Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân cấp tỉnh về đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài những hạn chế, bất cập và giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.14 KB, 46 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ XUÂN DUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp Và Luật Hành Chính
Mã số chuyên ngành: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Minh Khôi
Học viên: Trần Thị Xuân Duyên
Lớp: Cao học luật, Tiền Giang Khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn này là cơng trình nghiên
cứu của riêng tơi. Các số liệu thể hiện trong luận văn này là xác thực. Các ý kiến,
khái niệm khoa học tham khảo từ các tài liệu khác đã được chú dẫn và liệt kê trong
tài liệu tham khảo. Các kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư
chưa được cơng bố trong các cơng trình nghiên cứu nào khác.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về những nội dung trên./.


Tác giả luận văn

Trần Thị Xuân Duyên


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH VỀ
VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ
TRONG VIỆC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ .....................6
1.1. Những bất cập và nguyên nhân ........................................................................6
1.2. Giải pháp ...........................................................................................................14
CHƯƠNG 2. CÔNG TÁC HƯỚNG DẪN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
VỀ VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ
TRONG VIỆC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ ...................16
2.1. Những bất cập và nguyên nhân ......................................................................16
2.2. Giải pháp ...........................................................................................................28
CHƯƠNG 3. CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH VỀ
VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ
TRONG VIỆC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ ...................31
3.1. Những bất cập và nguyên nhân ......................................................................31
3.2. Giải pháp ...........................................................................................................33
KẾT LUẬN ..............................................................................................................36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Năm 2014 là năm của cải cách thể chế với hàng loạt thay đổi tạo nên sự khác
biệt về chất của thể chế kinh tế, dự kiến mang lại những tác động to lớn, tích cực đối
với mơi trường kinh doanh và sự phát triển cộng đồng doanh nghiệp trong năm 2015,
nhất là trong việc thu hút các dự án có vốn đầu tư nước ngồi. Trong đó, Luật Đầu tư
số 67/2014/QH13 (Luật Đầu tư 2014), Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (Luật
Doanh nghiệp 2014) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ Tám có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2015, thay thế Luật Đầu tư năm 2005 đã tạo lập cơ
sở pháp lý quan trọng bảo đảm thực hiện các quy định của hiến pháp về quyền tự do
kinh doanh của công dân trong các ngành nghề mà luật không cấm; bãi bỏ các yêu
cầu, điều kiện tại thời điểm thành lập doanh nghiệp; đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn
thời gian thành lập doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà
đầu tư nước ngoài1.
Về cơ bản Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp năm 2014 đã tạo bước chuyển
biến mới về cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện hoạt động đầu tư gắn liền
với việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động đầu tư2. Thực hiện quy định pháp luật về đầu tư, kinh doanh, các bộ
ngành, địa phương có quan tâm chỉ đạo cơng tác cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư, đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, cơng tác quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quan tâm thực
hiện, tạo sự đồng bộ trong quản lý dự án có vốn đầu tư nước ngoài từ trung ương
đến địa phương.
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ năm 1991 đến năm
2016, Việt Nam đã thu hút được 151,39 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài3. Đặc biệt là
từ sau khi Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành đã phân cấp mạnh mẽ cho địa
phương trong việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý các dự án có vốn đầu tư
nước ngồi, chuyển thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư từ Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh sang Sở Kế hoạch và Đầu tư. Luật giúp đề cao ý thức trách nhiệm
1

Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 07 tháng 8 năm 2015 của Chính phủ về triển khai thi hành Luật Doanh

nghiệp và Luật Đầu tư
2
Tờ trình số 89/TTr-CP ngày 10 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ Về Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi)
3
Nguồn: Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài của Cục Đầu tư nước ngoài


2
của người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi lựa chọn dự án và nhà đầu tư trên
căn bản lợi ích địa phương, ra quyết định đầu tư trên cơ sở năng lực đội ngũ cán bộ
đã được nâng lên đủ bảo đảm thẩm định những dự án lớn theo đúng tiêu chí do
Trung ương quy định, đã thúc đẩy hơn nữa tình hình thu hút đầu tư nước ngồi.
Theo số liệu của hệ thống thơng tin về Đầu tư nước ngồi, tính đến ngày 20
tháng 11 năm 2016 cả nước có 2.240 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư
với tổng vốn đăng ký là 13,028 tỷ USD, bằng 96,1% so với cùng kỳ năm 2015, tổng
vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 18,103 tỷ USD, bằng 89,5% so với cùng kỳ
năm 2015. Tính đến ngày 20 tháng 03 năm 2017 cả nước có 493 dự án mới được
cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 2,917 tỷ USD, tăng 6,5% so
với cùng kỳ năm 2016; có 223 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn
đăng ký tăng thêm là 3,94 tỷ USD, tăng 206,4 % so với cùng kỳ năm 2016 và 1077
lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là
852,86 triệu USD, tăng 171,5% so với cùng kỳ 2016. Những con số này đã minh
chứng cho những tác động tích cực của luật đầu tư đến môi trường kinh doanh tại
Việt Nam.
Luật Doanh nghiệp 2014, Luật đầu tư 2014 với nhiều cải cách đáng kể, trao
quyền tự chủ nhiều hơn cho doanh nghiệp, sửa đổi bổ sung những quy định mới
nhằm tháo gỡ những bất cập, hạn chế của luật cũ, phù hợp với xu hướng chung của
thế giới. Tuy nhiên, qua gần ba năm triển khai thi hành Luật Đầu tư và Luật Doanh
nghiệp 2014 vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, vướng mắc, gây khó khăn trong hoạt
động quản lý đối với dự án có vốn đầu tư nước ngồi, cần được nghiên cứu và kiến

nghị giải pháp hoàn thiện.
Trước yêu cầu đó, việc nghiên cứu, phân tích, đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đăng ký đầu tư đối với
dự án có vốn đầu tư nước ngồi hiện nay là cần thiết về mặt thực tiễn. Với những lý
do trên, tôi chọn đề tài: “quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân cấp tỉnh về đăng ký
đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài: những hạn chế, bất cập và giải pháp
khắc phục” làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua ở nước ta có nhiều cơng trình nghiên cứu về quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ở các góc độ khác nhau như:


3
Nguyễn Thị Thanh Hải (2012), “Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” Luận văn Thạc sĩ của Đại học
quốc gia Đà Nẵng đã đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngồi, khẳng định vai trị của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh
tế, nêu lên sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với loại hình doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay. Nêu hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngồi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và thực trạng hoạt động
quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp đó, các thành tựu đạt được một số yếu
kém cần khắc phục và chỉ ra các nguyên nhân của những hạn chế yếu kém đó, đưa ra
một số giải pháp để nâng cao hơn nữa công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Nguyễn Thị Hải Yến (2012), “hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”, luận văn thạc sĩ ngành
kinh tế chính trị - trường đại học kinh tế - đại học quốc gia Hà Nội đã đề cập đến nội
dung lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi ở địa bàn cấp tỉnh, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua để từ

đó đề xuất phương hướng quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này trong
thời gian tới.
Một số tác giả khác cũng có những cơng trình nghiên cứu hồn thành, đã
được cơng bố, in ấn, phát hành hoặc đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành tiêu
biểu như: GS.TS Nguyễn Bích Đạt (2002), “khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi- vị trí, vai trị của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam”, đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước KX01.05, Hà Nội; Nguyễn
Chí Dũng, luận án tiến sĩ Kinh tế - Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996, “Hoàn
thiện cơ chế tổ chức và quản lý hoạt động FDI ở Việt Nam”; Trần Xn Giá (2001),
“mơi trường và chính sách đầu tư nước ngồi tại Việt Nam”, Tạp chí kinh tế và dự
báo số 3/2001; Thanh Thủy (2010), “vốn FDI thu hút và quản lý sao cho hiệu quả”,
Báo Thơng tin Tài chính số 16/2010.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đã đề cập đến công tác
quản lý nhà nước đối với dự án có vốn đầu tư nước ngồi với các mức độ, góc nhìn
khác nhau, khơng gian và thời gian riêng. Tuy nhiên do Luật Đầu tư và Luật doanh
nghiệp 2014 mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2015 nên hầu hết các công


4
trình nghiên cứu hiện nay vẫn cịn chưa cập nhập hay cập nhập chưa đầy đủ những
đổi mới của thủ tục đăng ký đầu tư, thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Do vậy, luận văn là những cập nhập, những phát hiện về mặt thực tiễn những
quy định pháp luật được ghi nhận trong Luật Đầu tư năm 2014 nhằm đề xuất giải
pháp nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về đăng
ký đầu tư có vốn nước ngồi. Đồng thời, hy vọng rằng sau đề tài này, các nhà làm
luật cũng như các cơ quan tổ chức hành chính nhà nước cùng các cá nhân, tổ chức có
nhu cầu trong đầu tư, thành lập doanh nghiệp sẽ có cái nhìn khách quan về thực tiễn
pháp lý đối với vấn đề đăng ký đầu tư, thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

1.2. Mục đích
Đánh giá cơng tác quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân cấp tỉnh về đăng ký
đầu tư đối với những dự án có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ ra những bất cập, hạn chế
và kiến nghị giải pháp khắc phục những bất cập trong công tác quản lý nhà nước.
1.3. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của luận văn làm rõ hạn chế, bất cập trong thực tiễn quản lý nhà
nước của ủy ban nhân dân cấp tỉnh về đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư
nước ngồi ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả, hiệu lực góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước của ủy ban
nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện pháp luật đầu tư, doanh nghiệp đối với dự án có
vốn đầu tư nước ngồi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những hoạt động quản lý nhà nước của
ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong đăng ký đầu tư, thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam hiện nay trong phạm vi các quy định cụ thể của Luật đầu tư
năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực tiễn về những vướng mắc trong quản lý nhà nước của Ủy


5
ban nhân dân tỉnh về đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngồi. Nội
dung nghiên cứu nêu trên sẽ thực hiện trên cơ sở so sánh, tổng hợp tại một số tỉnh
Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp,...
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn tác giả sử dụng phương pháp đánh giá, so sánh, thống kê,
phân tích quy phạm để làm sáng tỏ về mặt thực tiễn của đề tài trong từng nội dung
cụ thể, phân tích quy phạm để giải quyết nhiệm vụ kiến nghị các giải pháp.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả

nghiên cứu
Luận văn nêu rõ những hạn chế vướng mắc trong việc áp dụng quy định
của pháp luật trong thực tiễn về quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân tỉnh về
đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong phạm vi cả nước; đề
xuất một số giải pháp nhằm góp phần hồn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về đăng ký đầu tư đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Nội dung được trình bày trong luận văn có thể
được sử dụng tham khảo cho việc áp dụng vào thực tiễn tại các cơ quan đăng ký
đầu tư cấp tỉnh; nâng cao tính linh hoạt trong hoạt động kinh doanh và tạo điều
kiện xây dựng một môi trường kinh doanh thơng thống, thuận lợi và minh bạch
hơn cho nhà đầu tư nước ngoài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Công tác chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan đăng ký đầu tư trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
Chương 2. Công tác hướng dẫn của ủy ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan đăng ký đầu tư trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
Chương 3. Công tác giám sát của ủy ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan đăng ký đầu tư trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư


6
CHƯƠNG 1
CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
VỀ VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ
TRONG VIỆC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ
1.1. Những bất cập và nguyên nhân
Việc phân cấp cho chính quyền địa phương trong quản lý dự án có vốn đầu
tư nước ngồi được thực hiện kể từ khi Luật Đầu tư năm 2006 ban hành. Đến Luật

Đầu tư năm 2016 đã phân cấp mạnh mẽ hơn nữa trong việc cấp giấy chứng nhận
đầu tư cho các dự án có vốn đầu tư nước ngồi, đã mở ra tồn diện, khơng giới hạn
qui mơ dự án, bao gồm cả việc thẩm định, cấp phép, quản lý nhà nước cho địa
phương thực hiện. Theo phỏng vấn ý kiến của các chuyên gia kinh tế, việc phân cấp
đã đáp ứng nhu cầu phát triển, thu hút dự án đầu tư nước ngoài của một nền kinh tế
đang cần các nguồn vốn để phát triển. Vốn dự án đầu tư nước ngoài vào đầu tư tại
Việt Nam đã giúp địa phương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho
lực lượng lao động, đóng góp và ngân sách địa phương. Bên cạnh đó, vốn dự án đầu
tư nước ngồi cũng giúp các địa phương đẩy nhanh cải cách thủ tục hành chính, xóa
cơ chế “xin - cho", phát huy được năng lực, tính chủ động, trách nhiệm của địa
phương; giảm thiểu các chi phí liên quan đến việc hình thành dự án cho các doanh
nghiệp, nhà đầu tư…
Việc phân cấp quản lý nhà nước về đăng ký đầu tư cho ủy ban nhân dân cấp
tỉnh thực hiện theo quy định tại Khoản 5 Điều 68 Luật Đầu tư 2014 về trách nhiệm,
quyền hạn ủy ban nhân dân cấp tỉnh, sở kế hoạch và đầu tư, ban quản lý các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế: chủ trì thực hiện thủ tục
cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền. Điều 58 Nghị định
118/2014/NĐ-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban nhân dân cấp tỉnh: chịu
trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của Cơ quan
đăng ký đầu tư trong việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và quản lý hoạt
động đầu tư ở địa phương; chỉ đạo cơ quan đăng ký đầu tư, cơ quan đăng ký kinh
doanh và các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, môi trường, xây dựng thực hiện
liên thông thủ tục để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong quá trình thực
hiện hoạt động đầu tư. Điều 32 Luật Đầu tư 2014 quy định rõ ràng thẩm quyền


7
chấp thuận chủ trương đầu tư của ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với dự án đầu tư
ngoài thẩm quyền chấp thuận của Quốc hội, Thủ tướng chính phủ thì những dự án

đầu tư được nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu hoặc
nhận chuyển nhượng; dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất; dự án có sử
dụng cơng nghệ thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao theo quy định của
pháp luật về chuyển giao công nghệ.
Thực hiện quy định của Luật Đầu tư và Nghị định số 118/2015/NĐ-CP, ủy
ban nhân dân cấp tỉnh đã chỉ đạo các sở ngành đẩy mạnh triển khai thực hiện thủ tục
hành chính về đầu tư đặc biệt là đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước
ngồi. Trên cơ sở chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ngành đã tập trung cải
cách quy trình giải quyết hồ sơ, thủ tục, thời gian giải quyết, quy trình thẩm tra,
thẩm định các hồ sơ, dự án theo tinh thần bảo đảm rõ ràng, công khai, kịp thời và
hiệu quả. Việc phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương trong thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước đối với đăng ký đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi tạo nên làn sóng thi đua giữa các tỉnh trong việc thu hút dự án có vốn đầu tư
nước ngồi. Tuy nhiên, trong q trình triển khai thực hiện, do đặc điểm tình hình
của từng địa phương nên công tác chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh đối với đăng ký
đầu tư cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn nhiều bất cập như sau:
Thứ nhất, công tác chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh trong việc thực hiện
các thủ tục hành chính có liên quan đến đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư
nước ngồi. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo xây dựng và ban hành bộ thủ tục hành
chính trong lĩnh vực đầu tư nhất là thủ tục hành chính trong cấp và điều chỉnh giấy
chứng nhận đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các thủ tục
đầu tư có liên quan đến điều kiện kinh doanh đối với tổ chức có vốn đầu tư nước
ngồi chưa cơng bố vì cịn phải phụ thuộc vào việc rà sốt ban hành điều kiện kinh
doanh của các bộ ngành trung ương. Mặc dù Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp quy
định các trường hợp thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện
thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư trong lĩnh vực đầu
tư có điều kiện khơng cần lấy ý kiến các Bộ ngành Trung ương. Tuy nhiên trên thực
tế, một số địa phương còn thực hiện thủ tục lấy ý kiến Bộ ngành trung ương về
ngành nghề kinh doanh có điều kiện mà nhà đầu tư nước ngồi đăng ký hoạt động
do ngành nghề kinh doanh này chưa có trong biểu cam kết WTO, trong khi ngành

nghề kinh doanh này đã được quy định theo pháp luật chuyên ngành trong nước.


8
Điều này gây khó khăn trong việc chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh trong công bố
thủ tục hành chính, quy trình thực hiện thủ tục hành chính thường kéo dài do phải
chờ hướng dẫn của trung ương.
Chẳng hạn, hiện nay chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đối với
trường hợp bổ sung ngành nghề kinh doanh của các tổ chức kinh tế có nhà đầu tư
nước ngồi đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp, mà ngành
nghề kinh doanh dự kiến bổ sung đó thuộc trường hợp phải xin ý kiến của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư theo quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 118/NĐCP ngày 12/11/2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu
tư 2014 gây khó khăn cho cơ quan đăng ký đầu tư trong việc thực hiện thủ tục cấp
điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi.
Theo đó, đối với một tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngồi đầu tư theo
hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp muốn bổ sung một ngành nghề kinh
doanh mà Việt Nam chưa cam kết theo các điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam
chưa có quy định về điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngồi, thì chưa xác
định được trình tự, thủ tục đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh này như thế
nào, chưa quy định rõ Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sẽ được cấp cho ai, tổ chức
kinh tế hay nhà đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư 2014 và các văn bản hướng dẫn thi
hành dường như chưa dự liệu được tình huống này, do đó chưa có các quy định
hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn cho cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư trong việc
cơng bố thủ tục hành chính, đồng thời gây cản trở cho hoạt động đầu tư của các nhà
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tại tỉnh Bến Tre, Cơng ty TNHH Yeah1 Network Việt Nam góp vốn với
Công ty trong nước thành lập pháp nhân, nộp hồ sơ đăng ký thực hiện dự án Trung
tâm nội dung số tại thành phố Bến Tre với ngành nghề đăng ký kinh doanh là
“quảng cáo điện tử, dịch vụ tạo lập nội dung số”. Sau khi thẩm định hồ sơ, Sở

Kế hoạch và Đầu tư gửi văn bản lấy ý kiến của các Bộ ngành Trung ương. Đối với
ngành nghề “quảng cáo điện tử”, theo Biểu cam kết về dịch vụ của Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có cam kết về dịch vụ quảng cáo (với
mã ngành CPC 871, trừ dịch vụ quảng cáo thuốc lá) và kể từ ngày 01/01/2009
không hạn chế tỷ lệ góp vốn của phía nước ngồi trong liên doanh. Đối với ngành
nghề “dịch vụ tạo lập nội dung số”, theo Biểu cam kết về dịch vụ của Việt Nam gia


9
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì khơng cam kết dịch vụ tạo lập nội
dung số. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này
(Luật Công nghệ thông tin, Nghị định số 72.2013/NĐ-CP) khơng hạn chế tỷ lệ góp
vốn đối với nhà đầu tư nước ngồi. Hiện nay có nhiều ngành nghề đăng ký kinh
doanh nhưng chưa được bổ sung mã ngành, nghề tại hệ thống ngành kinh tế Việt
Nam ban hành kèm theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/01/2007. Tuy
nhiên, “phim số (video dưới dạng số, phim dưới dạng số, phim hoạt hình số), ảnh
số, nhạc số, quảng cáo số” là một trong những sản phẩm được quy định tại Mục 6
Phụ lục danh mục sản phẩm nội dung thông tin số của Thông tư số 43/2016/TTBTTTT ngày 26/12/2016 của Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành danh mục
sản phẩm nội dung thơng tin. Vì vậy, Cơng ty TNHH Yeah1 Network Việt Nam
đăng ký Trung tâm nội dung số với ngành nghề “dịch vụ tạo lập nội dung số” và
“quảng cáo điện tử” là phù hợp với quy định của Luật chuyên ngành (Thông tư số
43/2016/TT-BTTTT). Việc cơ quan đăng ký đầu tư lấy ý kiến các Bộ ngành Trung
ương là không cần thiết.
Thứ hai, chỉ đạo trong việc xây dựng chính sách thu hút đầu tư nhất là các
dự án có vốn đầu tư nước ngồi. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành một số chính
sách ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên xét về thực tế, một số chính sách
chưa triển khai và nhà đầu tư cũng chưa được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư đã
được quy định. Ví dụ: chính sách ưu đãi đầu tư dự án chợ, chính sách ưu đãi đầu tư
về hạ tầng khu cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Nguyên nhân do ngân
sách địa phương khơng thể đáp ứng được việc thực hiện chính sách ưu đãi đã quy

định trong khi chưa có bảng giá đất cụ thể đối với các trường hợp thu hồi đất giải
phóng mặt bằng.
Thứ ba, theo quy định tại Khoản 5 Điều 68 Luật Đầu tư 2014 ủy ban nhân
dân tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan đăng ký đầu tư, cơ quan đăng ký kinh
doanh và các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, môi trường, xây dựng thực hiện
liên thông thủ tục để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện
hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, hiện nay tại các địa phương chưa thực hiện công tác
chỉ đạo cơ quan đăng ký đầu tư, kinh doanh, đất đai, môi trường, xây dựng thực
hiện liên thông thủ tục (Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp). Các địa phương đang
thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 43/NQ-CP ngày 06/6/2014 của Chính
phủ. Tuy nhiên, Nghị quyết số 43 ban hành trước thời điểm Luật Đầu tư 2014 ban


10
hành nên dẫn đến hiệu quả, tác động và thực hiện liên thông tại các địa phương
chưa đạt hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu do một số phương án, nhiệm vụ cải cách
đã được bộ, ngành triển khai nhưng chưa thực hiện đầy đủ, đúng nội dung giải pháp
được giao tại Nghị quyết số 43/NQ-CP; hệ thống pháp luật có liên quan đến đầu tư
kinh doanh nhất là đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi còn chồng
chéo, chưa đồng bộ.
Chẳng hạn, Điều 33 Nghị định 73/2012/NĐ-CP ngày 26/9/2012 của Chính
phủ, quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục hồ sơ đề
nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư bao gồm giải trình kinh tế - kỹ thuật; đề án tiền
khả thi và tuân thủ theo Điều 34 Nghị định này, việc lấy ý kiến của các Bộ, Sở
ngành có liên quan là một trong các thủ tục phải thực hiện để thẩm tra điều kiện cấp
Giấy chứng nhận đầu tư. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 32 Luật Đầu tư 2014 đã
bãi bỏ thẩm quyền quyết định đầu tư của Chính phủ với dự án giáo dục. Vậy nhưng
quy định phải có chủ trương đầu tư của Chính phủ tại Nghị định 73/2012/NĐ-CP
vẫn chưa được điều chỉnh.
Chẳng hạn, Luật Đầu tư năm 2014 và các văn bản quy định đối với doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt
động liên quan trực tiếp đến hoạt động mua bán hàng hóa. Cụ thể, hoạt động mua
bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến hoạt động mua bán hàng hóa
là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (phải thực hiện đề nghị cấp giấy phép kinh doanh sau
khi có ý kiến của Bộ Cơng Thương), tuy nhiên chưa quy định rõ, thời gian nhà đầu
tư phải thực hiện là cùng lúc hay sau khi đề nghị cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư, thông báo mua vốn góp, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngồi. Mặt khác, cơ
quan đăng ký đầu tư gặp khó khăn trong việc tham mưu cấp số giấy phép kinh
doanh, giấy phép bán lẻ đối với các doanh nghiệp trở thành doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi thuộc trường hợp không bắt buộc phải thực hiện đề nghị cấp giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư (Cách ghi số Giấy phép kinh doanh: Số Giấy phép bao
gồm: số Giấy chứng nhận đầu tư và “- KD”).
Mỗi địa phương chỉ đạo thực hiện thủ tục liên thông khác nhau. Đối với dự
án đầu tư trong khu cơng nghiệp thì áp dụng các thủ tục liên thơng đối với thủ tục
hành chính liên quan đến đầu tư, đất đai, môi trường xây dựng. Tại tỉnh Bến Tre,
đối với các dự án đầu tư bên ngồi khu cơng nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ
đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư xây dựng thành lập tổ cung cấp dịch vụ hành chính


11
cơng trong thực hiện thủ tục đầu tư. Theo đó, các sở, ngành tỉnh có liên quan đến
thủ tục đầu tư, điều kiện kinh doanh, xây dựng, môi trường, đất đai phối hợp thực
hiện việc hỗ trợ nhà đầu tư trong thực hiện các thủ tục có liên quan đến đầu tư. Tại
tỉnh Tiền Giang, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư xây dựng
và ban hành quy chế phối hợp trong giải quyết thủ tục đầu tư đối với dự án đầu tư
ngoài các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Việc thực hiện quy
chế phối hợp chỉ áp dụng đối với các thủ tục có liên quan đến cấp quyết định chủ
trương đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư, điều chỉnh quyết định chủ trương, cấp
giấy chứng nhận đầu tư, giãn tiến độ, chuyển nhượng dự án. Tại tỉnh Đồng Tháp,
thành lập trung tâm hành chính cơng của tỉnh để tiếp nhận và giải quyết các thủ tục

hành chính có liên quan đến đầu tư, xây dựng, đất đai, môi trường là bộ phận đầu
mối tiếp xúc với nhà đầu tư từ khi hướng dẫn thủ tục, tiếp nhận hồ sơ đến khi trả kết
quả. Ngoài hồ sơ quy định tại Quy trình này, nhà đầu tư khơng phải nộp thêm bất kỳ
một loại tài liệu nào khác. Trung tâm Hành chính cơng chủ động phối hợp với các
sở, ban ngành tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết theo thẩm quyền. Tại
Bến Tre, Tiền Giang, nguyên nhân chưa thực hiện thủ tục liên thông là do các địa
phương chưa có cán bộ đủ năng lực để tiếp nhận tất cả các thủ tục đầu tư, xây dựng,
môi trường.
Thứ tư, đối với dự án thuộc thẩm quyền cấp quyết định chủ trương của thủ
tướng chính phủ, Luật Đầu tư 2014 không quy định thời hạn giải quyết đối với thủ
tục hành chính nên thường kéo dài gây khó khăn trong việc chỉ đạo ủy ban nhân dân
tỉnh đối với cơ quan trong việc tổng hợp trả lời cho doanh nghiệp về thời hạn giải
quyết thủ tục hành chính có liên quan đến đầu tư. Ví dụ: dự án đầu tư hạ tầng khu
công nghiệp; lấy ý kiến các bộ ngành trong việc đáp ứng điều kiện kinh doanh của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ
tướng Chính phủ được quy định tại Điều 31 Luật Đầu tư. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ theo quy định4, Cơ quan đăng ký đầu tư
gửi hai bộ hồ sơ cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư đồng thời gửi hồ sơ cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền liên quan đến dự án đầu tư để lấy ý kiến về các nội dung quy
định tại Khoản 3 Điều 30. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị
của cơ quan đăng ký đầu tư, các cơ quan quy định tại Khoản 3 Điều 30 có ý kiến về
4

Khoản 2 Điều 31 Luật Đầu tư 2014


12
những nội dung thuộc phạm vi quản lý nhà nước của mình gửi Cơ quan đăng ký đầu
tư và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong thực tế cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên

quan đến dự án đầu tư (cấp bộ) có ý kiến phản hồi thường chậm hơn so với thời
gian quy định hoặc khơng có văn bản phản hồi, nên cơ quan đăng ký đầu tư tổng
hợp gặp nhiều khó khăn. Mặc khác, quy định cơ quan đăng ký đầu tư cấp tỉnh, lấy ý
kiến cấp bộ cao hơn, nên gặp nhiều điều kiện không thuận lợi cho dự án đề xuất.
Thứ năm, việc các bộ ngành trung ương chưa rà soát bổ sung quy hoạch
thuộc ngành lĩnh vực quản lý gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư
trong việc xác nhận sự phù hợp quy hoạch kế hoạch sử dụng đất. Chẳng hạn, tại các
tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi đang tìm hiểu thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án
điện năng lượng sạch. Nhận thấy, các khu vực ven biển đất làm muối không đem lại
thu nhập cho người dân nên các địa phương chủ động điều chỉnh kế hoạch sử dụng
đất để kêu gọi đầu tư dự án điện năng lượng mặt trời trình Sở Cơng thương chấp
thuận về quy hoạch ngành. Tuy nhiên, trả lời địa phương, Bộ Công thương khơng
chấp thuận quy hoạch tồn khu mà chỉ chấp thuận đối với từng dự án. Vì vậy, trong
thời gian qua tỉnh chưa có căn cứ để chấp thuận chủ trương đối với dự án trong lĩnh
vực nói trên. Tại một số địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo thành lập tổ
vận động để tuyên truyền, vận động và và lấy ý kiến các hộ dân có diện tích đất sản
xuất muối ở huyện ven biển về chủ trương tỉnh kêu gọi đầu tư dự án điện năng
lượng mặt trời. Từ đó, vận động các hộ dân cho các đơn vị đầu mối thuê đất của dân
để cho nhà đầu tư thuê lại đất thực hiện dự án đầu tư. Việc chỉ đạo trên, không đúng
quy định Luật Đầu tư 2014 và Luật Đất đai 2013.
Có trường hợp do nhu cầu thu hút đầu tư dự án có vốn đầu tư nước ngoài,
Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các huyện cho nhà đầu tư “nợ” kế hoạch sử dụng đất
cho năm sau. Trường hợp Công ty Y (Hong Kong) đầu tư nhà máy sản xuất thú
nhồi bông tại huyện B. Công ty thực hiện việc mua đất của các hộ dân để xây dựng
nhà máy. Sau khi lấy ý kiến các ngành có liên quan, Sở Kế hoạch và Đầu tư có báo
cáo ủy ban nhân dân tỉnh không chấp thuận chủ trương đầu tư dự án của Cơng ty do
phần diện tích đất của Cơng ty không phù hợp quy hoạch đất sản xuất kinh doanh
(theo quy hoạch đã được công bố là đất trồng cây lâu năm). Tuy nhiên, do nhu cầu
thu hút đầu tư ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo ủy ban nhân dân huyện đưa vào kế

hoạch sử dụng đất để chuyển đổi mục đích sang đất sản xuất kinh doanh. Vì vậy, ủy


13
ban nhân dân tỉnh đã cấp quyết định chủ trương đầu tư cho công ty. Tuy nhiên, do
không phù hợp quy hoạch sử dụng đất nên Công ty chưa thể thực hiện thủ tục thuê
đất, cấp giấy phép xây dựng, chưa đánh giá tác động mơi trường. Sau đó, Thanh tra
Sở Xây dựng đi kiểm tra thì phát hiện Cơng ty đang xây dựng nhà xưởng nhưng
chưa thực hiện thủ tục cấp giấy phép xây dựng. Sở chỉ nhắc nhở để Công ty bổ sung
giấy phép xây dựng sau khi hoàn tất thủ tục ký hợp đồng thuê đất. Qua tình huống
trên cho thấy, từ chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh gây khó khăn cho các cơ quan
chuyên môn trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các dự án có
vốn đầu tư nước ngồi, khơng đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật có
liên quan đến đầu tư, xây dựng và môi trường.
Nguyên nhân chủ yếu là do quỹ đất sạch dành kêu gọi đầu tư tại các khu
cụm công nghiệp khơng cịn nên hầu hết địa điểm thực hiện dự án do nhà đầu tư đề
xuất. Vì vậy, nếu các dự án đặt ở vị trí đúng với vùng quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất trước đó thì việc chuyển mục đích sử dụng đất, thuê đất phù hợp với Điều 52
Luật Đất đai năm 2013. Tuy nhiên, đối với các dự án đặt ở vị trí khơng theo quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất sẽ gây khó khăn cho cơ quan quản lý về đầu tư, đất
đai, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án đầu tư do phải điều chỉnh, bổ sung quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thứ sáu, chưa có chỉ đạo thống nhất hệ thống và nhiệm vụ của các cơ quan
chuyên môn trong việc thực hiện cấp giấy chứng nhận đầu tư. Chẳng hạn, tại Đồng
Tháp, việc thực hiện nhiệm vụ đăng ký đầu tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi do Phòng Hợp tác đầu tư thực hiện. Tại tỉnh Tiền Giang, việc thực hiện
nhiệm vụ đăng ký đầu tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi do Phòng
Hợp tác đầu tư thực hiện. Tại tỉnh Bến Tre, việc thực hiện nhiệm vụ đăng ký đầu tư đối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi do Phịng đăng ký kinh doanh thực hiện.
Tóm lại, với quyết tâm cải thiện hơn môi trường đầu tư, tạo niềm tin của

nhà đầu tư, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế tại các
địa phương, Luật Đầu tư 2014 đã phân cấp mạnh mẽ quản lý nhà nước về đầu tư
cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng Luật Đầu tư vào
thực tiễn, sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, tại một số địa phương chưa đồng bộ,
còn một số hạn chế của Ủy ban nhân dân tỉnh trong thực hiện các hoạt động cấp
giấy chứng nhận đầu tư.


14
1.2. Giải pháp
Từ phân tích hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong công tác chỉ đạo của ủy
ban nhân dân tỉnh đối với cơ quan đầu tư trong đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn
đầu tư nước ngoài, đề xuất giải pháp hoàn thiện như sau:
Một là, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp chủ động phối hợp với Tổ
công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Ðầu tư rà soát, đánh giá các quy định
về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý. Kiên quyết bãi bỏ
những quy định khơng cịn cần thiết, bổ sung, sửa đổi những quy định cho phù hợp,
tạo bước đột phá trong đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động
kinh doanh. Sớm nghiên cứu, kiến nghị Chính phủ ban hành danh mục các điều
kiện đối với dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
Hai là, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần tổ chức hợp lý các đơn vị trực tiếp
thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật Ðầu tư theo hướng tập trung một đầu mối và kết
nối hệ thống, nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ cho cán bộ, công chức, phối
hợp giữa các sở, Ủy ban nhân dân cấp huyện trong quản lý doanh nghiệp. Trước
tiên, các Bộ ngành Trung ương cần có văn bản phối hợp ban hành quy chế thực hiện
liên thông hồ sơ thủ tục có liên quan đến đầu tư, đất đai, môi trường, xây dựng để
làm căn cứ các tỉnh thực hiện thủ tục liên thông tại địa phương.
Ba là, rà soát các quy định về đầu tư về thời điểm cấp quyết định chủ
trương đầu tư cho phù hợp với thời điểm đánh giá tác động môi trường của dự án
đầu tư. Sửa đổi, bổ sung Điều 33 Luật Đầu tư quy định thành phần hồ sơ đề nghị

cấp quyết định chủ trương có nội dung đánh giá tác động môi trường của dự án đầu
tư và nội dung thẩm định hồ sơ của cơ quan quản lý đầu tư. Trong thời gian chờ luật
sửa đổi, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thống nhất ban hành
văn bản hướng dẫn các địa phương tại thời điểm quyết định chủ trương đầu tư hoặc
cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư không yêu cầu nhà đầu tư phải có quyết định
phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Bốn là, chấn chỉnh việc chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đầy
đủ; khắc phục các chồng chéo, khơng thống nhất trong quy trình thủ tục hành chính
thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất do việc hoàn thiện hệ thống pháp luật liên
quan đến dự án đầu tư mà chưa bám sát, tn thủ đúng quy trình đã được Chính phủ
thơng qua tại Nghị quyết số 43/NQ-CP; bãi bỏ thủ tục Cấp giấy chứng nhận đăng


15
ký đầu tư đối với các dự án đầu tư có sử dụng đất khơng thuộc lĩnh vực đầu tư có
điều kiện của nhà đầu tư nước ngồi và tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều
23 Luật Đầu tư năm 2014.
Năm là, đầu tư nhiều hơn vào công tác đào tạo nguồn cán bộ thực hiện công
tác quản lý nhà nước các cấp về dự án có vốn đầu tư nước ngoài, về những kiến
thức và kỹ năng quản lý phù hợp với cấp độ và công việc quản lý mang tính chuyên
nghiệp cao; kết hợp giữa các cơ quan quản lý các cấp với các cơ quan nghiên cứu,
cơ sở đào tạo trong và ngoài nước để tận dụng nguồn lực chất lượng cao phục vụ xử
lý các vấn đề phức tạp phát sinh trong hệ thống quản lý được phân cấp. Các địa
phương và các ban quản lý khu công nghiệp cần chủ động xây dựng kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, trước hết đối với các cán bộ hiện đang công tác trong lĩnh vực xây
dựng quy hoạch, soạn thảo và cơng bố chính sách, quy định cũng như phương thức
xử lý các vấn đề phát sinh. Các bộ đặc biệt là Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Công Thương và các cơ quan khác cần tổ chức nhiều lớp tập huấn để thống báo
và huấn luyện nghiệp vụ giải quyết các vấn đề được phân cấp về quản lý dự án có
vốn đầu tư nước ngồi.

Tóm lại, cơ chế phân cấp quản lý dự án đầu tư nước ngồi cho chính quyền
địa phương là chủ trương đúng đắn. Mặc dù vậy, việc thực hiện phân cấp đầu tư này
chưa phù hợp với tình hình thực tế nên đã bộc lộ nhiều hạn chế. Để khắc phục
những hạn chế của cơ chế phân cấp này thì việc phân cấp cần đi kèm với luật pháp,
chính sách rõ ràng, đồng bộ, các quy định cụ thể về điều kiện thực hiện phân cấp
cùng hệ thống quy hoạch ngành, lĩnh vực gắn với quy hoạch vùng lãnh thổ và địa
phương được xây dựng đầy đủ, công khai để địa phương dễ dàng áp dụng trong quá
trình thẩm định, quản lý, giám sát các dự án dự án đầu tư nước ngoài. Ðồng thời, cơ
chế kiểm tra, giám sát và xử lý những vi phạm liên quan đến phân cấp cần thực hiện
thường xuyên và nghiêm túc.


16
CHƯƠNG 2
CÔNG TÁC HƯỚNG DẪN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
VỀ VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ
TRONG VIỆC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ
2.1. Những bất cập và nguyên nhân
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 Nghị định số 118 quy định Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm hướng dẫn việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan đăng
ký đầu tư trong việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và quản lý hoạt động đầu
tư ở địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế việc hướng dẫn trên chưa được thực hiện
tại các địa phương:
Thứ nhất, ủy ban nhân dân tỉnh chưa chủ động trong việc hướng dẫn thực
hiện thủ tục hành chính có liên quan đến đầu tư, còn chờ hướng dẫn của các bộ
ngành trung ương; chưa có hướng dẫn về hình thức, nội dung, trình tự, thủ tục thẩm
định việc đáp ứng điều kiện kinh doanh đối với nhà đầu tư nước ngoài. Điều này
gây khó khăn cho cơ quan tham mưu cấp giấy chứng nhận đầu tư trong việc hướng
dẫn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi thực hiện thủ tục hành chính có liên
quan đến đầu tư kinh doanh. Theo Điều 5 Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày

12/02/2007 của Chính phủ, quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua
bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cơ quan đăng ký đầu tư phải lấy ý
kiến của Bộ Công Thương và chỉ cấp chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư nước ngồi
thực hiện hoạt động mua bán hàng Giấy hóa và các hoạt động liên quan đến mua
bán hàng hóa nếu được Bộ Công Thương chấp thuận bằng văn bản. Tuy nhiên, tại
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp cũng như Nghị quyết 59 của Chính phủ lại quy
định khơng cịn u cầu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phải xin ý kiến khi
hoạt động mua bán hàng hóa. Hiện tại Nghị định 23 của Chính phủ vẫn cịn hiệu lực
nên đây là những sự chồng chéo so với Luật Đầu tư và cần phải loại bỏ.
Bên cạnh đó, mặc dù Luật Đầu tư có quy định thời gian các bộ ngành trung
ương trả lời cho địa phương nhưng thực tế văn bản thường trả lời chậm. Mặt khác,
khi cho ý kiến các bộ, ngành thường đề nghị địa phương lấy ý kiến thêm một số bộ
ngành khác. Vì vậy, ảnh hưởng đến thời gian cấp giấy chứng nhận đầu tư gây khó
khăn cho cơ quan đăng ký đầu tư trong việc thực hiện thủ tục hành chính có liên


17
quan đến đầu tư doanh nghiệp. Qua trao đổi, phỏng vấn một số doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi thực hiện các thủ tục đầu tư đối với ngành nghề quy định
phải lấy ý kiến các bộ ngành có liên quan, thời gian thực hiện thủ tục kéo dài đến 12
tháng mà nhà đầu tư vẫn chưa được trả kết quả. Nhiều nhà đầu tư đã hủy hồ sơ thực
hiện cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Ví dụ như trường hợp Công ty mỹ phẩm Pháp nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy
chứng nhận đầu tư đầu năm 2016 đầu tư trong lĩnh vực bán buôn, xuất nhập khẩu
dầu thơm, mỹ phẩm. Theo quy định Nghị định số 23, Sở Kế hoạch và Đầu tư gửi hồ
sơ lấy ý kiến Bộ Công thương và cấp giấy chứng nhận đầu tư nếu được Bộ Công
Thương chấp thuận bằng văn bản. Qua hai lần gửi hồ sơ lấy ý kiến thẩm định việc
đáp ứng điều kiện kinh doanh, Bộ Công thương trả lời doanh nghiệp chưa giải trình
được việc đáp ứng điều kiện kinh doanh. Đến năm 2017, doanh nghiệp đã làm văn

bản hủy hồ sơ đăng ký đầu tư và đăng ký thành lập doanh nghiệp. Từ thực tế trên,
nhận thấy Ủy ban nhân dân tỉnh chưa có hướng dẫn cụ thể đối với việc thực hiện
các thủ tục hành chính nhất là việc thẩm định hồ sơ, đánh giá việc đáp ứng điều
kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngồi (đối với dự án có mục tiêu thuộc ngành,
nghề đầu tư có điều kiện).
Thứ hai, chưa có hướng dẫn thống nhất về hình thức, nội dung của một số
hồ sơ, giấy tờ quan trọng như: báo cáo năng lực tài chính (báo cáo tài chính 02 năm
gần nhất của nhà đầu tư, cam kết hỗ trợ tài chính của cơng ty mẹ, cam kết hỗ trợ tài
chính của các cơng ty tài chính, bảo lãnh về năng lực tài chính của nhà đầu tư, tài
liệu thuyết minh năng lực tài chính của nhà đầu tư).
Theo quy định tại Điều 33 Luật Đầu tư về hồ sơ, trình tự, thủ tục quyết định
chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Điều 37 Luật Đầu tư về thủ tục
cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, trong đó quy định một trong thành phần hồ sơ là
tài liệu thuyết minh năng lực tài chính của nhà đầu tư. Điều đáng nói ở đây, đối với
nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức và đã hoạt động kinh doanh trên 02 năm thì có thể
dùng báo cáo tài chính 02 năm gần nhất để thuyết minh hoặc cam kết hỗ trợ tài chính
của các cơng ty tài chính hoặc cam kết hỗ trợ tài chính của cơng ty mẹ. Tuy nhiên,
đối với nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân chưa có hoạt động kinh doanh tại nước
ngoài đăng ký thủ tục đầu tư tại Việt Nam thì khơng có báo cáo tài chính 02 năm gần
nhất để nộp và cũng khơng có cam kết hỗ trợ tài chính của cơng ty mẹ mà chỉ sử
dụng tài liệu thuyết minh năng lực tài chính hoặc cam kết hỗ trợ tài chính của các


18
cơng ty tài chính. Trong khi đó, Thơng tư 16/2015/TT-BKHĐT ngày 18/11/2015 của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định biểu mẫu thực hiện thủ tục đầu tư và báo cáo hoạt
động đầu tư tại Việt Nam không hướng dẫn chi tiết tài liệu thuyết minh năng lực tài
chính của nhà đầu tư. Do đó, các địa phương hướng dẫn nhà đầu tư thuyết minh năng
lực tài chính khơng giống nhau. Tại tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Sở Kế
hoạch Đầu tư yêu cầu thuyết minh năng lực tài chính do nhà đầu tư tự lập và tự chịu

trách nhiệm. Mỗi nhà đầu tư có thuyết minh tài chính khác nhau chủ yếu là nội dung
cam kết góp vốn theo quy định. Mặt khác, các văn bản quy định về đầu tư không
hướng dẫn rõ tài liệu bảo lãnh về năng lực tài chính của nhà đầu tư bao gồm các tài
liệu gì. Việc khơng quy định thống nhất tài liệu năng lực tài chính gây khó khăn cho
cơ quan đăng ký đầu tư trong việc hướng dẫn nhà đầu tư nước ngồi và thẩm định
chính xác năng lực tài chính của nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đăng ký đầu tư hàng trăm tỷ đơ la Mỹ có đầy đủ các tài liệu chứng minh năng
lực tài chính sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư khả năng triển khai các dự án
này sẽ rất khó khả thi theo đúng cam kết của nhà đầu tư do không đủ vốn đầu tư. Ví
dụ: Cơng ty đầu tư điện gió Woojin (Hàn Quốc), được Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre
cấp giấy chứng nhận đầu tư dự án điện gió với tổng vốn đầu tư là 300 tỷ đô la Mỹ.
Tài liệu thuyết minh năng lực tài chính kèm theo là cam kết hỗ trợ tài chính của tổ
chức tài chính tại nước ngoài. Tuy nhiên, sau 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đầu tư Công ty không triển khai thực hiện dự án do thiếu vốn.
Thứ ba, hướng dẫn cơ quan đăng ký đầu tư thẩm định công nghệ của dự án
đăng ký đầu tư. Theo quy định về thành phần hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương
phải có thẩm định về cơng nghệ của dự án đầu tư. Điểm e Khoản 1 Điều 33 Luật
Đầu tư 2014 quy định giải trình về sử dụng cơng nghệ đối với dự án quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 32 của Luật này gồm các nội dung: tên cơng nghệ, xuất xứ
cơng nghệ, sơ đồ quy trình cơng nghệ; thơng số kỹ thuật chính, tình trạng sử dụng
của máy móc, thiết bị và dây chuyền cơng nghệ chính; điểm b khoản 1 Điều 32 Luật
Đầu tư quy định ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương đối với dự án có
sử dụng cơng nghệ thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao theo quy định
của pháp luật về chuyển giao công nghệ. Tại một số địa phương, đã ban hành văn
bản hướng dẫn đối với trường hợp dự án có sử dụng cơng nghệ nói chung được thực
hiện trong quá trình cấp chủ trương đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư. Theo đó, cơ
quan đăng ký đầu tư yêu cầu nhà đầu tư nộp hồ sơ thẩm định khoa học công nghệ


19

theo quy định tại Thông tư số 03/2016/TT-BKHCN ngày 30/3/2016 của Bộ Khoa
học và Công nghệ. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đầu tư thì ủy ban nhân dân
cấp tỉnh chỉ xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án thuộc danh mục
công nghệ hạn chế chuyển giao, văn bản lại hướng dẫn trong mọi trường hợp đều
phải thẩm định về công nghệ. Mặt khác, Khoản 2 Điều 6 Nghị đinh số 118 quy định
“cơ quan đăng ký đầu tư không được yêu cầu nhà đầu tư nộp thêm giấy tờ khác
ngoài các giấy tờ trong hồ sơ đăng ký đầu tư theo quy định tại Luật Đầu tư và Nghị
định này”. Điều này làm cho việc hướng dẫn của các cơ quan quản lý đầu tư chưa
đồng bộ với các quy định chuyên ngành. Bên cạnh đó, về thẩm quyền chấp thuận
chủ trương đầu tư đối với các tổ chức khoa học và công nghệ quy định khoản 3
Điều 31 Luật Đầu tư 2014: “Dự án của nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực
kinh doanh vận tải biển, kinh doanh dịch vụ viễn thơng có hạ tầng mạng, trồng
rừng, xuất bản, báo chí, thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp
khoa học và cơng nghệ 100% vốn nước ngồi”. Tuy nhiên, Luật Khoa học và công
nghệ quy định việc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ thuộc thẩm quyền của
Bộ Khoa học và Công nghệ và Sở Khoa học công nghệ
Thứ tư, một số địa phương quá thận trọng trong việc chấp thuận chủ trương
đầu tư dự án có vốn đầu tư nước ngồi nên hướng dẫn cơ quan cấp giấy chứng nhận
đầu tư hướng dẫn nhà đầu tư nước ngoài thực hiện chủ tục chấp thuận chủ trương
khảo sát đối với dự án đầu tư có tính phức tạp như: đầu tư xây dựng kinh doanh hạ
tầng kết cấu cụm công nghiệp; dự án năng lượng mặt trời, năng lượng gió. Việc
hướng dẫn trên trái quy định của Luật Đầu tư gây khó khăn cho cơ quan đăng ký
đầu tư trong việc quản lý dự án đầu tư, khơng có căn cứ pháp lý để xử lý nhà đầu tư
trong trường hợp vi phạm.
Chẳng hạn, Công ty Green Solution (100% vốn đầu tư Hàn Quốc) liên hệ
Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện thủ tục đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư dự án
điện năng lượng mặt trời. Qua quá trình làm việc với nhà đầu tư, Ủy ban nhân dân
tỉnh hướng dẫn nhà đầu tư gửi văn bản đề nghị chấp thuận cho Công ty khảo sát lập
dự án đầu tư làm cơ sở thực hiện thủ tục đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư. Sau
buổi làm việc, Ủy ban nhân dân tỉnh có văn bản chấp thuận cho nhà đầu tư thực

hiện nghiên cứu khảo sát lập dự án đầu tư trong thời hạn 6 tháng. Sau khi có văn
bản của Ủy ban nhân dân tỉnh, Công ty đã gửi văn bản cho các đối tác để kêu gọi
góp vốn đầu tư. Do khơng đủ năng lực về tài chính nên Cơng ty đã không triển khai


20
thực hiện các thủ tục đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư như thỏa thuận. Sau thời
hạn quy định tại văn bản nhà đầu tư khơng hồn thành các thủ tục đề nghị chấp
thuận chủ trương đầu tư, Ủy ban nhân dân tỉnh đã thu hồi văn bản trên. Theo quy
định tại Luật Đầu tư ngoài thủ tục xin chủ trương đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu
tư thì cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư không được yêu cầu nhà đầu tư thực hiện
các thủ tục khác. Việc quy định thủ tục trên khơng có căn cứ pháp lý để thực hiện
và khơng có sự ràng buộc pháp lý đối với trường hợp nhà đầu tư vi phạm.
Thứ năm, hướng dẫn công tác phối hợp kiểm tra thông tin, thẩm định hồ sơ
cấp quyết định chủ trương đầu tư, giấy chứng nhận đầu tư giữa cơ quan đăng ký đầu
tư với các cơ quan đất đai, môi trường,… Ví dụ: dự án được ủy ban nhân dân tỉnh
cấp chủ trương đầu tư thực hiện dự án. Tuy nhiên khi nhà đầu tư triển khai thực
hiện dự án mới phát hiện còn một số hộ dân trong vùng dự án gây ra phản ứng của
các hộ dân. Từ tình huống trên nhận thấy trách nhiệm của cán bộ công chức khi
thẩm định hồ sơ chưa thực hiện hết nhiệm vụ của mình trong việc khảo sát địa điểm
trước khi cấp quyết định chủ trương đầu tư. Phối hợp kiểm tra thông tin giữa ủy ban
nhân dân tỉnh, các sở ngành tỉnh và ủy ban nhân dân cấp huyện, xã nơi thực hiện dự
án còn hạn chế. Tháng 8/2017, Cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi đăng ký thủ tục
đầu tư thực hiện dự án sản xuất xi-măng trên địa bàn tỉnh A, địa điểm thực hiện dự
án theo quy hoạch là đất trồng cây lâu năm. Sau khi Sở Kế hoạch và Đầu tư lấy ý
kiến của các sở chuyên ngành và địa phương đồng ý cho Cơng ty đầu tư dự án trên
trình Ủy ban nhân dân tỉnh cấp quyết định chủ trương cho công ty. Tháng 9/2017,
Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án của
Công ty. Tuy nhiên, trong q trình Cơng ty triển khai thực hiện dự án đầu tư,
người dân trong vùng dự án có sự phản ứng gay gắt với cơ quan quản lý nhà nước

về đầu tư với lý do khi dự án đi vào hoạt động sẽ gây ô nhiễm môi trường xung
quanh. Tháng 11/2017, ủy ban nhân dân ban hành quyết định thu hồi quyết định chủ
trương đầu tư.
Thứ sáu, quy định của Luật Đầu tư năm 2014 chồng chéo với quy định của
các Luật chuyên ngành khác gây khó khăn cho cơ quan quản lý đầu tư trong việc
hướng dẫn thực hiện thủ tục đầu tư. Khoản 1 Điều 33 Luật Đầu tư năm 2014 không
yêu cầu cung cấp báo cáo đánh giá tác động môi trường do cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt thủ tục, hồ sơ yêu cầu quyết định chủ trương đầu tư. Trong khi đó, Khoản
2 Điều 25 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định quyết định phê duyệt báo


21
cáo đánh giá tác động môi trường là căn cứ để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra
quyết định chủ trương đầu tư dự án. Qua thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả nhận
thấy việc yêu cầu nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục phê duyệt báo cáo đánh giá tác
động môi trường trước thời điểm quyết định chủ trương đầu tư hoặc cấp Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư là phù hợp với thực tế quản lý tại địa phương. Tuy nhiên, theo
quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư: trường hợp có quy định khác nhau giữa
Luật này và luật khác về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh; ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư thì thực hiện theo quy định của
Luật này, trừ trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh theo quy định tại Luật Chứng
khốn, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Dầu khí. Vì
vậy, vấn đề đặt ra là các quy định của pháp luật cần có sự thống nhất, đồng bộ,
tránh chồng chéo gây khó khăn trong q trình tiếp nhận, thẩm định và cấp giấy
chứng nhận đầu tư.
Mặt khác, theo quy định từ Điều từ 20 đến Điều 23 của Luật doanh nghiệp
năm 2014 đối với từng loại hình doanh nghiệp, khi đăng ký thành lập sẽ được yêu
cầu chi tiết thành phần hồ sơ. Để tránh lạm quyền của Cơ quan đăng ký kinh doanh,
tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định 78/2015/NĐ-CP quy định “Cơ quan đăng ký kinh
doanh không được yêu cầu người thành lập doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp nộp

thêm hồ sơ hoặc giấy tờ khác ngoài các giấy tờ trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
theo quy định”. Bên cạnh đó, đối với một số ngành nghề kinh doanh khi đăng ký
thành lập doanh nghiệp thì cần có giấy phép cho phép thành lập trước của các Bộ
Chuyên ngành. Ví dụ lĩnh vực sản xuất phim (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cấp),
Tín dụng (Ngân hàng Nhà nước cấp),… Vậy khi yêu cầu nộp thêm Sở Kế hoạch và
Đầu tư đã vi phạm quy định của khoản 2 Điều 9 Nghị định 78/2015/NĐ-CP. Tuy
nhiên, nếu Sở Kế hoạch và Đầu tư khơng u cầu thì lại vi phạm các quy định của
Luật chuyên ngành khác.
Để đảm bảo công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, môi
trường, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Công văn chỉ đạo các sở ngành tỉnh,
trong đó u cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư khơng tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh
phê duyệt chủ trương đầu tư đối với dự án có sử dụng cơng nghệ lạc hậu, có nguy
cơ gây ơ nhiễm mơi trường cao, các dự án đầu tư mà việc sử dụng đất chưa phù hợp
theo quy hoạch về đất đai; không cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án không
phù hợp quy định về môi trường, đất đai. Việc quy định trên, đã hạn chế quyền tự


×