singapore) 100 MT cao su thiên nhiên với giá
56.000 USD theo hợp đồng số 01/2001 Pack – Welcome. Phương thức thanh tốn
là tín dụng chứng từ. Ngân hàng thông báo của Packsimex là ngân hàng Ngoại
Thương Việt Nam, chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh. Khi ký phát HPĐN đòi tiền nhà
nhập khẩu, Packsimex ghi trong HPĐN “Ngay khi nhìn thấy tờ hối phiếu này trả
theo lệnh của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam một số tiền là 56.000 USD”, chứ
khơng ghi lí do số tiền này phát sinh từ hợp đồng mua cao su thiên nhiên19.
Tính trừu tượng của HP được hầu hết các nước thừa nhận và quy định trong
pháp luật, ví dụ điều 3, khoản 2 Luật các CCCN 2005 quy định “quan hệ công cụ
chuyển nhượng trong Luật này độc lập, không phụ thuộc vào giao dịch cơ sở phát

hành công cụ chuyển nhượng”. Sở dĩ HP có thuộc tính này vì nó là cơng cụ tín
dụng – thanh tốn, nên nó thay thế cho tiền mặt và chấp hành các chức năng
phương tiện lưu thông của tiền tệ.
Các luật gia ở các nước châu Âu thì tiếp cận theo một cách khác, họ cho rằng
“giao dịch hối phiếu thì bao hàm một nghĩa vụ độc lập với giao dịch cơ sở, cho nên
không cần thiết phải ghi lí do cho việc trả tiền trong hối phiếu”20.
Ngồi ra cịn có một cách giải thích khác cho tính trừu tượng của HP, theo quan
điểm của trường phái tiền tệ “Hối phiếu phải được coi như một cơng cụ thanh tốn

19

Hợp đồng này được cung cấp bởi công ty Xuất Nhập Khẩu Sản Xuất Gia Dụng và Bao Bì (Packsimex),
địa chỉ số 35 – 37 Bến Chương Dương, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh.
20
Theo Đinh Xuân Trình, tldd, tr. 94.

-9-


“kiểu tiền tệ”. Mà sở dĩ tiền tệ lưu thông dễ dàng từ người này sang người kia là vì
tiền tệ có đặc tính trừu tượng, cho nên hối phiếu cũng nên có đặc tính này”21.
Chính vì đặc điểm này, HP có thể bị lạm dụng phát hành “khống”, nghĩa là phát
hành không dựa trên bất kỳ quan hệ hợp đồng nào. Sau đó HP “khống” được cầm
cố, chiết khấu… ở ngân hàng nhằm chiếm dụng vốn của nền kinh tế một cách
không hợp lý. Cho nên pháp luật các nước nghiêm cấm phát hành HP “khống”.
Đặc điểm thứ hai là tính bắt buộc trả tiền, tức là yêu cầu thanh tốn trên HP là
một mệnh lệnh vơ điều kiện. Người có nghĩa vụ thanh tốn phải trả tiền theo đúng
nội dung ghi trên HP, không được đưa ra bất cứ điều kiện nào kèm theo, trừ khi HP
được lập trái với quy định của pháp luật điều chỉnh nó.
Ví dụ, công ty Chăn Nuôi & Dịch Vụ Thủy Sản – tên giao dịch tiếng Anh là

Asco (quốc tịch Việt Nam) bán cho công ty Peitu Foods Corporation – gọi tắt là
PFC (quốc tịch Trung Quốc) mặt hàng sò điệp đông lạnh theo hợp đồng số AS –
PE/03 ngày 8 tháng 10 năm 199922. Sau đó, Asco ký phát HPĐN yêu cầu PFC trả
tiền cho người thụ hưởng là người theo lệnh của ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam. Nếu PFC đã kí chấp nhận vào HPĐN thì khi đến hạn thanh toán PFC phải
thực hiện nghĩa vụ thanh toán, ngay cả khi Asco có vi phạm nghĩa vụ giao hàng.
Tính bắt buộc trả tiền HP còn thể hiện ở chỗ người kí phát, người chuyển
nhượng cũng phải chịu trách nhiệm thanh tốn cho người thụ hưởng vơ điều kiện
nếu khi đến hạn người bị ký phát không thực hiện nghĩa vụ thanh tốn23.
Đặc điểm thứ ba là tính lưu thơng (hay tính chuyển nhượng) của HP. Đây là hệ
quả của tính trừu tượng và tính bắt buộc trả tiền. Khi chuyển nhượng HP, các bên
khơng bị bắt buộc ghi lí do chuyển nhượng nên thủ tục chuyển nhượng đơn giản,
việc chuyển nhượng có thể thực hiện nhiều lần miễn là trong thời hạn của HP.
Tóm lại, trên đây là những đặc điểm của HP. Các đặc điểm này có mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau. Việc thừa nhận đặc điểm này tất yếu phải thừa nhận đặc
điểm kia.
Tuy nhiên, những đặc trưng này chưa đủ để phân biệt HP với một công cụ
chuyển nhượng khác là séc24. Giữa chúng có rất nhiều khác biệt, nhất là quy chế
pháp lý điều chỉnh, điều này sẽ được làm rõ hơn khi tác giả phân tích “Nội dung
pháp luật thanh tốn thông qua công cụ hối phiếu” ở chương II. Ở đây, tác giả tạm
nêu một số điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại công cụ này.
Thứ nhất, séc không phải là chứng chỉ hối thúc việc trả nợ như HPĐN hay là
cam kết trả nợ như HPNN mà séc là “một giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra
lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
21

Theo Đinh Xuân Trình, tlđd, tr. 94.
Hợp đồng mua bán này được cung cấp bởi công ty Chăn Nuôi & Dịch Vụ Thủy Sản, địa chỉ 1061 – 1063
Trần Hưng Đạo, Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh.
23

Xem Điều 45, khoản 2 Luật các CCCN 2005, điều 9 Luật thống nhất hối phiếu thuộc công ước Geneve
1930.
24
Từ gốc trong tiếng Anh là Check và trong tiếng Pháp là Chéques.
22

- 10 -


được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài
khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng” (xem điều 4, khoản 4 Luật các
CCCN 2005).
Thứ hai, khác với HP, người bị ký phát trong séc bắt buộc phải là ngân hàng
hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
Thứ ba, nếu HP có tính lưu thơng thì giao dịch chuyển nhượng, lưu thơng séc
lại ít sơi động. Vì là thời hạn xuất trình séc thường ngắn và bị giới hạn bởi luật.
Chẳng hạn, điều 69, điều 71 Luật các CCCN quy định thời hạn xuất trình séc
u thanh tốn là 30 ngày kể từ ngày ký phát, trong trường hợp đặc biệt thì có thể
xuất trình muộn hơn, nhưng cũng khơng q sáu tháng kể từ ngày ký phát.
Tương tự, thời hạn xuất trình séc được để cập trong Luật thống nhất về séc
thuộc Công ước Geneve 1931 là 8 ngày kể từ ngày ký phát nếu séc lưu thông trong
nước, là 20 ngày nếu séc lưu thông ra nước khác nhưng cùng một châu lục, là 70
ngày nếu séc lưu thông sang một châu lục khác25.
1.2.3.. Phân loại hối phiếu
- Căn cứ tiêu chí tính chất của nghĩa vụ trên HP hoặc tiêu chí chủ thể tạo ra HP
hoặc tiêu chí số lượng chủ thể tham gia quan hệ HP26 để phân loại HP. Luật các
CCCN 2005 sử dụng tiêu chí này và chia HP thành hai loại: HPĐN và HPNN.
HPĐN là giấy tờ có giá do người kí phát lập, u cầu người bị kí phát thanh
tốn khơng điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm

nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. (xem điều 4, khoản 2 Luật các
CCCN 2005)
Như vậy, bản chất của HPĐN là một lệnh yêu cầu thanh toán. Chủ thể lập ra
HPĐN gọi là người ký phát. Số chủ thể tham gia quan hệ HPĐN ít nhất là ba bên:
bên ký phát, bên bị ký phát và người thụ hưởng.
Cịn HPNN là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh tốn khơng
điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng. (xem điều 4, khoản 3 Luật CCCCN 2005)
Ngược lại với HPĐN, bản chất của HPNN là một cam kết thanh toán. Người lập
HPNN gọi là người phát hành. Có ít nhất hai chủ thể tham gia quan hệ HPNN là:
người phát hành và người thụ hưởng.
- Căn cứ vào chứng từ kèm theo, gồm có HP trơn và HP kèm theo chứng từ.
Cách phân loại thường được sử dụng trong thương mại quốc tế.
HP trơn (clean bill) là loại HP được gửi đến người trả tiền mà không kèm theo
bộ chứng từ hàng hóa. HP trơn thường được sử dụng trong phương thức nhờ thu

25
26

Xem Trần Hoàng Ngân(2003), Thanh Toán Quốc Tế, NXB. Thống Kê, tr 117.
Xem Nguyễn Văn Vân, tldd.

- 11 -


trơn27. Trong ngoại thương, HP trơn thường được sử dụng để đòi tiền những nhà
nhập khẩu đáng tin cậy.
HP kèm theo chứng từ (documentary bill) là loại HP được gửi đến người trả tiền
có kèm theo bộ chứng từ hàng hóa. HP kèm theo chứng từ có thể là HP dùng trong
phương thức nhờ thu kèm chứng từ28 hoặc phương thức tín dụng chứng từ29.

Ngồi ra, việc phân loại HP có thể được thực hiện theo một số tiêu chí khác
như: căn cứ vào thời hạn trả tiền trên HP thì có HP trả tiền ngay và HP có kỳ hạn,
căn cứ vào cách thức thể hiện người thụ hưởng và tính chuyển nhượng của HP có
HP đích danh, HP vơ danh và HP chuyển nhượng theo lệnh.
1.3. Thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu
1.3.1. Khái niệm thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu
Có thể khẳng định rằng pháp luật Việt Nam từ trước đến nay khái niệm “thanh
tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu” chưa được khái qt 30. Mặt khác, khái niệm
“thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu” có đồng nhất với khái niệm “hối phiếu”
hay không cũng chưa được trả lời một cách thỏa đáng.
Xuất phát từ vai trò của HP và nhũng tiện ích của thanh tốn bằng HP thì việc
nghiên cứu các khái niệm liên quan thanh toán bằng HP là cần thiết.
Trước hết cần khẳng định hai khái niệm này hoàn tồn khác nhau. Vì, “hối
phiếu” là một phương tiện thanh tốn, tức là “loại chứng từ, giấy tờ có giá dùng để
chi trả”. Trong khi đó, “thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu” là một phương
thức thanh tốn, tức là “cách thức, phương pháp sử dụng phương tiện thanh tốn là
hối phiếu sao cho có thể đạt được hiệu quả như mong muốn”31.

27

Nguyễn Ninh Kiều(2006), Tiền Tệ Ngân Hàng, NXB. Thống Kê, tr. 336: „„Phương thức nhờ thu trơn là
phương thức thanh tốn trong đó nhà xuất khẩu ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền từ nhà nhập khẩu căn cứ
vào hối phiếu do mình lập ra, cịn các chứng từ hàng hóa đã được gửi trực tiếp cho nhà nhập khẩu, không gửi
cho ngân hàng‟‟.
28
Nguyễn Ninh Kiều, tlđd, tr. 341-342: „„Phương thức thanh toán nhờ thu kèm theo chứng từ là phương thức
thanh tốn trong đó nhà xuất khẩu sau khi đã hoàn thành xong nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng dịch vụ tiến
hành ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở nhà nhập khẩu không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà
còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi kèm theo với điểu kiện nếu nhà nhập khẩu thanh toán hoặc chấp nhận thanh
tốn thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu để họ nhận hàng hóa‟‟.

29
Nguyễn Ninh Kiều, tlđd, tr. 349: „„Tín dụng chứng từ là phương thức thanh tốn trong đó một ngân hàng
theo u cầu của khách hàng cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng hoặc chấp nhận hối
phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó nếu người này xuất trình được bộ chứng từ thanh toán
phù hợp với những quy định nêu ra trong thư tín dụng‟‟.
30
Tác giả đã nghiên cứu các văn bản pháp luật của Việt Nam điều chỉnh hối phiếu như: Luật thương mại
Trung phần 1942, Luật Thương mại 1997 (ban hành ngày 23/5/1997 và có hiệu lực vào ngày 1/1/1988), Luật
Ngân hàng Nhà nước 1997 (ban hành ngày 26/12/1997 và có hiệu lực ngày 1/10/1998), Luật Các tổ chức
Tín dụng 1997 (ban hành ngày 12/12/1997 và có hiệu lực ngày 1/10/1998 và được sửa đổi bổ sung năm
2004), Pháp lệnh TP 1999, Luật các CCCN 2005…, các văn bản này đều khơng đưa ra khái niệm “thanh
tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu”.
31
Theo Từ điển Bách Khoa tồn thư Việt Nam - />
- 12 -


Tuy khơng có bất cứ sự giải thích cụ thể nào từ phía các nhà lập pháp về hoạt
động “thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu”, nhưng chúng ta vẫn hồn tồn có
thể hiểu được bản chất của hoạt động này xuất phát từ hai lí do sau:
Thứ nhất, nội hàm của khái niệm “hối phiếu đòi nợ”, “hối phiếu nhận nợ”đã
nêu lên cách thức mà hai loại HP được sử dụng để thực hiện chức năng chi trả.
Thứ hai, hoạt động “thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu” đã được biểu
hiện dưới nhiều phương thức thanh toán khác nhau và các phương thức này đều
được luật hóa, ví dụ như các phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ, phương
thức nhờ thu…
Bên cạnh các khái niệm như: “hoạt động ngoại hối”, “cho thuê tài chính”, “bảo
lãnh ngân hàng”32… thì việc làm rõ khái niệm “thanh tốn thơng qua hối phiếu” sẽ
góp phần bổ sung cho các thuật ngữ pháp lý.
Vì vậy, dưới góc độ khoa học pháp lý, theo tác giả có thể hiểu “Thanh tốn

thơng qua công cụ hối phiếu là một trong những phương thức thanh tốn khơng
sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế, theo đó các chủ thể tham gia quan hệ thanh
tốn sử dụng công cụ chuyển nhượng là hối phiếu để tiến hành việc chi trả
nhằm thực hiện các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong nền kinh tế”.
1.3.2. Đặc điểm của hoạt động thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu
Thứ nhất, phương tiện được sử dụng để thực hiện hoạt động thanh tốn bắt
buộc là HP. HP đóng một vai trị vơ cùng quan trọng tạo nên bản chất của hoạt
động này. Vì trong tất cả các khâu của quy trình thanh tốn địi hỏi phải có sự hiện
hữu của HP, HP mở ra sự khởi đầu và kết thúc của một q trình thanh tốn.
Thứ hai, quy trình thanh tốn thơng qua HP có thể gồm một số hoặc tất cả các
khâu sau: phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, nhờ thu, thanh toán HP.
Trong các khâu trên thì phát hành HP và thanh tốn HP bắt buộc phải có. Vì
việc phát hành HP mở đầu cho quy trình thanh tốn, có phát hành HP thì mới có
HP để thực hiện các khâu kế tiếp. Cịn thanh tốn HP là khâu kết thúc của q trình
này vì mục đích của việc phát hành HP là để thực hiện việc chi trả và trên HP thì
bao giờ cũng quy định một thời hạn thanh toán.
Thứ ba, chủ thể tham gia hoạt động thanh tốn thơng HP bao gồm các tổ chức,
cá nhân tham gia vào việc phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, nhờ thu,
thanh toán HP.
Tuy nhiên, khơng phải trường hợp thanh tốn bằng HP nào cũng có sự tham gia
của tất cả các chủ thể trên. Vì như đã phân tính ở đặc điểm thứ hai, q trình thanh
tốn bằng HP có thể chỉ có một số khâu hoặc cũng có thể là tất cả các khâu.

32

Xem các điều: điều 4, khoản 1 Pháp lệnh Ngoại hối ngày 13/12/2005 và điều 3, khoản 1 Nghị định số
160/2006/NĐ – CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối; điều 20, khoản 8 và khoản 11 Luật các tổ
chức tín dụng 1997 đã được sửa đổi, bổ sung 2004.

- 13 -



Ví dụ, A bán cho B một số hàng, sau đó A ký phát HPĐN u cầu B thanh tốn
cho người thụ hưởng là C. A chuyển HPĐN cho C. Cho đến kỳ hạn thanh tốn C
khơng hề thực hiện bất kỳ một giao dịch nào khác liên quan đến HPĐN này. Như
vậy, trong trường hợp này chỉ xuất hiện các chủ thể tham gia vào việc phát hành và
thanh tốn trong quy trình thanh tốn bằng HPĐN.
Cũng tình huống trên nhưng khi ký phát HPĐN A chỉ định người thụ hưởng là
“người theo lệnh của C”. A chuyển HPĐN cho C. C yêu cầu B ký chấp nhận rồi
chuyển nhượng cho D trước khi đến thời hạn thanh toán. Sau đó D đến ngân hàng
nhờ thu HPĐN. Như vậy, trong trường hợp này xuất hiện thêm nhiều chủ thể khác.
1.3.3. Vai trị của hoạt động thanh tốn thơng qua công cụ hối phiếu
Lịch sử phát triển thương mại đã chứng minh rằng HP hội đủ những ưu việt
không chỉ với vai trị là cơng cụ tín dụng mà nó cịn hội đủ các ưu việt của một
cơng cụ chuyển nhượng. Tuy nhiên, những ưu việt này chỉ tồn tại dưới phương diện
lý thuyết nếu như HP không được sử dụng vào hoạt động thanh tốn. Do vậy, có
thể khẳng định vai trị to lớn của hoạt động thanh tốn bằng HP chính là hiện thực
hóa các vai trị của HP vào thực tiễn.
Ở nước ta, tiền mặt vẫn còn được sử dụng phổ biến trong thanh toán. Điều này
sẽ gây ra nhiều bất cập: tốn kém các chi phí in ấn, bảo quản, lưu thông… đồng thời
gây ra những tiêu cực như trộm cắp, rửa tiền, trốn thuế, nạn tiền giả. Thanh tốn
bằng HP chính là một hình thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt, do vậy sẽ có thể
khắc phục được những nhược điểm này.
Ngồi ra, thơng qua hoạt nhờ thu HP các ngân hàng thương mại sẽ thu được
những khoản lợi nhuận đáng kể. Đối với Ngân hàng Nhà nước thì qua việc tái chiết
khấu giấy tờ có giá nói chung, HP nói riêng sẽ có thể thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở. Từ đó thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia, hồn thành tốt vai trò
quản lý, điều hành của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực tiền tệ và
ngân hàng.
Kết luận chƣơng I: qua việc khái quát về HP và pháp luật điều chỉnh hoạt động

thanh tốn thơng qua cơng cụ HP, tác giả làm rõ một số vấn đề cơ bản về HP cũng
như pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh tốn thơng qua HP. Từ đó tạo ra sự thuận
lợi khi nghiên cứu các chương sau của khóa luận.

- 14 -


CHƢƠNG II. NỘI DUNG PHÁP LUẬT THANH TỐN
THƠNG QUA CƠNG CỤ HỐI PHIẾU
2.1. Chủ thể tham gia quan hệ thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu
Có nhiều chủ thể tham gia quan hệ thanh toán bằng HP. Tuy nhiên, tác giả chỉ
phân tích các chủ thể đặc trưng, điển hình nhất và chỉ xuất hiện trong quan hệ HP
nói chung, quan hệ thanh tốn bằng HP nói riêng, đó là: người ký phát, người bị ký
phát, người phát hành, người thụ hưởng, người chuyển nhượng và người nhận
chuyển nhượng. Các chủ thể khác như: người bảo lãnh, người thu hộ… đã được
điều chỉnh bằng các quy định pháp luật khác nên tác giả không đề cập ở phần này.
2.1.1. Ngƣời ký phát - ngƣời phát hành hối phiếu
Khái niệm:
Theo điều 4, khoản 5 và khoản 6 Luật các CCCN 2005 “Người ký phát là người
lập và ký phát hành hối phiếu đòi nợ”, “Người phát hành là người lập và ký phát
hành hối phiếu nhận nợ”. Như vậy, khi giải thích hai các khái niệm này Luật khơng
hề đề cập đến giao dịch cơ sở đã làm phát sinh HP, chỉ tập trung vào quan hệ hiện
tại là quan hệ phát hành HP. Điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất của HP.
Luật thống nhất hối phiếu thuộc Cơng ước Geneve 1930 khơng có một điều luật
riêng định nghĩa về người ký phát, người phát hành. Tuy nhiên, thông qua các điều
luật quy định thủ tục phát hành HP, chúng ta cũng có thể hiểu được thế nào là
người ký phát, người phát hành.
Trước đây, Luật Thương mại Việt Nam Trung phần 1942 sử dụng thuật ngữ
“người phát lệnh”33 nhằm nhấn mạnh tính chất của HP là một mệnh lệnh thanh
toán.

Điều kiện đối với người ký phát – người phát hành:
Trước đây, điều 2 Pháp lệnh TP 1999 yêu cầu người ký phát, người phát hành
HP phải là doanh nghiệp, sau đó liệt kê các loại hình doanh nghiệp được phát hành
HP. Như vậy, các thương nhân không là doanh nghiệp thì khơng được quyền phát
hành HP. Quy định này đã tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể kinh doanh.
Mặt khác, HP chính là bằng chứng pháp lý vững chắc cho tín dụng thương mại
khi có tranh chấp. Nhưng quy định trên chỉ tạo cơ chế bảo vệ các chủ thể kinh
doanh là doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng thương mại, khơng ủng hộ và tạo
điều kiện để tín dụng thương mại giữa các thương nhân không phải doanh nghiệp
phát triển. Điều này góp phần làm cho Pháp lệnh khơng thể đi vào cuộc sống.

33

Xem Lê Tài Triển(1972), Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải, Quyển I, Kim Lai Ấn Quán, Sài Gòn, tr.
357.

- 15 -


Khắc phục sự bất hợp lý này, Luật các CCCN 2005 khơng địi hỏi người ký phát
HP phải là doanh nghiệp, phạm vi các chủ thể được quyền phát hành HP được mở
rộng34.
Luật các CCCN 2005 không quy định cụ thể về năng lực chủ thể của người ký
phát, người phát hành HP. Theo sự viện dẫn tại điều 5 Luật này, các quy định của
Bộ luật Dân sự 2005 sẽ được áp dụng để điều chỉnh vấn đề năng lực chủ thể.
Vì vậy, nếu người ký phát, người phát hành HP là cá nhân phải có năng lực
hành vi dân sự. Nếu là cơ quan, tổ chức thì phải có năng lực pháp luật dân sự.
Trường hợp HP được cá nhân thay mặt cho cơ quan, tổ chức phát hành thì cá nhân
này cũng phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
Khi tham khảo pháp luật của một số nước, ngoài điều kiện năng lực chủ thể, cịn

có những quy định ràng buộc mối quan hệ giữa người ký phát và người bị ký phát,
về trách nhiệm của người phát hành, cụ thể như sau35:
Điều 21 Luật các công cụ chuyển nhượng Trung Quốc quy định “Người ký phát
phải có mối quan hệ xác thực với người bị ký phát và phải sở hữu được nguồn vốn
đáng tin cậy để thanh toán cho số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ. Hối phiếu địi nợ
khơng có tiền bảo chứng sẽ khơng được ký phát để tránh gây thiệt hại cho ngân
hàng hoặc các bên có liên quan”.
Tương tự, điều 74 Luật các cơng cụ chuyển nhượng Trung Quốc quy định
“Người phát hành hối phiếu nhận nợ phải sở hữu một nguồn tài chính đáng tin cậy
để thanh toán cho tổng số tiền ghi trên hối phiếu nhận nợ cũng như đảm bảo khả
năng thanh tốn”.
Luật thống nhất hối phiếu thuộc Cơng ước Geneve 1930 đưa ra quy định về dự
kim (số tiền mà người bị ký phát giữ trong tay để trả cho người cầm HP khi tới
hạn) gồm có hai trường hợp: một là, dự kim chính là tiền người ký phát gửi cho
người bị ký phát; hai là, dự kim chính là tiền người bị ký phát mắc nợ người ký
phát. Tuy nhiên, quy định này khơng mang tính bắt buộc, mà là sự lựa chọn của các
quốc gia thành viên.
Yêu cầu về dự kim cũng từng được đề cập trong Luật Thương mại Việt Nam
Trung phần 194236. Hiện nay, Luật các CCCN 2005 chưa có quy định nào về dự
kim hay tiền bảo chứng. Tuy nhiên, nhà lập pháp có đưa ra một quy phạm mang
tính cấm đốn tại điều 15, khoản 5 Luật này, đó là khơng được phát hành hối phiếu
khi khơng có đủ khả năng thanh tốn.
Theo Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội để khuyến khích hoạt động
thanh tốn bằng HP thì việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ
34

Điều 2 Luật các CCCN 2005 quy định phạm vi điều chỉnh của Luật này là: “Luật này áp dụng với các tổ
chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia vào quan hệ cơng cụ chuyển nhượng trên
lãnh thổ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
35

Xem mục II.14 Báo cáo thẩm tra về dự án Luật các công cụ chuyển nhượng của Ủy ban Kinh tế và Ngân
sách, Quốc hội khóa XI, số 1696/UBKTNS, ngày 25 tháng 4 năm 2005.
36
Xem Lê Tài Triển, tlđd, tr. 668 – 672.

- 16 -


HP là cần thiết nên dự thảo Luật các CCCN 2005 cần có các quy định tương tự
pháp luật quốc tế37. Tuy nhiên, Ban soạn thảo đã không đồng ý với ý kiến này.
Đối với vấn đề này, tác giả có ý kiến như sau. Bản chất của HP là trừu tượng,
độc lập với giao dịch cơ sở phát sinh ra HP, nên trên thực tế kiểm soát vấn đề dự
kim rất khó thực hiện. Vì vậy, việc hạn chế tình trạng lừa đảo phụ thuộc vào việc
chủ thể tham gia vào quan hệ HP có đánh giá được uy tín, năng lực tài chính… của
phía đối tác giao dịch với mình hay khơng.
Cho nên, nếu Luật các CCCN 2005 có đưa ra quy định cấm phát hành HP mà
khơng có tiền dự kim nhưng các chủ thể tham gia quan hệ HP khơng tìm hiểu về
đối tác của mình thì quy định này cũng khơng có tác dụng gì. Vì vậy, việc có tránh
được trường hợp bị lừa đảo hay khơng phụ thuộc chủ yếu vào chính các bên.
Theo tác giả, có lẽ các thành viên Ban soạn thảo tiếp cận theo hướng này nên đã
quyết định không quy định về vấn đề dự kim trong Luật các CCCN 2005.
2.1.2. Ngƣời bị ký phát
Theo điều 4, khoản 6 Luật các CCCN 2005 thì “người bị ký phát trong hối
phiếu địi nợ là người có trách nhiệm thanh tốn số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ
theo lệnh của người ký phát”. Quy định này đã làm rõ được đặc điểm quan trọng
của người bị ký phát chính là người được chỉ định bởi người ký phát.
Trong trường hợp HPĐN cần phải xuất trình để yêu cầu ký chấp nhận trước khi
thanh toán, nếu đồng ý chấp nhận HPĐN, người bị ký phát sẽ có thêm tư cách là
người chấp nhận HPĐN. Trong quan hệ HPNN không tồn tại chủ thể là người bị ký
phát, vì bản chất của HPNN là một cam kết thanh toán và người phát hành HPNN

cũng chính là người có nghĩa vụ thanh tốn.
Vấn đề năng lực chủ thể của người bị ký phát, người chấp nhận HP cũng được
yêu cầu tương tự như đối với người ký phát HP.
2.1.3. Ngƣời thụ hƣởng
Trước đây điều 3 Pháp lệnh TP 1999 quy định “người thụ hưởng hối phiếu là
người có tên trên hối phiếu và được thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu hoặc bất
cứ người nào được chuyển nhượng hối phiếu phù hợp với quy định của Pháp lệnh
này”. Quy định này chưa bao quát được hết tất cả các trường hợp.
Vì vậy, Luật các CCCN 2005 đã làm rõ hơn về khái niệm người thụ hưởng HP.
Tại điều 4, khoản 8 Luật này đã bổ sung thêm trường hợp người thụ hưởng HP là
người cầm giữ HP trong trường hợp HP ghi “trả cho người cầm giữ”.
Tuy nhiên, theo tác giả quy định này cũng chưa đầy đủ. Vì điều 38 Luật các
CCCN 2005 quy định trong trường hợp người cầm cố HP không thực hiện đầy đủ,
đúng hạn nghĩa vụ được bảo đảm thì người nhận cầm cố sẽ trở thành người thụ
37

Xem mục II.14 Báo cáo thẩm tra về dự án Luật các công cụ chuyển nhượng của Ủy ban Kinh tế và Ngân
sách, Quốc hội khóa XI, số 1696/UBKTNS, ngày 25 tháng 4 năm 2005.

- 17 -


hưởng. Rõ ràng, người nhận cầm cố không đáp ứng bất kỳ điều kiện nào tại điều 4,
khoản 8 Luật các CCCN 2005, nhưng vẫn được xem là người thụ hưởng HP.
Khác với người ký phát, người bị ký phát và người phát hành, vấn đề năng lực
chủ thể của người thụ hưởng khơng quan trọng vì họ tham gia vào quan hệ HP với
tư cách là hưởng lợi, chứ không phải với tư cách lập, ký vào HP hoặc chi trả tiền
trên HP. Do vậy nếu người thụ hưởng là người chưa thành niên, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự hay người mất năng lực hành vi dân sự thì họ vẫn đều có
thể là hưởng lợi HP.

2.1.4. Ngƣời chuyển nhƣợng và ngƣời nhận chuyển nhƣợng
Theo điều 4, khoản 13 Luật các CCCN 2005 “Chuyển nhượng hối phiếu là việc
ngưởi thụ hưởng chuyển giao hối phiếu cho người nhận chuyển nhượng theo các
hình thức chuyển nhượng quy định tại Luật này”.
Như vậy, từ quan hệ chuyển nhượng HP có thể suy ra được:
i) Người chuyển nhượng HP chính là người thụ hưởng song họ khơng tiếp nhận
quyền này mà chuyển quyền này cho người khác thông qua các hình thức chuyển
nhượng theo quy định của pháp luật.
ii) Người nhận chuyển nhượng HP là người đã nhận quyền với tư cách là người
thụ hưởng từ người chuyển nhượng.
Tuy nhiên, nếu trên HP có các cụm từ “cấm chuyển nhượng”, “không được
chuyển nhượng” hoặc các cụm từ khác tương tự thì HP sẽ khơng được chuyển
nhượng (xem điều 32, khoản 2 Luật các CCCN 2005). Đối với các loại HP này,
không thể xuất hiện tư cách người chuyển nhượng và người nhận chuyển nhượng.
Ngoài ra, các chủ thể của quan hệ chuyển nhượng HP cũng phải đáp ứng điều
kiện năng lực chủ thể tương tự như người ký phát HPĐN, người phát hành HPNN.
Như vậy, nếu người ký phát, người phát hành có vai trị chính yếu trong việc tạo
ra HP, mở đầu cho quy trình thanh tốn HP và là tiền đề cho những khâu tiếp theo
của quy trình này, thì người chuyển nhượng và người nhận chuyển nhượng lại có
vai trị vơ cùng quan trọng trong việc phát huy tính lưu thơng của HP, góp phần tạo
cho thị trường giấy tờ có giá thêm sơi động. Đây cũng chính là một phương pháp
hữu hiệu để luân chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế.
2.2. Quy trình thanh tốn thơng qua cơng cụ hối phiếu
2.2.1. Phát hành hối phiếu
a) Khái niệm
Theo điều 4, khoản 12 Luật các CCCN 2005 “Phát hành hối phiếu là việc người
ký phát (hối phiếu đòi nợ) hoặc người phát hành lập (hối phiếu nhận nợ), ký và
chuyển giao hối phiếu lần đầu tiên cho người thụ hưởng”.

- 18 -



Tiếp đến, tại điều 3, khoản 1 nhà làm luật đã sử dụng phương pháp liệt kê để
quy định các cơ sở để HP có thể được phát hành:
- Giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, cho vay giữa các tổ chức, cá
nhân với nhau;
- Giao dịch cho vay giữa tổ chức tín dụng với tổ chức, cá nhân;
- Giao dịch thanh toán và giao dịch tặng cho theo quy định của pháp luật.
Nhưng đến khoản 2 điều này nhà lập pháp cũng khẳng định quan hệ HP độc lập
và không phụ thuộc vào các cơ sở phát hành. Vậy thì quy định các cơ sở phát hành
để làm gì?
Rõ ràng, quy định cơ sở phát hành HP là khơng cần thiết. Vì bản chất của HP là
trừu tượng, độc lập với giao dịch cơ sở đã phát sinh nó. Hơn nữa, sử dụng phương
pháp liệt kê như trên khơng tối ưu, vì khơng thể bao qt được hầu hết các vấn đề.
Mặt khác, mục đích ban hành Luật các CCCN 2005 là nhằm thúc đẩy hoạt động
thanh tốn bằng HP phát triển. Vì vậy quy định như trên có thể dẫn đến tình trạng
các bên trong quan hệ HP chỉ dám nhận chuyển nhượng HP nếu họ kiểm tra được
HP này được phát hành trên cơ sở các giao dịch mà luật cho phép 38. Điều này là đi
ngược lại bản chất của HP, đồng thời sẽ hạn chế tính lưu thơng của HP.
Thực chất, việc quy định các cơ sở này nhằm đề phòng trường hợp phát hành
HP “khống”. Nhưng quy định như trên lại bộc lộ nhiều mâu thuẫn. Vì vậy, cách tốt
nhất là nên đưa ra điều luật cấm phát hành “khống” hoặc ban hành văn bản riêng để
điều chỉnh. Đồng thời thiết lập các cơ chế kiểm tra sao cho có hiệu quả39.
b) Các yêu cầu cần tuân thủ khi phát hành hối phiếu
Nội dung của hối phiếu
HP được phát hành phải đáp ứng các yêu cầu bắt buộc về hình thức. Để thuận
tiện nghiên cứu, tác giả minh họa một HP mẫu ở Phụ lục I và trình bày các yếu tố
có trên HP dựa vào mẫu này.
Theo điều 16 và điều 53 Luật các CCCN 2005 thì về nguyên tắc trên hối phiếu
phải có các yếu tố sau đây:

Yếu tố thứ nhất40: mặt trước của tờ HP phải có cụm từ “hối phiếu đòi nợ” hoặc
“hối phiếu nhận nợ” nhằm phân biệt HP với các loại giấy tờ có giá khác, đặc biệt là
phân biệt giữa HPĐN với HPNN, giữa HP với séc. Từ đó có thể vận dụng đúng các
quy định pháp luật điều chỉnh cho từng loại khi xảy ra các tranh chấp.
Tuy nhiên, cách quy định của Luật các CCCN 2005 có thể dẫn đến hai cách
hiểu. Thứ nhất, cụm “hối phiếu đòi nợ” (hoặc “hối phiếu nhận nợ”) bắt buộc phải
được ghi ở phần tiêu đề. Cách hiểu thứ hai, chỉ cần mặt trước của tờ HP có cụm từ

38

Xem Nguyễn Văn Vân, tlđd.
Xem Nguyễn Văn Vân, tlđd.
40
Tác giả minh họa bằng số 1 trên mẫu hối phiếu ở Phụ lục I; các nội dung tiếp theo được minh họa theo
các số thứ tự tương ứng.
39

- 19 -


×